Kỳ 1: Yếu tố Phật giáo Trí Quang
Nhóm Phật giáo do Thích Trí Quang cầm đầu là tác nhân chính đưa đến cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 và hai anh em ông Diệm bị giết. Biến cố lịch sử này gây xáo trộn chính trị và xă hội miền Nam trong nhiều năm. Người Mỹ đổ bộ vô miền Nam trong lúc các tướng lănh c̣n đang tranh giành quyền lực ở Sài g̣n.
Người Mỹ đổ quân vào VNCH, không thông qua bất kỳ một hiệp ước nào. Cũng không có một sự đồng thuận của quốc dân (thông qua một cuộc trưng cầu dân ư). Việc "tự tiện" này của Mỹ giúp cho CSVN có được tính "chính danh" trong cuộc "chống Mỹ cứu nước" và "giải phóng miền Nam". Từ đó đưa đến sự cáo chung của chế độ VNCH ngày 30-4-1975.
***
Phe Phật giáo của nhóm Ḥa thượng Trí Quang cho rằng, chế độ ông Diệm đáng bị lật đổ v́ đó là “chế độ độc tài gia đ́nh trị”. Điều này cần phải nói lại, v́ đây là một vấn đề chính trị.
Ông Diệm có độc tài hay không?
Về độc tài, nếu so sánh ông Diệm với ông Hồ, hay những lănh đạo châu Á cùng thời như Marcos, Tưởng Giới Thạch, Sukarno, Mao Trạch Đông... th́ rơ ràng là so sánh ly nước với biển cả.
Ông Diệm, vào thời điểm chủ nghĩa Mao Ít bành trướng mạnh mẽ ở châu Á, ông có thể hành động như lănh tụ Sukarno của Indonesia. Năm 1965, Sukarno đàn áp rồi tiêu diệt gần 1 triệu đảng viên cộng sản Indonesia. Ông Diệm đă không làm như vậy.
Ông Diệm cũng không thể so sánh với ông Mao và ông Hồ. Hai ông này được "Sách đen cộng sản" nhắc tới. Ông Mao với "bước tiến nhảy vọt" làm chết từ 30 tới 40 triệu người. Ông Hồ th́ (sơ sơ) 4 triệu.
Ngay cả với Tưởng Giới Thạch cũng làm hại đâu khoảng 28 ngàn người Đài Loan nhân vụ 28 tháng 2.
Biến cố "Phật giáo" năm 1963 do Ḥa thượng Trí Quang lănh đạo, có xảy ra vụ "thảm sát đài phát thanh 8 tháng 5", làm chết 7 trẻ em. Vụ này có nhiều gút mắc, sẽ nói lại bên dưới.
Ngay cả bây giờ, nếu so sánh ông Diệm với ông Trọng, hay ông Mahathir [Mohamad] của Mă Lai hay đám quân phiệt Thái Lan và Miến Điện... th́ ông Diệm vẫn "ít độc tài" hơn. Đất nước thời đó trong t́nh trạng chiến tranh (chiến tranh tự vệ ư thức hệ) mà trí thức, chính trị gia, tôn giáo... được hưởng các đủ quyền tự do cá nhân, c̣n hơn cả Mă Lai hay Indonesia bây giờ.
Việt Nam ngày nay người dân có được hưởng những quyền tự do như dưới thời ông Diệm hay không? Không có ǵ cả!
Đó là chưa nói tới phẩm chất về giáo dục, về đạo đức, thuần phong mỹ tục được bảo vệ… của nền cộng ḥa ở miền Nam. Con người sinh ra ở đây là con người có “tâm”, có đạo đức. Người có học th́ là có “thực học”. Học đường thầy ra thầy, tṛ ra tṛ. Xă hội tôn ti trật tự, luật pháp được tôn trọng.
Trật tự của xă hội này đă bị phá vỡ từ năm 1975. Các giá trị về con người, về nền pháp trị (trọng luật)... ở đây không bao lâu cũng bị tẩy xóa, rồi nhồi nhét vào những giá trị mới. Những giá trị này có bản sắc thế nào hẳn nhiên mọi người điều biết, không cần giải thích thêm.
Về vấn đề “gia đ́nh trị”
Thực tế cho thấy ông Diệm phong cho bào đệ Ngô Đ́nh Nhu chức cố vấn. Nếu bây giờ ta so sánh gia đ́nh tổng thống Diệm với gia đ́nh tổng thống John F. Kennedy hay gia đ́nh tổng thống Donald Trump… các tổng thống này đều phong cho người nhà của ḿnh chức vụ “cố vấn”.
Trong một xă hội dân chủ pháp trị, người ta chỉ dị nghị, hay phản đối, chỉ khi tổng thống làm những điều trái luật.
Việc phong cho bào đệ làm cố vấn là không hề vi phạm luật dưới thời Đệ nhứt Cộng ḥa. Ngay cả việc bà Nhu, một phụ nữ Tây học vừa có nhan sắc vừa thông minh sắc sảo, ưa làm các việc xă hội… do đó bà thường bị (hay được) truyền thông nước ngoài nhắm tới. Điều này không khác với cuộc đời và sự sinh hoạt của các mệnh phụ phu nhân Melania Trump, Jacqueline Kennedy, Brigitte Macron…
Với bấy nhiêu “bằng chứng” không ai có thể kết luận, nói chế độ đó là một chế độ “gia đ́nh trị”.
Nếu ta so sánh, 56 năm sau, giữa chế độ gọi là “gia đ́nh trị” của ông Ngô Đ́nh Diệm với chế độ độc tài công an trị bây giờ. Bây giờ một người làm quan cả họ cũng làm quan. Đồng chí cha kê ghế cho đồng chí con. Điều này xảy ra hầu hết nơi cán bộ lănh đạo CSVN hiện nay. Đồng chí chồng kê ghế cho đồng chí vợ. Đồng chí anh bảo lănh cho đồng chí em. Chuyện của “đồng chí” Triệu Tài Vinh bí thư tỉnh Hà Giang cả họ 8 người đều làm quan trong một tỉnh là một thí dụ.
Vấn đề vi phạm hiệp định Genève nhằm xây dựng quốc gia miền Nam độc tôn Thiên Chúa giáo. Bây giờ tài liệu đă bạch hóa ra hết rồi mà vẫn c̣n nhiều “Phật tử” sử dụng những tài liệu tuyên truyền của cộng sản từ thời chiến tranh lạnh.
Có tác giả nhắc đến Hiệp định Genève 1954, cho rằng ông Diệm đă không tuân theo nội dung hiệp ước này về khoản “thống nhứt đất nước”. Ông Diệm có mục đích tách miền Nam ra khỏi đất nước Việt Nam, xây dựng vùng lănh thổ này thành một nước riêng biệt, một quốc gia độc tôn Thiên Chúa giáo... (Phong trào Phật giáo miền Trung - Huế, từ chấn hưng đến dân thân - Chu Sơn, Viet-studies).
Vấn đề Hiệp định Genève 1954
Không hề có vụ vi phạm “hiệp định Genève 1954” đơn giản v́ cả hai VNCH và Mỹ đều từ khước kư vào hiệp định.
Và ngay khi ông Diệm từ chối vụ tổng tuyển cử, ông Hồ vịn vào lư do này để đánh miền Nam. Th́ cuộc chiến tranh xảy ra sẽ phải là cuộc “nội chiến” mang tên “chiến tranh thống nhứt đất nước”.
Sự thật đă phơi bày từ hơn bốn thập niên qua mà sử gia Việt Nam vẫn không thay đổi cái nh́n của họ. Thứ nhứt, về bản chất cuộc chiến. Thứ hai, về cá nhân các lănh đạo miền Nam.
Thời ông Diệm, Mỹ chưa đổ vô Việt Nam, th́ làm ǵ có “chiến tranh giải phóng” với các chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”, “đánh cho Mỹ cút ngụy nhào”? Mỹ có mặt ở Việt Nam là “thay” Pháp, mỗi quân Pháp với một quân Mỹ, đúng theo nội dung Hiệp định Genève là không đổ thêm quân. Trong khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam th́ đă lập từ tháng 7 năm 1960.
Cuộc chiến như vậy không phải là "chiến tranh giải phóng" và chính quyền VNCH không phải là "chính quyền tay sai".
Lịch sử đă bạch hóa: Anh em ông Diệm chết v́ không cho Mỹ đổ quân vô Việt Nam.
Tài liệu khác cho thấy, trận Ấp Bắc, ông Nhu có mục đích "gài" Mỹ để thua trận này, hy vọng Mỹ (thấy khó khăn) sẽ không đổ quân. Ông Nhu cũng từng nói (trong tài liệu bạch hóa đó) là quân CSVN dầu ǵ cũng là "người Việt". Tức là ông Nhu có ư định thương lượng với ông Hồ để t́m phương cách "thống nhứt đất nước". Vấn đề là, Mỹ không thể không can thiệp vào Việt Nam (v́ lo ngại cả Châu Á sẽ theo cộng sản, thuyết Domino sẽ nói ở dưới). Trận Ấp Bắc là cho chính quyền Mỹ thấy rằng nếu không đổ thêm quân, Mỹ và quân VNCH không thể thắng Việt Cộng.
Đến đây ta có thể phác họa sơ khai về vai tṛ của ḥa thượng Trí Quang. Việc gây hỗn loạn xă hội bằng cách sử dụng Phật giáo khiêu khích nhà cầm quyền, qua những việc “thiêu” và “tự thiêu” các tu sĩ Phật giáo, cùng với sự phóng đại của báo chí. Chính quyền ông Diệm bị dư luận quốc tế lên án v́ đàn áp tôn giáo, nhứt là ở Mỹ và Pháp. Việc này làm quần chúng Mỹ phẫn nộ và chính quyền Mỹ có cớ can thiệp, lật đổ ông Diệm để đổ quân vào Việt Nam.
Người ta đồn đăi Ḥa thượng Trí Quang là nhân viên CIA của Mỹ, v́ vậy là có căn cứ.
