(ĐVO) Lăng là nơi chôn cất, thờ cúng các vị vua; tùy theo điều kiện, hoàn cảnh, quan niệm mà các lăng được xây dựng với quy mô cầu kỳ hoàng tráng hay đơn giản, lớn hoặc nhỏ khác nhau. Thế nhưng có một điều rất đặc biệt, trong lịch sử nước ta chỉ có các vua triều Lư là không xây lăng cho ḿnh.
Nơi yên nghỉ của các Ngài chỉ là những ngôi mộ đắp đất, không dựng bia, đơn giản như mộ của những người dân thường.
Điều lạ lùng này xuất phát từ tư tưởng thương dân, không muốn làm tốn kém tiền bạc, làm nhọc sức dân của Lư Thái Tổ, vị vua khai sáng vương triều Lư. Lư Thái Tổ tên húy là Lư Công Uẩn, sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974) tại chùa Ứng Tâm, châu Cổ Pháp (nay thuộc huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh).
Bia mộ dựng trước gian thờ Lư Thánh mẫu.
Thân sinh của vua không rơ tên, chỉ biết rằng năm Canh Tuất (1010) được vua tôn phong làm Hiển Khánh Vương, c̣n trong dă sử và giai thoại dân gian có nhiều thuyết kỳ lạ về việc ai là cha của Lư Thái Tổ. Thân mẫu vua là bà Phạm Thị Ngà, người làng Dương Lôi, hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp, sau khi lên ngôi ông đă truy phong bà làm Minh Đức thái hậu.
Trong số các truyện kể mờ ảo về người cha của vua Lư Thái Tổ, có thuyết cho hay ông vốn nhà nghèo phải đi làm thuê tại chùa Tiên Sơn, ở đây ông đă phải ḷng một tiểu nữ và làm cô có thai. Biết chuyện này, nhà chùa không cho họ ở đó nữa mà buộc phải đi chỗ khác, hai người đành dẫn nhau đến một khu rừng rậm gọi là rừng Báng, mệt quá bèn dừng lại nghỉ chân.
Để vợ ngồi chờ, người chồng khi t́m nước uống để qua cơn khát, đến bên một bờ giếng giữa rừng, ông cúi xuống lấy nước, chẳng may sẩy chân, ngă xuống chết đuối. Người vợ đợi măi mà chồng không quay về bèn đi t́m nhưng chẳng thấy; đến giếng xem th́ đất đă đùn lấp kín cả giếng. Biết chuyện chẳng lành xảy ra với chồng, người phụ nữ khóc lóc một hồi rồi xin vào nghỉ nhờ ở một ngôi chùa gần đó.
Đêm hôm trước, sư trụ tŕ của chùa nằm mơ thấy Long thần báo mộng rằng: “Hăy dọn chùa cho sạch, ngày mai có Hoàng đế đến”. Tỉnh dậy, nhà sư sai người làm theo lời nói đó rồi chờ đợi, thế nhưng măi chẳng có ai tới chùa ngoài một thiếu phụ có thai đến xin ngủ nhờ.
Vài tháng sau, vào một đêm ở khu Tam quan của chùa bỗng rực sáng, hương thơm lan toả, người thiếu phụ kia chuyển dạ sinh một con trai trên hai bàn tay có 4 chữ “sơn hà xă tắc”, sau đó trời bỗng nổi gió lớn mưa to như trút nước, người mẹ sinh xong th́ mất, mối đùn lên một đống lớn; ừ đó người dân gọi chùa Ứng Tâm bằng một tên khác là chùa Rặn (gọi chệch là chùa Dận).
Gian thờ tại mộ Lư Huệ Tông.
Nghe tiếng khóc lớn của đứa trẻ, các nhà sư vội chạy ra đưa vào trong Phật điện dỗ dành nhưng ai bế cũng không nín. Khi sư trụ tŕ chùa là Lư Khánh Văn đưa tay bồng th́ cậu bé im bặt và c̣n nh́n sư nhoẻn miệng cười. Biết đây là cơ duyên đưa tới, nhà sư liền nhận làm con nuôi, lấy theo họ Lư và đặt tên là Công Uẩn…
Tháng 2 năm Canh Tuất (1010), sau khi lên ngôi ít lâu, Lư Thái Tổ từ kinh đô Hoa Lư về thăm quê hương Cổ Pháp, khi đến khu rừng Báng, nơi cha mẹ ḿnh từng nghỉ chân, ông “trông thấy cây cối xanh tốt, loài chim bay liệng, cảm động rớt nước mắt, sai đo mười dặm đất, chọn làm cấm địa Sơn Lăng” và lấy đây là nơi yên nghỉ của ḿnh.
Các vua Lư sau khi mất đều an táng ở đó, gọi là Thọ Lăng Thiên Đức, ngoài ra tại đây c̣n có lăng của một số bà hoàng triều Lư như lăng Phát Tích (Lư Thánh mẫu), lăng Nương Dâu (Ỷ Lan),.... Khu vực “sơn lăng cấm địa” này ngày nay thuộc thôn Cao Lâm, xă Đ́nh Bảng, huyện Từ Sơn (Bắc Ninh).
Theo phong thủy, Thọ Lăng Thiên Đức có 8 đường cao và 8 dọc nước, từ trên cao nh́n xuống, tựa như những đầu rồng nên c̣n được gọi là Bát Long, Bát Thủ, cùng chầu vào lăng Phát Tích, nơi an nghỉ của Lư Thánh Mẫu Minh Đức Hoàng Thái Hậu Phạm Thị (tức bà Phạm Thị Ngà, mẹ vua Lư Thái Tổ).