Việc xây dựng quốc gia VNCH độc lập
Nếu ta có tham khảo tập tài liệu “Why Vietnam”, c̣n gọi là tập bạch thư của Mỹ công bố thập niên 1960, giải thích v́ sao Mỹ can thiệp vô Việt Nam. Ta thấy rằng các chính quyền của Mỹ có ư định ủng hộ một quốc gia VNCH độc lập với miền Bắc. Các đời tổng thống Mỹ nhiều lần hứa hẹn giúp cho ông Diệm, cũng như với ông Thiệu sau này, xây dựng một “quốc gia Việt Nam độc lập và phú cường”.
Việc này thất bại, v́ đa số giới tinh hoa chính trị Việt Nam thời đó đều là người gốc Bắc di cư. Bằng chứng là sau này Hiệp định Paris 1973, Mỹ tái khẳng định Việt Nam là một quốc gia duy nhứt, thống nhứt ba miền Bắc Trung Nam, theo đúng như nội dung của Hiệp định Genève.
Ông Diệm (hay ông Thiệu) có nhiều cơ hội để tuyên bố VNCH là một quốc gia độc lập. Ngay cả Liên Xô, đế quốc cộng sản đỡ đầu cho miền Bắc, đă từng đề nghị hai miền trở thành các quốc gia độc lập.
Và từ việc không thuyết phục được các lănh đạo VNCH tuyên bố độc lập, Mỹ đă thất bại trong cuộc chiến Việt Nam.
Các liên minh như “liên pḥng Đông Nam Á - SEATO” cũng như các đạo quân của Nam Hàn, Phi, Thái Lan… không thể ở lại Việt Nam để can thiệp vào cuộc chiến như dự định của Mỹ. Nguyên tắc của LHQ về “quyền tự vệ chính đáng” và quyền “tự vệ đa phương” chỉ áp dụng cho các quốc gia. VNCH chưa bao giờ là một quốc gia, v́ vậy các lực lượng quân sự này lần lượt rút về. Hiệp định Paris 1973 kư kết th́ Mỹ cũng không c̣n lư do ở lại Việt Nam. V́ vậy ông Nguyễn Tiến Hưng mới viết cuốn “Khi đồng minh tháo chạy”.
Quốc gia độc tôn Thiên Chúa giáo
Ư kiến cho rằng, ông Diệm muốn tách miền Nam ra để lập một quốc gia là một ư kiến chủ quan, rất sai. Cho rằng quốc gia đó là quốc gia “độc tôn thiên chúa giáo” lại càng sai hơn.
Đến nay vẫn c̣n có những bài viết của các tu sĩ đó, cho rằng người theo đạo Thiên Chúa lấy tổ quốc là Vatican để phục vụ. Hoặc cho rằng đạo Thiên Chúa giáo là “ngoại lai”, là “thông đồng với giặc” v́ du nhập từ Tây phương.
Những tu sĩ theo Ḥa thượng Trí Quang rơ ràng đă kế thừa tinh thần của “b́nh tây sát tả”, phong trào tiêu diệt người theo Thiên Chúa giáo, thời Pháp mới vào Việt Nam. Những nhận định này vừa sai vừa nguy hiểm. Bởi v́ ngoài đạo thờ ông bà, mọi tôn giáo ở Việt Nam đều du nhập từ nước ngoài.
Theo tôi, theo đạo nào, Thiên Chúa hay Phật, tất cả đều là “dân tộc” Việt Nam hết cả.
Tất cả các quốc gia mà dân chúng đa số theo đạo Thiên Chúa giáo, chắc cũng khoảng phân nửa dân số địa cầu, ta không thấy quốc gia nào phụ thuộc chính trị vào Vatican. Đơn giản v́ đó không phải là mục đích của Vatican và các quốc gia đó đều tách “thần quyền” ra khỏi “thế quyền”. Người theo đạo Thiên chúa hay theo đạo Hồi, đạo Phật ở các quốc gia này đều được đối xử b́nh đẳng về quyền và trách nhiệm. Tôn giáo hoàn toàn đứng ngoài bộ máy quyền lực của nhà nước.
Nguồn gốc của chiến tranh
Ông Cao Huy Thuần, một “đệ tử ruột” của thầy Trí Quang có bài viết đăng trên Viet-studies, BBC đăng lại, tựa đề “Thầy Trí Quang: Một trang lịch sử”. Trong đó ông có ư kiến rằng "Thừa kế Diệm tức là tiếp tục chiến tranh và dựa trên chiến tranh để nắm quyền".
Ông Thuần có thể xem là “đại diện” của phe theo thầy Trí Quang?
Quan điểm xem ông Diệm như là “nguồn gốc của chiến tranh” là một quan điểm hồ đồ, đổi trắng thành đen.
Thực ra, theo tôi, th́ ngay cả thay ông Diệm là Đức Phật th́ chiến tranh cũng xảy ra. Bởi v́ đảng CSVN đă chuẩn bị chiến tranh từ tháng 7 năm 1960, qua việc thành lập Mặt trận Dân tộc Giải Phóng Miền Nam. Tổ chức này đă được thành lập theo nội dung nghị quyết Đại hội đảng lần thứ ba, trực thuộc Trung ương cục Miền Nam của đảng.
Trong cuộc chiến này, ông Diệm, và cả chế độ VNCH, là nạn nhân, đứng trong vai tṛ tự vệ. Phe Cộng sản miền Bắc là chủ mưu, mở màn cho chiến tranh, bằng những cánh tay nối dài, như các phong trào “ḥa b́nh”, phong trào phản chiến, phong trào Phật giáo và Mặt trận Giải phóng Miền Nam.
Quân Mỹ đổ vô miền Nam không hề “cướp nước” và chính quyền VNCH không hề là chính quyền tay sai. Nếu viết như các giáo hữu Phật giáo th́ quân Mỹ ở Nhật, Nam Hàn, Đài Loan, Tây Đức… trước kia không lẽ cũng là “quân cướp nước” và các chính quyền ở đó đều là “chính quyền tay sai”?
Tác giả khác, tên Chu Sơn, bài viết cũng đăng trên VietStudies, nhân dịp Ḥa thượng Trí Quang viên tịch. Tác giả viết: “Sau gần một trăm năm kháng chiến với rất nhiều đau thương, mất mát, hy sinh, vào giai đoạn cuối, nhân dân Việt Nam với sự lănh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản đă giành lại độc lập, chủ quyền trên một nửa đất nước: miền Bắc. Một nửa c̣n lại: miền Nam, nằm trong ṿng kim cô của đế quốc Hoa Kỳ”.
Thiệt t́nh, chiến sĩ văn hóa “nói xuôi cũng được, nói ngược cũng xong”. Nếu nói miền Nam “nằm trong ṿng kim cô của đế quốc Hoa Kỳ” th́ Nhật, Nam Hàn, Đài Loan và Tây Đức… đều nằm “trong ṿng kim cô của đế quốc Hoa Kỳ”. Những quốc gia này đă trở thành giàu mạnh thuộc hàng “đại cường” về kinh tế trên thế giới. Các quốc gia này được như ngày hôm nay là “nhờ” ở cái “niền kim cô” của Mỹ.
Trong khi miền Bắc, đến nay cái niền kim cô “chủ nghĩa cộng sản” c̣n chưa gỡ ra. Cuộc chiến “đánh Mỹ cứu nước” thực tế là “đánh Mỹ cho Liên Xô, cho Trung Quốc”. Miền Bắc v́ vậy có tới ba cái niền kim cô có thực.
C̣n về nhận định “độc lập chủ quyền trên một nửa đất nước”, cũng nên xét lại.
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa của ông Hồ thời đó mọi thứ đều làm theo chỉ thị của “quốc tế vô sản”, mà thực tế tùy theo lúc “quốc tế vô sản” là Liên Xô hay là Trung Quốc. Trận Điện Biên Phủ từ cây súng cho tới viên đạn, tất cả đều đến từ Trung Quốc. Việt Nam chỉ có máu xương và ḷng thù hận. Nếu Mao Trạch Đông không thắng được Tưởng Giới Thạch 1949 th́ sẽ không bao giờ có “chiến thắng Điện Biên Phủ”. V́ vậy nói chiến thắng này là “đỉnh cao tự hào của dân tộc” là quá lố.
Ngay Hiến Pháp hiện thời, lời mở đầu cũng đă ghi nhận công ơn của “bạn bè thế giới”. Bạn bè này là ai, nếu không phải là Liên Xô và Trung Quốc? Đến nay Việt Nam vẫn chưa chế tạo được các thứ vũ khí đă dùng cho chiến trường Điện Biên Phủ. Dĩ nhiên không có sự hy sinh nào cao quư hơn máu xương, nhưng nếu không có vũ khí th́ với "tầm vông vạt nhọn", Việt Nam vẫn không làm được cái ǵ.
Các quốc gia Việt Nam, Đại Hàn, Đức, và Trung Hoa đều là những “quốc gia bị phân chia”, có hoàn cảnh lịch sử khá tương đồng và sự hiện diện của quân Mỹ ở các quốc gia này đều có chung mục đích là chống cộng sản xâm lược.
Mỹ có mặt ở Nam Hàn ban đầu là do Nghị quyết của Đại hội đồng LHQ. Mỹ có mặt ở Nhật là do Hiệp ước hỗ tương từ 1951. Mỹ có mặt ở Đức do thỏa thuận “phân chia vùng ảnh hưởng” của các đại cường chiến thắng Thế chiến thứ II.
Thuyết Domino của Mỹ ra đời sau bốn biến cố liên tục ở châu Á, có liên quan đến cộng sản, đặc biệt là Trung Quốc và Liên Xô.
Năm 1949, Quốc Dân đảng thua, Tưởng Giới Thạch phải di tản ra Đài Loan. Năm 1950, Bắc Hàn xâm lược Nam Hàn, với sự trợ giúp của “chí nguyện quân” Trung Quốc. Năm 1954 nhờ sự giúp đỡ của Mao Trạch Đông, khí giới lẫn cán bộ cố vấn. Nhờ đó ông Hồ thắng Pháp qua trận Điện Biên Phủ.
Song song với việc giúp đỡ Việt Nam, Mao Trạch Đông cũng đă cho tổ chức các lực lượng vũ trang cách mạng ở các quốc gia như Phi, Thái Lan, Indonesia v.v…V́ lo ngại thừa dịp chiến thắng Điện Biên Phủ, đồng thời lo sợ Trung Quốc lợi dụng địa bàn Việt Nam để trả thù cho chiến tranh Triều Tiên. Trung Quốc sẽ tiếp tục yễm trợ cho VNDCCH của ông Hồ để nhuộm đỏ miền Nam. Việc này xảy ra th́ toàn khu vực Châu Á sẽ nhuộm đỏ. V́ vậy, Mỹ viện trợ cho Pháp để chống Việt Minh. Rốt cục Pháp thua và Mỹ muốn vào Việt Nam thế chỗ của Pháp.
Chướng ngại vật để Mỹ đổ quân vô Việt Nam, thứ nhứt là nội dung Hiệp định Genève, theo đó các bên không được đổ thêm quân. Thứ hai là ông Ngô Đ́nh Diệm.
Về Hiệp định Genève, Mỹ là bên không kư. Chỉ c̣n lại Ngô Đ́nh Diệm.
Ông Trí Quang đă đắc lực giúp cho người Mỹ dẹp bỏ ông Diệm.
Mỹ đổ quân vào Việt Nam như nhà không chủ, trong lúc các tướng lănh c̣n đang tranh giành quyền lực ở Sài G̣n.
V́ vậy người ta có lư khi cho rằng thầy Trí Quang là gián điệp CIA của Mỹ. Điều này khó có thể kiểm chứng v́ cơ quan CIA (Trung ương T́nh báo cục) của Mỹ không có thói quen tiết lộ lai lịch của người cộng tác.
Vấn đề là, khi Mỹ đổ quân vào rồi, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam mới có cớ dựng cờ “đánh Mỹ cứu nước” và hoạt động công khai. Quân miền Bắc cũng đồng thời bước qua vĩ tuyến 17 tiến vào miền Nam.
Nhiều người khác cũng cho rằng thầy Trí Quang là đảng viên, là “cán bộ xách động và tuyên truyền” của đảng CSVN gài vào miền Nam để quấy rối. Ư kiến này cũng thuyết phục.
Ta cũng không dễ lấy bằng chứng từ đảng CSVN. Nhưng từ những trang tự truyện của thầy, ta đă thấy có sự quan hệ giữa thầy và đảng CS. Lúc thầy Trí Quang đọc "Bản tường tŕnh sự cần thiết thành lập Mặt trận Việt Minh" của Trường Chinh, nội dung nói rơ quan điểm “giải phóng dân tộc”, ta thấy giống y cái cảnh Nguyễn Tất Thành đọc bản “luận cương về các vấn đề dân tộc” của Lê nin. Nguyễn Tất Thành trở thành “đồng chí” Linov với nhiệm vụ “xách động và tuyên truyền - Agiprop”. Th́ ta có thể suy luận tương tự Ḥa thượng Trí Quang được đưa vào Nam để làm nhiệm vụ tương tự.
Và đây cũng là lư do giải thích v́ sao thầy Trí Quang im lặng sau năm 1975. “Mission accompli”, nhiệm vụ đă hoàn tất th́ vọng động nữa làm chi?
Ông Nguyễn Hữu Liêm có đề nghị (trên facebook) nhà nước CSVN phong thầy Trí Quang là “anh hùng dân tộc”. Rơ ràng cái nào cũng có cái lư của cái đó.
***
Một chuyện tuy bên lề nhưng cũng nên kể để minh họa cho vai tṛ “cán bộ chiến lược” của Ḥa thượng Trí Quang. Khi ông Dương Văn Minh lên làm tổng thống th́ giới chính trị miền Nam lúc đó nói chơi với nhau là ông Trí Quang mới làm tổng thống. Ông Trí Quang có thực lực là quần chúng Phật giáo trong khi ông Minh không có ǵ cả. V́ tin tưởng Ḥa thượng Trí Quang, nghĩ rằng ông này có “giải pháp” cho Miền Nam. Đến ngày cuối, người ta đồn ông Minh than rằng “thầy làm chết tôi rồi”! Ông Minh hy vọng với việc “bàn giao quyền lực” trên cương vị tổng thống th́ chắc sẽ có một vai tṛ trong nhà nước mới. Vấn đề là Sài g̣n sụp đổ, ông Minh không có “quyền lực” nào nữa, dầu là tượng trưng để mà giao.
Bài viết ông Thuần cũng có nhiều chi tiết cần xét lại. Chỉ đưa ra hai thí dụ. Thứ nhứt, về "ngọn lửa Quảng Đức là ngọn lửa từ bi" và nguyên nhân cái chết của bảy em bé trong "biến cố" đài phát thanh 8-5-1963.
Điểm 1, tài liệu, h́nh ảnh bây giờ đă được "giải mật", đă công bố, Thượng tọa Thích Quảng Đức không hề "tự" thiêu, tức tự châm lửa đốt ḿnh. Người ta cầm can xăng đổ lên người ông rồi đốt. Gọi đó là "lửa từ bi" hay "lửa sát nhân" đều đúng, chỉ khác góc nh́n.
Thứ hai, vụ bảy em bé, ông Thuần nói là bị lính ông Diệm "bắn chết". Thầy Trí Quang viết "đống xương thịt máu huyết bị hất vào một góc tường, xương thịt máu huyết của những kẻ thân yêu mới cười nói với ḿnh trước đó không quá 10 phút".
Đạn nào mà bắn "dữ" vậy?
Chuyện này phải nhắc lại Biến cố "đài phát thanh 8-5-1963", nguyên nhân đưa tới “phong trào Phật giáo miền Trung”.
Nguyên nhân là đài phát thanh Huế không đồng ư cho phát bài thuyết pháp của thầy Trí Quang, v́ lư do chưa kiểm duyệt. Nghi vấn là tại sao lại có "quần chúng" với đông đảo con nít tụ họp trước đài phát thanh để đón nghe bài thuyết pháp này? Con nít tới đó nghe làm chi?
Khi đài không phát (v́ chưa kiểm duyệt) th́ "quần chúng" nổi dậy “làm cách mạng”. Vụ này làm cho bảy trẻ em bị chết. Phe “cách mạng” nói là do quân ông Diệm quăng lựu đạn. Ông Thuần th́ nói bị đạn bắn. Nhưng theo nhiều tài liệu ghi lại, bảy nạn nhân không thể tử thương do “lựu đạn”, hay do bất kỳ một thứ vũ khí nào của VNCH có thời đó. Theo giảo nghiệm của bác sĩ người Đức th́ thân xác bảy nạn nhân không thấy có miểng lựu đạn, hay đầu đạn. Kết luận của bác sĩ là các em chết v́ một “sức ép cực mạnh khiến thân xác không vẹn toàn”. Vũ khí nào “sát thương” như vậy nếu không phải là C4, thường được điệp viên Mỹ sử dụng trong các điệp vụ?
Nói thầy Trí Quang là CIA v́ vậy rất thuyết phục.
Kết luận:
Dưới mắt nhiều người dân Việt Nam th́ từ năm 1963 đến nay là “một trang sử” đầy máu và nước mắt lẫn nhục nhằn. Trang sử viết dở dang, không ai biết sự thống khổ c̣n kéo dài bao giờ mới chấm dứt.
Một trang sử hàng chục triệu người dân chết bị bỏ quên. Có người chết trước cổng chùa. có người chết trên đường di tản. Có người chết trong bụng cá, chết ngộp giữa đại dương. Có người chết nhục nhă v́ hải tặc. Và đến bây giờ vẫn có người c̣n tiếp tục chết. Chết vật vă đau thương trong thùng đông lạnh. Chết trên đường băng qua biên giới các xứ Đông Âu đầy tuyết giá...
V́ đâu chết?
Người "làm nên lịch sử" đến chết cũng không nói được nửa lời. Nói là tranh đấu cho “công lư”, cho “đạo pháp và dân tộc”. Nhưng rốt cục lại góp tay lật đổ ông Diệm, mở đường cho Mỹ vào. Đồng thời mở đường cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam chính thức tuyên bố hoạt động ở miền Nam. Từ đó đưa tới VNCH sụp đổ.
Trong một cuộc chiến tranh, ở đâu cũng vậy, nếu một bên không nỗ lực hy sinh để bảo vệ đất nước, dân và quân không ư thức được ở đâu là quyền và lợi ích của họ trong công cuộc bảo vệ đất nước, chắc chắn bên đó sẽ thua trong cuộc chiến.
Một chuyên gia quân sự Tây phương, lúc bàn luận chiến sự Ukraine trên TV vài tuần trước, có nói câu đại khái như sau: “Người ta không sợ một đoàn quân sư tử do con cừu chỉ huy mà người ta chỉ sợ một đàn cừu do con sư tử lănh đạo”.
Ta có thể hiểu rằng, chuyên gia ám chỉ đạo quân hỗn hợp dân-quân Ukraine là một “đàn cừu” được con sư tử Zelensky chỉ huy.
Trên chiến trường thực tế cho thấy dân và quân Ukraine cực kỳ lợi hại. Đúng trên quan điểm “cừu, sử tử” của chuyên gia quân sự. Nh́n lại hai đạo quân thân Mỹ ở Kabul và Sài G̣n. Các chiến binh của hai đạo quân này có nỗ lực chiến đấu hết ḿnh để bảo vệ đất nước của họ hay không? Hai đạo quân này do cừu hay do sư tử chỉ huy?
Theo tôi yếu tố dũng mănh của cấp chỉ huy chưa đủ để thắng trận.
***
Sự sụp đổ nhanh chóng của quân đội Afghanistan thân Mỹ ở Kabul, 30 tháng 8 năm 2021, nhiều người đă so sánh với trường hợp sụp đổ VNCH 30 tháng 4 năm 1975. Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam, cũng như ở Afghanistan, bằng một “hiệp ước ḥa b́nh”. Sự so sánh đầy ác ư nhưng không phải là không có lư do.