Trong tấm bia “Cổ Pháp điện tạo bi” dựng năm Giáp Th́n (1604) đời vua Lê Kính Tông có đoạn viết: “Vận trời sinh ra chúa sáng đều ứng vào người có đức, có tài. Mở đầu khi sinh ra chúa sáng tuy rằng mệnh trời hưng vượng, thực có nơi thắng địa; đất Cổ Pháp là nơi thắng địa bậc nhất Kinh Bắc. Lăng Phát Tích, đất gối đầu của tám con rồng, h́nh tượng đẹp muôn h́nh muôn vẻ, vượng khí tốt toát lên nơi này rất linh thiêng, cho nên nảy sinh tám vua triều Lư được lâu dầy độc đáo”.
Sách sử cho biết, ngày mồng 3 tháng 3 năm Mậu Th́n (1028), Lư Thái Tổ lâm bệnh mất, thọ 54 tuổi. Dă sử th́ truyền rằng trước khi băng hà, vua đă căn dặn các quan: “Khi ta mất, không được xây lăng to đẹp bằng gạch đá mà mộ chỉ cần đắp bằng đất để đỡ tốn tiền bạc của dân. Quân lính và thường dân nếu có thương nhớ vua th́ cứ lấy đất đắp lên, càng cao càng quư.
Khi mộ cao, cỏ mọc nhiều th́ trâu ḅ sẽ có thức ăn trở nên béo khoẻ, có sức để cày ruộng cho dân. Đây cũng là nơi vui chơi của trẻ mục đồng; càng gần với vua, các em càng nhớ tới công ơn của các vị tiền nhân, sẽ trở thành người tốt”.
Theo lời truyền dặn của ông, chỗ an táng các đời vua Lư đều không xây lăng mà chỉ xây mộ nhỏ, sau đó phủ đất lên trên. Tuy chỉ là mộ nhưng v́ là nơi yên nghỉ của các bậc đế vương nên các triều đại sau đó đều gọi là lăng, đặc biệt đến đời Hậu Lê ngoài việc trùng tu, mở rộng nơi thờ các Ngài là đền Lư Bát Đế (c̣n gọi là đền Đô, đền Cổ Pháp…) triều đ́nh đă đắp đất lại và cho xây gạch tại các mộ vua Lư cho cao hơn mặt ruộng từ 15-20m, gọi khu vực đó là Lư triều lăng miếu, đồng thời cho biết tại Đống Cao xứ có 2 lăng, Đống Sáo xứ có 1 lăng, Vườn Vọng xứ có 1 lăng, Đường Muội xứ có 1 lăng, Đường Phong xứ có 2 lăng và Thổ Liệt xứ có 1 lăng.
Tấm bia “Cổ Pháp điện tạo bi”c̣n có đoạn viết về lệnh cấm của triều Lê như sau: “Ruộng phụng sự cày cấy dùng vào việc thờ cúng, tế lễ đền Cổ Pháp không ai được chiếm đoạt. Các sơn lăng cấm địa ở khu Đường Thuẫn, Long Vĩ, Đống Sáo, Ngơ Lọ, Đồng Găng, đường Cây Găng, đường Ruột Bến đều là lăng nội cấm địa, mọi người không được khai phá, đẵn cây cối, nhà cửa của dân phải dời ra nơi khác”. Sách “Đại Nam nhất thống chí” soạn vào đời Nguyễn cũng có đoạn viết: “Khu đất rộng chừng trăm mẫu, cây cổ thụ um tùm, là cấm địa và là thang mộc ấp của nhà Lư. Ruộng Sơn Lăng được coi là ruộng công vĩnh viễn, giao cho dân xă sở tại chia nhau cầy cấy, nộp một phần hoa lợi để chi phí vào việc thờ phụng các vua nhà Lư, sửa sang và bảo vệ lăng tẩm”.
Ngoài lăng Lư Thái Tổ h́nh ḷng chảo (c̣n gọi là lăng Ḷng Chảo), lăng các vua Lư khác đều xây h́nh chóp nón được gọi bằng các tên dân dă như lăng Cả (lăng Lư Thái Tông), lăng Hai (Lư Thánh Tông), lăng Ông Voi (Lư Nhân Tông), lăng Đường Gio (Lư Thần Tông), lăng Đường Thuẫn (Lư Anh Tông), lăng Thủ Sơn (Lư Cao Tông), lăng Long Tŕ (Lư Huệ Tông); riêng mộ Lư Chiêu Hoàng được đặt bên b́a rừng Báng được gọi là lăng Cửa Mả.
Nơi yên nghỉ của các vua triều Lư từ bao đời nay, trải qua bao mưa gió thời gian và những cơn binh lửa chiến tranh nhưng vẫn được người dân chăm sóc, bảo vệ, giữ ǵn cẩn thận. Thời gian gần đây chính quyền và nhân dân địa phương đă xây dựng thêm trước mỗi mộ vua một gian thờ nhỏ và xây tường gạch bao quanh, trên mộ có dựng tấm bia hai mặt chữ Quốc ngữ và chữ Nho khắc chữ ghi miếu hiệu, tên húy, thời gian ở ngôi báu, tuổi thọ và ngày giỗ của các vua nhà Lư.
Lê Thái Dũng