Tại Afghanistan, ngày mà Mỹ chính thức rút quân cũng là ngày quân đội Afghanistan tan hàng và chính phủ thân Mỹ ở Kabul sụp đổ.
Tháng 2 năm 2020, chính phủ Donald Trump thỏa thuận với Taliban về thời khóa biểu và các điều kiện để quân Mỹ rút lui. Người kế nhiệm Joe Biden ra quyết định “Chiến dịch di tản 17 ngày”, thời hạn chót là ngày 31 tháng 8 năm 2021.
Người lính Mỹ cuối cùng vào đến phi trường Kabul th́ quân Taliban cũng đă đuổi theo tới cửa cổng phi trường.
Người ta đặt vấn đề, với biết bao nhiêu vũ khí cùng quân trang, quân dụng của Mỹ để lại, quân đội Afghanistan hầu như không giao chiến với quân Taliban một trận nào. Thấy lính Mỹ rút lui, họ bỏ súng chạy theo. Rốt cục Mỹ phải thương lượng với phe Taliban để cuộc thoái binh diễn ra không tiếng súng.
***
Chiến tranh Việt Nam, với Hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973, Mỹ thỏa thuận với CSVN để được “kết thúc chiến tranh” và đem lại “ḥa b́nh trong danh dự” cho nước Mỹ. Trong ṿng 60 ngày, quân Mỹ phải rút khỏi Việt Nam.
Người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam ngày 29 tháng 3 năm 1973. Từ đó chiến tranh Việt Nam trở thành cuộc “nội chiến”.
Tương tự quân Afghanistan, Mỹ cũng để lại cho VNCH nhiều vũ khí tối tân cùng quân trang quân dụng.
Trong thời gian hơn hai năm nội chiến, quân đội VNCH một ḿnh phải đối phó trước một đạo quân thiện chiến (gồm Việt Cộng, tức quân Mặt trận Giải phóng Miền Nam và bộ đội miền Bắc) mà đại cường Mỹ đứng đầu thế giới (cùng với đồng minh) đánh không lại. Nên biết, người Mỹ đổ 50 vạn quân, trang bị vũ khí tối tân, được hỏa lực không quân, thiết giáp, pháo binh yểm trợ… Với chiến phí lên đến cả ngàn tỉ đô la. Trong suốt 8 năm ở Việt Nam, quân Mỹ đă không đánh bại đạo quân CSVN và Mặt trận Giải phóng Miền Nam.
Quân VNCH c̣n chống quân CSVN và MTGPMN trong hoàn cảnh thế giới gặp khó khăn và phương tiện quốc nội eo hẹp. Năm 1973, Trung Đông đă có cuộc khủng hoảng lớn về dầu hỏa. Giá dầu thế giới tăng vọt lên (đến 10 lần). Quân xa, phi cơ, tàu bè, chiến xa… của Mỹ để lại đa số không sử dụng được. Do thiếu xăng dầu, hoặc do hư hỏng mà thiếu phụ tùng thay thế. Hoạt động của không quân, hải quân gần như tê liệt. Các đơn vị thiết giáp, pháo binh… cũng hạn chế chiến đấu v́ thiếu đạn dược và nhiên liệu.
Quân Mỹ bỏ cuộc nhưng quân đội VNCH tiếp tục cuộc chiến tranh do chính người Mỹ đă gây ra (và để lại). Nhiều đơn vị VNCH chiến đấu cho tới khi súng hết đạn. Nhiều tướng lănh VNCH tự sát. Quân VNCH tháo lui, và thất bại, v́ những mệnh lệnh bất cập (như di tản chiến thuật Tây Nguyên) đến từ Dinh Độc Lập. Cuối cùng, cũng từ Dinh Độc Lập, Tổng thống Dương Văn Minh đọc lệnh yêu cầu quân lính “buông súng” đầu hàng. Sài G̣n sụp đổ ngày 30 tháng 4 năm 1975.
***
Quân đội Afghanistan thân Mỹ đông đảo, trên 300 ngàn quân được vũ trang tận răng. Quân Taliban hay quân chính phủ Kabul thân Mỹ cũng đều là dân Afghanistan. Phải có lư do tâm lư nào đó mà một bên sẵn sàng ôm bom để chết, trong khi bên kia lại không muốn cầm súng bảo vệ quê hương của họ.
Tương tự, quân VNCH cũng như bộ đội miền Bắc, tất cả “máu đỏ da vàng”, giống nhau “một lá gan”. Không thể phê phán bên này can đảm, bên kia hèn nhát.
***
Cuộc chiến Nga xâm lược Ukraine, bắt đầu từ ngày 24 tháng 2 năm 2022, đến nay vẫn chưa có dấu hiệu ngừng lại. Tinh thần chiến đấu của dân và quân Ukraine, dưới sự chỉ huy của tổng thống Zelensky, chứng minh được hiện tượng “châu đấu đá nghiêng xe”. Quân đội Nga với một lực lượng áp đảo so với quân Ukraine, hỏa lực cũng như nhân sự. Các nhà quan sát quốc tế đánh giá tương quan lực lượng hai bên với tỉ số 10/1. Không ngoại lệ, tất cả đều tiên đoán Kiev sẽ sụp đổ trong vài ngày.
Thực tế trên chiến trường chứng minh tất cả đều đoán sai. Thần chiến đấu của dân và quân Ukraine thể hiện như là con gà mẹ dũng mănh, liều chết, quyết chiến đấu chống lại con diều hâu hung tợn để bảo vệ đàn con. Các nhà quan sát quốc tế đồng thuận ở một điều là, yếu tố Zelensky đóng vai tṛ cốt lơi.
Dân và quân Ukraine, nếu không có một Zelensky cực kỳ thông minh, biết vận dụng mọi cơ hội để được sự ủng hộ của quốc tế, lúc sứ quán Mỹ đề nghị di tản Zelensky và gia đ́nh, ông này trả lời sứ quán Mỹ rằng: “Chúng tôi cần vũ khí chớ không cần một chuyến taxi”.
Zelensky đă thành công trong việc kích động tinh thần “quốc gia dân tộc” trong toàn thể dân chúng Ukraine, cũng như xiển dương một “quốc gia Ukraine độc lập có chủ quyền” trước trường quốc tế.
Ukraine là một “quốc gia” mới được khai sinh, năm 1991, sau khi Liên Xô tan ră. Trong khi dân Nga và dân Ukraine có cùng một nguồn gốc, cùng một “nation”.
Không có Zelensky chắc ǵ dân và quân Ukraine đă có được tinh thần “quốc gia dân tộc” mănh liệt như hôm nay?
Không có một Zelensky chưa chắc quốc tế đă ủng hộ và viện trợ vũ khí cần thiết để cho Ukraine tự vệ như đă thấy.
Cuộc biểu quyết ở LHQ tháng 3 năm 2022, ta thấy, đại đa số các quốc gia lên án Nga “xâm lược” Ukraine. Dư luận quốc tế, ngay cả Tổng thống Biden, lên án Putin phạm tội ác diệt chủng (crime génocide). Dư luận quốc tế, thông qua ư kiến một cựu thẩm phán Ṭa H́nh sự Quốc tế, cũng lên án quân Nga phạm tội ác chiến tranh (crime de guerre).
Trở lại câu nói của chuyên gia quân sự dẫn trên, so sánh ba quân đội, đâu là cừu, đâu là sư tử?
Ư kiến của chuyên gia nhấn mạnh ở tinh thần chiến đấu của cấp chỉ huy.
Mỹ vào Việt Nam cũng như vào Afghanistan. Mạnh v́ gạo bạo v́ tiền, người Mỹ trực tiếp hay gián tiếp, chỉ huy tất cả. Cấp chỉ huy Mỹ có phải là những con sư tử dũng mănh hay không? Chuyện này hăy để sử gia Mỹ thẩm định.
Rơ ràng quân đội thân Mỹ ở Kabul, những ngày cuối Mỹ rút quân, đă tan đàn ră nghé. Họ không có tinh thần chiến đấu.
C̣n quân VNCH?
Quân VNCH thừa dũng cảm nhưng theo tôi, yếu tố dũng cảm của đạo quân không đủ để một bên giành chiến thắng.
Vấn đề đặt ra, VNCH và Afghanistan có sụp đổ hay không, nếu dàn lănh đạo VNCH (và Afghanistan) có một nhân sự bản lĩnh như Tổng thống Zelensky?
***
Trường hợp Việt Nam, ư kiến cá nhân tôi, từ khi hiệp định Genève 1954, số phận của VNCH đă là “chiến trường”, sinh ra nếu không chiến thắng ắt là hủy diệt. Người Mỹ lật đổ ông Diệm năm 1963, sau đó đổ quân vào trực tiếp mở đầu cuộc chiến tranh. Sự tồn tại của VNCH đă bắt đầu tính ngày.
Hiệp định Genève 1954, các đại cường cam kết dân tộc (nation) Việt Nam là một khối duy nhứt, không thể phân chia. Lănh thổ Việt Nam ba miền Bắc, Trung, Nam thuộc về một quốc gia Việt Nam duy nhứt. Vĩ tuyến 17 chỉ là “lằn ranh quân sự tạm thời”.
VNCH cùng số phận với Đài Loan - Lục địa và Nam Hàn - Bắc Hàn, là những quốc gia bị phân chia (Etats divisés - States Divided). Khi mà một bên có thể vịn lư do thống nhứt (hay giải phóng) đất nước để gây chiến tranh th́ bên kia (như VNCH) trước sau cũng sẽ trở thành băi chiến trường.
Miền Nam và Mỹ “đồng sàng dị mộng” về nội dung Hiệp định Genève 1954. Mỹ không nh́n nhận nội dung Hiệp định v́ đă bỏ qua “quyền tự quyết của nhân dân miền Nam”. Tức là Mỹ hàm ư miền Nam đă là một “quốc gia độc lập có chủ quyền”. Phía Quốc gia Việt Nam, Bảo Đại làm quốc trưởng, lại không nh́n nhận Hiệp ước v́ điều khoản “chia đôi đất nước”. Tức là Bảo Đại muốn một Quốc gia Việt Nam bao gồm cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
Năm 1965, vịn vào “biến cố vịnh Bắc Việt”, Mỹ đổ quân vào Việt Nam. Mỹ c̣n “đồng sàng dị mộng” với tất cả các đồng minh cật ruột.
Trong lúc Tổng thống Johnson tuyên bố, “chúng ta sẽ không thất trận. Chúng ta sẽ không thối chí”, th́ quan điểm của thủ tướng Wilson nước Anh (tháng 2 năm 1965), “chỉ có sự tôn trọng toàn diện các điều ước của hiệp định Genève mới đưa tới sự đ́nh chỉ cuộc chiến tranh, do đó chấm dứt cuộc xâm lăng miền Nam do CS miền Bắc chủ trương”. Tổng thống De Gaulle nước Pháp (tháng 7 năm 1964) biểu lộ lập trường về một hội nghị mới, tương tự Hội nghị Genève với những thành phần tham dự trước kia để tổ chức một cuộc tổng tuyển cử cho Việt Nam… Tức De Gaulle cũng nói về việc tôn trọng Hiệp định Genève 1954…
Phía Cộng sản miền Bắc, qua tuyên bố của Phạm Văn Đồng 8 tháng 4 năm 1965, lập trường tương đồng với Anh và Pháp: Tôn trọng Hiệp định Genève 1954.
Riêng VNCH, thủ tướng Phan Huy Quát ngày 1 tháng 2 năm 1965 có tuyên bố: “Cuộc chiến đấu của VNCH rơ ràng là một trường hợp tự vệ chính đáng, chỉ có mục đích đập tan quân cộng sản xâm lăng…”.
Lập trường của VNCH và Mỹ, trước việc Mỹ đổ quân vào Việt Nam, đă không được sự ủng hộ của đồng minh và dư luận quốc tế.
Vậy th́, làm cách nào Zelensky, giả sử có tư cách lănh đạo tối cao VNCH, có thể vận động LHQ để lên án miền Bắc “xâm lược” miền Nam?
Vụ thảm sát Tết Mậu Thân 1968 ở Huế, các vụ pháo kích bừa băi vào chợ búa, trường học, các vụ ám sát, đặt ḿn… làm cách nào để LHQ lên án CSVN vi phạm “tội ác chiến tranh”?
Điều quan trọng hơn hết, làm cách nào để thuyết phục quốc tế viện trợ vũ khí cho VNCH “tự vệ”, sau khi Mỹ rút?
Không có cách nào hết. Hiệp định Paris 1973 đă trói tay tất cả. Bởi v́ theo Hiệp định này Mỹ nh́n nhận nội dung Hiệp định Genève 1954, nh́n nhận “Nước - Nation” Việt Nam bất khả phân chia và lănh thổ Việt Nam thống nhứt ba miền.
Luật quốc tế định nghĩa “xâm lược - agression”, quốc gia này đem quân xâm chiếm lănh thổ quốc gia kia. Nam và Bắc Việt Nam cùng một “nation - dân tộc”, cùng một lănh thổ Bắc, Trung, Nam, bất khả phân chia. Hiển nhiên không có vấn đề “xâm lược”.
Luật quốc tế cũng ngăn cản việc một quốc gia can thiệp vào nội bộ của một quốc gia khác. Mọi sự viện trợ của một quốc gia nào đó cho VNCH, sau khi Mỹ rút, đều vi phạm luật quốc tế.
Từ khi đất nước chia đôi, các thế hệ lănh đạo VNCH chưa bao giờ xác định được “tinh thần quốc gia dân tộc” là ǵ, có ư nghĩa thiêng liêng ra sao.
Họ không xác định được v́ Hiến pháp VNCH ghi rơ lănh thổ Việt Nam từ “Nam Quan tới mũi Cà Mau”. Quốc gia Việt Nam bao gồm luôn miền Bắc.
Chiến sĩ VNCH chiến đấu đơn thuần v́ lư do “chống cộng sản xâm lược” chớ không nhằm “bảo vệ chủ quyền quốc gia”, “bảo vệ dân tộc VNCH” hay “bảo vệ lănh thổ VNCH” như trường hợp Ukraine với Zelensky.
Từ sau năm 1954, các lănh đạo VNCH đă bỏ qua nhiều cơ hội pḥng ngừa chiến tranh, qua cách nương theo lập trường của Mỹ, qua việc tuyên bố miền Nam là quốc gia độc lập (từ vĩ tuyến 17). Năm 1955 ông Diệm trưng cầu dân ư lật đổ Bảo Đại nhưng ông Diệm không trưng cầu dân ư về một “Nam Việt dân quốc”.
Ông Diệm bị giết năm 1963, trong lúc đang vận động thống nhứt đất nước với miền Bắc. Sau này, ông Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu… cũng đều bỏ qua cơ hội pḥng ngừa chiến tranh bằng cách tuyên bố quốc gia độc lập. Đài Loan hiện nay cũng muốn tuyên bố Đài Loan độc lập, mục đích để tránh việc lục địa “thống nhứt đất nước”.
Việc này để lại hệ quả sâu xa. Ngoài việc dành cho phía CS miền Bắc quyền gây chiến tranh để “thống nhứt đất nước” (và giải phóng dân tộc), c̣n có vấn đề khích động tinh thần “quốc gia dân tộc” trong khối dân chúng miền Nam, cũng như quân đội VNCH.
Rốt cục, VNCH tồn tại hay không tùy thuộc vào ư chí dân miền Nam có sẵn sàng hy sinh để bảo vệ “lối sống” khác biệt của ḿnh hay không. Rơ ràng người dân và quân lính miền Nam đă không ư thức được ở đâu là quyền và lợi ích của họ trong công cuộc bảo vệ miền Nam độc lập, không cộng sản.
Số phận VNCH đă định trước. Bất kể cấp chỉ huy can đảm tới mức nào và quân đội dũng mănh ra sao. Bất kể khi VNCH (từ 1973) có một Zelensky lănh đạo hay không. Bắn hết đạn, quân VNCH ắt phải thua.
Nguyên nhân do dàn lănh đạo chính trị VNCH, tất cả đều thiếu tầm nh́n.
***
Trường hợp Afghanistan. Đây chỉ là một “quốc gia t́nh cờ”, một loại “quốc gia trái độn - etat tampon”, không phải là một thứ “Etat-Nation” (Dân quốc, quốc gia thành h́nh trên một khối dân tộc có cùng ngôn ngữ, nguồn gốc, văn hóa và lịch sử. Thí dụ như Việt Nam). Afghanistan được thành h́nh do ư chí của Anh và Nga.
Lănh thổ Afghanistan được “vẽ trên bản đồ”, trong văn pḥng, bất chấp thực tế khu vực này bao gồm nhiều bộ tộc có tiếng nói, nguồn gốc, tập quán khác biệt nhau, thậm chí thù nghịch với nhau. Gộp họ lại tổ chức thành một quốc gia đă khó. Vấn đề dân chủ hóa lại càng khó.
V́ vậy, các bộ tộc ở Afghanistan không có chung một tinh thần “Quốc gia Qân tộc - Etat Nation” mà chỉ có niềm tin vào bộ tộc và tôn giáo. Họ sẵn sàng chống đối lẫn nhau, xâu xé lẫn nhau và sẵn sàng bán rẻ “đất nước” để phục vụ cho lợi ích bộ tộc, nếu có cơ hội. C̣n các lực lượng khủng bố như Taliban, Al-Qaeda… sẵn sàng “ôm bom” tự sát để bảo vệ nềm tin.
Không có ư thức nào về “quốc gia dân tộc” th́ việc cầm súng chỉ là “đánh mướn”. C̣n trả tiền th́ họ đánh. Hết tiền th́ họ buông súng.
Zelensky liệu có thể thống nhứt ư chí các bộ tộc ở Afghanistan hay không? Có ḥa giải được niềm tin tôn giáo và lợi ích quốc gia hay không? Rơ ràng là chuyện cực kỳ khó.
***
Trở lại câu nói của chuyên gia quân sự đă dẫn trên. Chuyên gia quân sự này ví Tổng thống Zelensky như một con sư tử. Đúng ra phải nói Zelensky là một con sư tử mạnh mẽ với trí thông minh của một con chó sói đầy kinh nghiệm.
C̣n quân đội Kabul tương tự một đàn cừu mà người chỉ huy là con sư tử Mỹ. Con sư tử từ bỏ ngôi vị đầu đàn, hiển nhiên cả đàn cừu không c̣n can đảm để chiến đấu.
C̣n quân đội VNCH, chiến đấu chống lại một đạo quân mà 50 vạn quân Mỹ không đánh lại. Họ chiến đấu trong điều kiện eo hẹp, bị đồng minh bỏ rơi và quốc tế không quan tâm. Họ chiến đấu tới viên đạn cuối cùng. Họ buông súng v́ tổng thống ra lịnh họ buông súng.
Họ xứng đáng là đàn sư tử. Điều đáng tiếc, đạo quân sư tử này được lănh đạo bởi những lớp lănh đạo “cừu”, nếu không có tầm nh́n th́ là phản phúc.
Phe Việt Minh của ông Hồ đứng về phe chiến thắng. C̣n phe Quốc gia ở đâu trước sự kiện Đồng Minh thắng Nhật năm 1945?
Về sự kiện vua Bảo Đại “thoái vị”, giao ấn kiếm, biểu tượng quyền uy của Hoàng đế Đại Nam cho đại diện Việt Minh là Trần Huy Liệu. Sử gia Việt Nam thuộc phe Quốc gia biện hộ rằng, Bảo Đại thoái vị là do các báo cáo sai lạc của Khâm sai Phan Kế Toại (Khâm sai: commissaire impérial, là chức quan do vua phong để làm một phận sự nào đó). Sự kiện này kiểm chứng (từ các tài liệu và nhân chứng lịch sử) là đúng.
Nhưng có hai sự kiện khác quan trọng hơn mà không thấy sử gia nào nói tới.
Một là, đó là lực lượng Việt Minh do ông Hồ Chí Minh lănh đạo là “đồng minh của phe Đồng Minh chống Nhật”. Tức phe ông Hồ đứng về bên thắng cuộc Thế chiến thứ II.
Việt Minh do có hợp tác với đội OSS của Mỹ (OSS là tiền thân của CIA, thuộc Cơ quan T́nh báo Chiến lược của Mỹ) từ khi Mỹ tuyên bố chiến tranh với Nhật. Đội quân này (có huấn luyện bộ đội Việt Minh) cùng hoạt động trên vùng biên giới Việt-Trung, mục đích yểm trợ các lực lượng chống Nhật ở vùng Hoa Nam.
Thời cơ đưa đẩy, lực lượng Việt Minh của ông Hồ đứng về “phe chiến thắng” trong Thế chiến Thứ hai.
Qua tài liệu phỏng vấn GS Nguyễn Ngọc Huy (1924-1990), sáng lập đảng Tân Đại Việt, do GS Nguyễn Mạnh Hùng, Giáo sư Chính trị học, Trường Đại học George Mason, thực hiện tại Houston, Hoa kỳ năm 1987. Tài liệu này được GS Hùng viết lại và công bố trên trang web cá nhân ngày 24 tháng 6 năm 2022. Nguyên văn dẫn lại như sau:
“Vấn đề quan trọng nhứt là vấn đề Phan Kế Toại. Bởi vì con Phan Kế Toại là phe Cộng Sản. Hai người, tên là Phan Kế Ninh – một người tên Phan Kế Ninh, một người Phan Kế An hay gì tôi không nhớ rõ lắm. Nhưng mà hai người con Phan Kế Toại là cán bộ Cộng Sản, thành ra nó làm cho ông Phan Kế Toại nghĩ là Cộng Sản rất mạnh. Bởi vì nó đã mang những truyền đơn của Việt Minh nó bỏ trong phòng ngủ của ông Phan Kế Toại — là Khâm sai. Mà trong tất cả mấy gian phòng đều bỏ hết. Thành ra ông ông Phan Kế Toại yên trí là Việt Minh trong lúc đó, ông lên văn phòng của ông, ông nói là đến phòng của ông mà nó còn vào được thì nó phải mạnh ghê lắm. Vì thế cho nên ông Phan Kế Toại đã thiên về vấn đề đi theo Cộng Sản từ lúc đó. Và chính cái báo cáo của ông làm cho Bảo Đại phải phải bị lay chuyển mà chấp nhận thoái vị”.
Cũng theo GS Huy (tài liệu đă dẫn): “Báo cáo thiên vị Việt Minh của ông khiến Bảo Đại từ chức, tạo cho Việt Minh tư cách hợp pháp chính trị. Tính cách hợp pháp này và tư cách là “đồng minh của Đồng Minh” làm các đảng phái Quốc Gia bị lép vế trước và sau ngày 19/8. Tư cách này không c̣n nữa sau khi Pháp trở lại miền Nam”.
Tức là theo GS Huy, nguyên nhân thoái vị của Bảo Đại gồm hai lư do: 1/ Báo cáo của Phan Kế Toạt thổi phồng lực lượng Việt Minh đông đảo hơn phe Quốc gia và 2/ Việt Minh là “đồng minh của Đồng minh”. Tức Việt Minh đứng về "phe chiến thắng".
So sánh với các nhân chứng là lănh tụ các đảng chính trị như Việt Nam Quốc Dân đảng và đảng Đại Việt (qua các bản phỏng vấn của GS Nguyễn Mạnh Hùng công bố trên cùng trang web) ta thấy nội dung các điều trên không có sai biệt.
Bản báo cáo của Khâm sai Phan Kế Toại (do con cái đă theo Việt Minh) không đánh giá đúng lực lượng của Việt Minh. Theo GS Huy, cùng thời kỳ lực lượng của Đại Việt mạnh hơn Việt Minh.
Dữ kiện từ bài phỏng vấn GS Huy của GS Nguyễn Mạnh Hùng: “Trường Lục quân Yên Bái do Trương Tử Anh lập với huấn luyện viên người Nhật. Trước ngày khởi nghĩa, ông Anh ra lệnh kéo quân từ Yên Bái về Hà Nội và hẹn với Trần Kim Thành của Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội kéo quân từ Móng Cái về. Đến Hưng Yên th́ bị vỡ đê, cả hai cánh quân đều không về được Hà Nội. Tới nơi th́ Việt Minh đă cướp chính quyền”.
Yếu tố “đê vỡ nên không về được tới Hà Nội” so sánh lại thấy có mâu thuẫn với các nhân chứng khác. Dầu vậy, đây là sự kiện không quan trọng làm thay đổi thời cuộc.
Hai là, theo tôi, khiến các lực lượng quân sự của phe Quốc gia không về Hà Nội để “lấp khoảng trống quyền lực” sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, đó là tất cả các phe phái quốc gia đều ủng hộ Nhật.
Sự kiện “vỡ đê” có thể chỉ là cái cớ. GS Huy cũng nh́n nhận rằng, lực lượng của phe Quốc gia không dám chiếm quyền lực là v́ lo ngại bị Đồng minh “xử” chung với Nhật.
Tức là phe quốc gia đă chọn đứng về bên thua cuộc.
Nước Ư giờ thứ 25, mặt trận Châu Âu, Đức-Ư đă thua Đồng minh (từ tháng 6-1945) rồi. Nhưng đến tháng 8, thấy Nhật sắp thua, Ư bèn "tuyên bố chiến tranh" với Nhật. Mục đích chỉ để "đứng về phe thắng trận". Nước Nga cũng vậy. Vấn đề là phe Quốc gia không ai thấy (biết) sự việc này để chọn phe.
Phe quốc gia mất "chính nghĩa" từ thời điểm này.
Về tuyên ngôn độc lập 12-3-1945 của Bảo Đại
Sau khi “đảo chánh” Pháp th́ Nhật trả độc lập “Đế quốc Việt Nam” cho Bảo Đại. Ngày 12 tháng 3 năm 1945, Bảo Đại trao “tuyên ngôn độc lập” cho đại diện Nhật là Đại sứ Yokoyama. Nội dung Tuyên ngôn có đoạn:
“Chiếu t́nh h́nh thế giới nói chung và t́nh h́nh Á châu nói riêng, chính phủ Việt Nam long trọng công khai tuyên bố, kể từ ngày hôm nay, hiệp ước bảo hộ kư với nước Pháp được băi bỏ và đất nước thu hồi độc lập chủ quyền quốc gia” (CRVN, page 162).
Câu hỏi đặt ra là, Tuyên ngôn này có “giá trị pháp lư” hay không? Theo tôi, một bên có thể đơn phương hủy bỏ kết ước, v́ một lư do nào đó, như v́ “hiệp ước bất b́nh đẳng”.
Trường hợp Việt Nam phức tạp v́ hai đế quốc Pháp và Trung Hoa (nhà Thanh), hai đế quốc “bảo hộ” Việt Nam, có kư Hiệp ước Thiên Tân 1885. Nội dung hiệp ước, nhà Thanh đồng ư “nhượng” Việt Nam lại cho Pháp.
Mặt khác, theo các nguyên tắc “debellatio” trong chiến tranh, bên chiến thắng có quyền quyết định mọi tài sản, kể cả lănh thổ và dân chúng của phe chiến bại.
Sau khi Nhật kư văn kiện đầu hàng ngày 2 tháng 9 năm 1945, Nhật phải tuyên bố từ bỏ tất cả các vùng lănh thổ do Nhật chiếm đóng trước kia. Ngay cả lănh thổ nước Nhật cũng phải giao cho Mỹ quản lư. Riêng các chính phủ do Nhật lập nên ở các vùng lănh thổ (như Bảo đại ở Việt Nam) th́ không được nh́n nhận.
Tức là “Đế quốc Việt Nam” của Bảo Đại là một thực thể chính trị không có tính chính danh và không được quốc gia nào nh́n nhận. Điều này khiến cho “danh nghĩa pháp lư"của phe Việt Minh khi nhận chiếu thoái vị của Bảo Đại bị khuyết tật.
Ông Hồ không thể nhận chủ quyền Đế quốc Việt Nam do Bảo đại trao cho. Nguyên tắc luật học “người ta không thể cho cái mà người ta không có”.
Về “giải pháp Bảo Đại”
Một dấu ngoặc nói về thủ tục “thoái vị”. Bảo Đại có thể “thoái vị” và “nhường ngôi” cho một vị hoàng thân quốc thích nào đó của nhà Nguyễn. Nhưng về nguyên tắc th́ Bảo Đại không thể đơn phương tự lấy quyết định giao ấn kiếm, biểu tượng quyền lực nhà Nguyễn, giao cho một người hay một tổ chức không thuộc hoàng gia. Nhứt là khi hành vi này kết liễu triều đại nhà Nguyễn. (Tức là Bảo Đại tự kết liễu nền phong kiến chứ không do CSVN đánh đổ như họ đă tuyên truyền).
Tháng 4 năm 1949, Bảo Đại lại nhận lời Pháp, đứng ra lănh đạo "Quốc Gia Việt Nam - Etat du Viet Nam". Bảo Đại trở thành người thiếu lương thiện. Đă giao quyền lực "Đế quốc Việt Nam" (tức giao chủ quyền Việt Nam) tháng 8 năm 1945 cho ông Hồ rồi. Lư do ǵ lại ra lănh đạo "Quốc gia Việt Nam" tháng 4 năm 1949 để cạnh tranh với ông Hồ?
Bảo Đại tự biện: “Bởi v́ từ 1946 đến 1949, đó là sự trống rỗng chính trị toàn diện. Nếu tôi chưa xuất hiện, con người vốn sợ sự trống rỗng, th́ nước Việt Nam sẽ đi về đâu?” (Dẫn từ Con Rồng Việt Nam, trang 354).
Bảo Đại làm như Việt Nam hết người. Đây là sự lựa chọn của người Pháp. C̣n gọi là “giải pháp Bảo Đại”. Đơn giản v́ Bảo Đại dễ bảo, thiếu kiến thức chính trị và nhứt là "ham chơi" hơn việc "trị quốc".
Thực tế th́ cũng có những giải pháp khác, như giải pháp Bảo Long (với hoàng hậu Nam Phương đóng vai nhiếp chính) hay giải pháp Vĩnh San (vua Duy Tân).
Quốc gia Việt Nam chỉ có một. Quyền lực chủ tể (chủ quyền) của Việt Nam cũng chỉ có một.
Nếu so sánh được, chủ quyền quốc gia Việt Nam như “sổ đỏ”, tờ chứng nhận chủ quyền của triều đại nhà Nguyễn trên ngôi nhà Việt Nam. Bảo Đại đă tự tiện giao “sổ đỏ” này cho Việt Minh rồi (ngày 30 tháng 8 năm 1945). Sau đó Bảo Đại nhận lại “sổ đỏ” chứng nhận sở hữu ngôi nhà Việt Nam khác, lần này do Pháp cấp.
Đă giao cho ông Hồ "Đế quốc Việt Nam" rồi, th́ "Quốc gia Việt Nam" của Bảo Đại sau này là quốc gia Việt Nam nào?
Hai cuốn “sổ đỏ” phải có một là “giả, ngụy”. Sổ giả là sổ nào?
V́ vậy phía CSVN mới có cớ gọi "quốc gia Việt Nam" của Bảo Đại là "ngụy". Các nhà nước VNCH kế thừa Quốc gia Việt Nam sau này, v́ vậy cũng đều là "ngụy".
Phe Quốc gia đă có thể những làm điều ǵ để “giải Ngụy”?
Không ai phủ nhận cá nhân cụ Trần Trọng Kim cũng như thành quả của chính phủ Trần Trọng Kim sau 6 tháng làm việc. Nhưng càng củng cố tính chính đáng của chính phủ Trần Trọng Kim và Đế quốc Việt Nam của Bảo Đại th́ phe quốc gia càng sa lầy vào vũng bùn “ngụy” do CS gài ra.
Vấn đề là “giải Ngụy” bằng cách nào? Đến nay, 49 năm lưu vong, vẫn chưa thấy sử gia, nhân sĩ quốc gia nào giải được.
________
(Tác giả Trương Nhân Tuấn đặc biệt gởi lời trân trọng cám ơn đến GS Nguyễn Mạnh Hùng v́ các tài liệu đă công bố. Cũng xin cáo lỗi cùng GS Hùng vụ tự tiện dẫn các tài liệu mà không xin phép trước).
Lê Nguyễn: Mấy kỷ niệm về một đoạn đời sau tháng 4-1975 (Kỳ 1)
Gần nửa thế kỷ qua, những ngày tháng tư hàng năm bao giờ cũng là thời khoảng mang đến cho nhiều lớp người Việt Nam những kỷ niệm khó quên, nhiều ám ảnh nặng nề của quá khứ. Chúng được mở đầu bằng “Ngày nói dối” (1.4) và kết thúc bằng thời điểm 30.4 làm thay đổi số phận của hàng triệu con người.
Lớp người từng trải qua những ngày tháng tư ấy nay hầu hết đă thuộc về thành phần “thất, bát, cửu thập cổ lai hy”. Một số người đă bị thời gian loại ra khỏi sân khấu cuộc đời, số c̣n lại, người th́ nghễnh ngăng, người phải vật lộn với nhiều căn bệnh măn tính lăm le vùi dập kiếp người. Một thiểu số c̣n lưu giữ trong kư ức của ḿnh những h́nh ảnh cũ trong tâm thế không vui, cũng chẳng buồn, coi như đó là những màn biến ảo, đầy hỷ nộ ái ố, trong một vở trường kịch kéo dài.
Những câu chuyện vụn vặt này được kể ra không phải để trách phiền quá khứ, hay nung nấu thêm những t́nh cảm đă một thời dằn vặt mỗi con người. Kể lại chúng chỉ để bổ sung vào bức tranh toàn cảnh của xă hội Việt Nam sau 1975, v́ chúng là một phần không thể thiếu của lịch sử.
Tại miền Nam, sau tháng 4.1975, trùng trùng lớp lớp những con người cùng sẻ chia với nhau một số phận, cùng nếm chung với nhau sự cay đắng của kiếp người, nhưng nhiều năm sau, khi trở lại với cuộc sống đời thường, mỗi người một hoàn cảnh, một tâm trạng, một cái nh́n riêng rẽ về cuộc sống, và cũng có thể từ đó, nhiều sự phân hóa bắt đầu.
Người kể chuyện hôm nay rất yêu cái chất “Ta về” của một Tô Thùy Yên, coi những ǵ ḿnh đă trải qua sau tháng 4.1975 là một “kiếp nạn”, trở về gia đ́nh với một tâm trạng tuy có buồn đau nhưng không oán hận cuộc đời.
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này.
V́ thế, hồi ức này chỉ là sự nhắc nhở lại những kỷ niệm vui buồn của một phận người sau khi cuộc chiến kết thúc, nó không được sử dụng vào những mục tiêu chính trị và không nhằm nói lên những quan điểm cực đoan trước một quá khứ đă lùi sâu nửa thế kỷ. Tất nhiên, người viết cũng mong mỏi người đọc với một tâm thế như vậy, b́nh tâm và không cực đoan trong các b́nh luận của ḿnh.
I) BƯỚC VÀO CUỘC ĐỜI MỚI
Những ngày sau 30.4.1975, quang cảnh của thành phố Sài G̣n và hầu hết các tỉnh dưới vĩ tuyến 17 đă làm yên ḷng những người chiến thắng. Hàng triệu con người từng cầm súng chiến đấu hay điều hành bộ máy cầm quyền cũ chấp nhận sự thay đổi số phận một cách an nhiên, họ rùng rùng đi tŕnh diện đăng kư với mong mỏi làm lại cuộc đời, dù biết rằng sẽ không ít chông gai. Họ tham dự những buổi học ngắn ngày tại địa phương để nắm bắt được ít nhiều quy luật của một xă hội mới, hoặc với những người ở cấp bậc, chức vụ cao hơn, sự tập trung “học tập cải tạo” (HTCT) với thời gian được tin là sẽ kéo dài 10 ngày hay một tháng cũng được tuân thủ ngoài sự dự tưởng của nhiều người.
Khoảng thượng tuần tháng 5.1975, ḿnh thơ thẩn trước cổng Bộ Nội vụ cũ, định len lách vào để tŕnh diện đăng kư, cốt có được cái giấy chứng nhận có giá trị duy nhất như một thẻ thông hành. Chạm mặt người bạn đồng môn Nguyễn Văn Thọ, được bạn đưa ra một sáng kiến bất ngờ: bọn ḿnh là Phụ tá Tỉnh trưởng kinh tế (xếp ngang Phó Tỉnh trưởng hành chánh) trong hệ thống của Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo (Phó Thủ tướng đặc trách sản xuất kiêm Bộ trưởng Canh nông), tŕnh diện chi ở đây, hăy qua Ban quân quản Nông nghiệp (tại Bộ Canh nông cũ) mà tŕnh diện!
Thế là chiếc xe đạp cà tàng đưa hai anh quan chức ngă ngựa chạy cà rịch cà tang qua Bộ Canh nông (cũ) ở đầu đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, tŕnh diện với Ban Quân quản Nông nghiệp, lúc bấy giờ c̣n nằm trong tay các cán bộ tập kết người miền Nam. Tŕnh diện xong, bọn ḿnh được xếp vào thành phần chuyên viên của ông Hảo, được nhận vào làm việc tại văn pḥng cũ của ông Hảo chung với Bộ Canh nông, với thu nhập theo quy chế tạm thời lúc bấy giờ:
- Công chức cũ hạng A (Kỹ sư, Đốc sự ...): 23.000 đ/tháng
- Công chức cũ hạng B (Cán sự, Tham sự, Thư kư ...): 20.000 đ/tháng
- Công chức cũ hạng C (Tùy phái, tài xế ...): 17.000 đ/tháng (Giá tham khảo vào tháng 5.1975: 160.000 đ/ 1 lượng vàng)
Vào thời điểm này, các lớp học tại địa phương kéo dài 3 ngày dành cho hạ sĩ quan và binh sĩ của chế độ cũ được tổ chức khắp nơi; sau 3 ngày, họ “hồ hởi, phấn khởi” (tiếng mới không có tại miền Nam trước tháng 4.1975), cầm tấm giấy chứng nhận đi làm lại cuộc đời.
Khoảng 10.6.1975, Ủy ban quân quản thành phố Sài G̣n-Gia Định ban hành thông cáo yêu cầu đi tŕnh diện tập trung cải tạo các thành phần sau: công chức từ chức vụ Phó Quận, Phó Ty đến Phó Tổng thống, sĩ quan từ cấp Thiếu tá trở lên. Thông cáo ân cần nhắc nhở các đương sự: “mang theo tiền bạc, vật dụng đủ dùng trong một tháng”. Mỗi đương sự phải đóng cho cơ quan tổ chức học tập hơn 13.000 đ là tiền nuôi ăn của một tháng đó.
Khoảng ngày 11 hay 12.6.1975, anh Ba Lộc, Trưởng ban quân quản Nông nghiệp, triệu tập các viên chức cũ thuộc diện tập trung cải tạo với lời nhắc nhở mà người viết bài này vẫn c̣n nhớ rơ: “các anh nên đi tŕnh diện học tập, v́ việc này rất có lợi cho các anh!
”Cái “lợi” đó, trong suy nghĩ của mọi người, chính là cái giấy chứng nhận đă hoàn thành thời gian cải tạo, để có thể tạo dựng lại cuộc đời từ con số không, hoặc tốt hơn nữa, là sự trở lại cơ quan nông nghiệp ḿnh đă từ đó ra đi.
Cũng theo thông cáo trên, thời gian tŕnh diện cải tạo dành cho hai thành phần sĩ quan và viên chức trên là các ngày 13,14 và 15.6.1975. Sĩ quan tŕnh diện ở nhiều nơi, riêng thành phần dân sự th́ ngày 13 và 14.6 tại trường Gia Long, ngày 15.6 tại trường Trưng vương, gần Thảo cầm viên (Sở thú).
Một sự t́nh cờ đă chi phối khá nhiều vào lịch tŕnh diện này: ngày 13.6 rơi vào “ngày thứ sáu 13”, một điều kỵ của người Công giáo; c̣n ngày 14.6 lại là ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, người Phật giáo ít ai quên câu: Mùng 5, mười bốn, hăm ba – Đi chơi cũng thiệt huống là đi buôn. Phải chăng sự t́nh cờ này đă biến ngày 15.6 c̣n lại thành ngày “ám ảnh” của mọi người?
Ḿnh th́ không dị đoan, song v́ lưu luyến hai cô con gái c̣n quá nhỏ (6 và 3 tuổi) nên cũng chờ đến ngày cuối cùng mới đi tŕnh diện.
Sáng ngày hôm ấy, ḍng người xếp hàng chờ “nhập trường” Trưng vương trải dài từ cổng Thảo cầm viên đến đường Hồng Thập tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai), ban tổ chức cho vào từng nhóm một để c̣n có th́ giờ lập nhiều thủ tục khác ở trường. Tiếng là gọi đến cấp Phó Tổng thống, song trong thành phần tŕnh diện, chỉ có một ông cựu Chủ tịch Hạ viện (Nguyễn Bá Lương) và một ông cựu Chủ tịch Tối cao pháp viện (Trần Minh Tiết), từng là hai nhân vật thứ 4 và thứ 5 của chế độ. Riêng với thành phần dân biểu, nghị sĩ, một số người - tự nhận hoặc được báo chí xếp hạng - thuộc “thành phần thứ ba” như Lư Quư Chung (Chánh Trinh), Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba... th́ được miễn đi học, sau đó lại c̣n được phép phát hành tờ báo Tin Sáng, và chỉ “hoàn thành nhiệm vụ” vào đầu thập niên 1980.
Với các cựu dân biểu, nghị sĩ khác phải đi HTCT, chuyện cũng chưa hết. Họ xoay được từ Ban quân quản Quốc hội một tờ giấy giới thiệu, có lẽ nhằm giúp họ được ... vào tù sớm và nhanh hơn, nên trong lúc ḍng người xếp hàng có thứ tự đang nôn nóng đợi đến phiên ḿnh th́ khoảng một chục ông dân cử ấy từ đâu chen ngang vào, xuất tŕnh tờ giấy giới thiệu cầm trên tay như tấm bùa hộ mệnh.
Sự xuất hiện bất ngờ của đám người bon chen này đă gây ra một phản ứng sôi nổi của đám đông, căng thẳng đến mức mấy cán bộ bảo vệ trẻ xem đây là dịp thử súng tốt nhất. Họ chỉa thẳng mũi súng lên trời, thị uy bằng mấy loạt đạn nhắm vào tàng cây me cổ thụ gần nhất. Một trận mưa lá me rơi lên đầu các sĩ tử, và nếu lúc đó được như bây giờ, đă có smartphone để quay phim hay chụp ảnh, th́ đó sẽ là một trong những khung h́nh đẹp và lăng mạn nhất kể từ tháng 4.1975!
Cuối cùng th́ mọi việc cũng êm xuôi. Đại đa số “sĩ tử” được nhập trường Trưng vương, lập thủ tục “nhập học”. Một thiểu số không nhỏ bị từ chối v́ trường đă quá đông, mà trời sắp tối, phải lủi thủi trở về nhà trong tâm trạng bất an.
Mà họ có lư khi bất an như vậy! V́ tuy chỉ mới sau hơn một tháng mà chính quyền nhân dân đă hoạt động có hiệu quả. Với tai mắt nhân dân, ngay trong đêm 15.6 đó, hầu hết những người không được cho “nhập trường” đều bị gơ cửa nhà và bị dẫn giải đi, với cái tội “trốn tŕnh diện cải tạo”. Mặc cho đă thanh minh thanh nga với mọi lư do lư trấu, họ bị tống hết vào trại giam Chí Ḥa, cung cấp bữa tiệc máu bất ngờ cho đám muỗi đói, để rồi sáng hôm sau, sau khi các cơ quan đều biết rơ về lư do bất khả kháng của họ, họ mới được thả về. Cuối tháng 6, họ được lệnh đi tŕnh diện bổ sung, theo diện HTCT 30 ngày, cùng lúc với các sĩ quan cấp úy, được thông báo phải “mang theo tiền bạc và vật dụng đủ dùng trong 10 ngày”!
Kỳ 4: Về tập phim “The Vietnam War”
Đâu là “chính nghĩa” của CSVN trong chiến tranh Việt Nam?
Cứ mỗi lần có cuốn phim, hay quyển sách nào đó nói về chiến tranh Việt Nam được tŕnh làng, th́ cứ y như vậy, người Việt, bất kể là sử gia, chính trị gia, nhà nghiên cứu… lại bàn tán sôi nổi chung quanh. Kẻ phản đối, người ủng hộ. Đến nay đă có hàng chục tập phim lịch sử (của các quốc gia như Pháp, Mỹ…) đă tŕnh chiếu, hàng trăm cuốn sách, cùng với hàng ngàn bài báo (với hàng tấn tài liệu được bạch hóa) đă công bố hay xuất bản. Vấn đề là không thấy (hay ít thấy) cuốn phim hay cuốn sách nào làm hài ḷng tất cả các phía.
Tập phim “The Vietnam War” vừa phát hành cũng vậy. Nhiều tiếng nói phê b́nh trong và ngoài nước đă cất lên, hầu hết để biểu lộ sự không đồng t́nh. Đa số ư kiến phát biểu đều tỏ vẻ thất vọng (thậm chí cay đắng). Thật vậy, nếu có xem những tập phim đă từng xuất bản, hay có đọc những tập tài liệu của các tác giả viết về chiến tranh Việt Nam, ta thấy rằng tập phim “The Vietnam War” thành h́nh trên những sự kiện lịch sử được chọn lựa trước. Rất nhiều sự kiện lịch sử quan trọng khác th́ bị bỏ sót, hay đơn giản hóa.
Tập phim khó có thể trở thành một tập phim “lịch sử”, như tham vọng của các nhà đạo diễn. Trong chừng mực nó (có thể trở thành) một bộ phim chủ về tuyên truyền, “định hướng dư luận”. Nói theo ư của một nhà báo lăo thành hải ngoại, mục đích ra đời tập phim là nhằm chuẩn bị dư luận, một thủ tục “dọn sân” cho “đồng minh nhảy vào”.
Thời gian làm phim kéo dài tới 10 năm là quá dài. Tất cả h́nh ảnh trong phim, kể cả ư kiến phần lớn những nhân chứng, khán giả nào có quan tâm đến thời cuộc, nếu không từng xem qua (déjà vu), bằng không là đọc qua, ở một phim, hay một cuốn sách nào đó đă xuất bản trước đó. Theo dơi từ đầu đến cuối, ta không thấy một dữ kiện nào mới.
Về phía đảng và nhà nước CSVN, thay v́ giữ thái độ im lặng hay “mạnh mẽ phản đối” như thói quen, đă có “phát biểu đáp từ”. Báo chí ghi nhận lời phát biểu của phát ngôn nhân Lê Thị Thu Hằng hồi đầu tuần trước như sau:
“Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam là cuộc kháng chiến mang tính chính nghĩa, đă phát huy được sự đoàn kết và sức mạnh của toàn dân tộc, được bạn bè và nhân dân trên toàn thế giới hết ḷng ủng hộ… Những bước phát triển tích cực trong quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ vừa qua là kết quả của những nỗ lực to lớn của hai nước và chủ trương của Việt Nam về việc gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai”.
Thật là “nhịp nhàng” ăn khớp. Tập phim một mặt nhằm chứng minh thiện chí của Mỹ “vượt qua khác biệt”, “gác lại quá khứ”... mặt khác, (mặc nhiên) nh́n nhận tính “chính nghĩa” của cuộc chiến thuộc về phe CSVN. Việc này củng cố ư kiến cho rằng, phía Hoa Kỳ cho xuất bản bộ phim này là để chuẩn bị tâm lư nhân dân hai nước Việt - Mỹ không bị chới với “khi đồng minh nhảy vào”.
Nhưng vấn đề đâu có đơn giản như vậy. Đâu là “chính nghĩa” của CSVN trong “cuộc kháng chiến chống Mỹ”?
Về cuộc chiến, người Mỹ gọi là “chiến tranh Việt Nam”. Tên gọi trung dung, như thói quen đặt tên các cuộc chiến như “chiến tranh Triều Tiên”, “chiến tranh vùng Vịnh”, “chiến tranh Iraq”, “chiến tranh Kuwait”... Người Mỹ đổ quân vào Việt Nam, cũng tương tự đă đổ quân vào Tây Đức, Nhật, Nam Hàn, hay ở các cuộc chiến khác, với những “lư lẽ pháp lư” khác nhau. Mục đích để biện minh sự can dự của Mỹ vào cuộc chiến phù hợp với tinh thần “jus ad bellum - quyền can dự vào chiến tranh”, theo định nghĩa các công ước quốc tế (về chiến tranh). Điều này sẽ trở lại phần dưới.
Mở đầu tập phim, như để chứng minh “chính nghĩa” thuộc về phe Cộng sản Bắc Việt, các đạo diễn đă “tuyển chọn” những tài liệu “thuận lợi” nhằm giới thiệu nhân vật Hồ Chí Minh, ca ngợi tài năng và đức độ của ông này. Trong khi nhiều tài liệu (quan trọng) khác, mô tả ông Hồ như là một kẻ “thời cơ chủ nghĩa”, th́ các đạo diễn bỏ qua.
Lá thư gởi Tổng thống Pháp ngày 9-11-1911 xin vào học ở trường Hành chánh thuộc địa của Pháp là một thí dụ. Lá thư này cho thấy, mục đích của ông Hồ lúc “xuống tàu ở bến Nhà Rồng” không phải là “t́m đường cứu nưóc” như đă tuyên truyền, mà sự thật là t́m lối thoát cho bản thân, bằng cách xin được làm tay sai cho Pháp để cai trị dân bản xứ. Nhiều tài liệu khác (cũng bị bỏ qua), chứng minh ông Hồ chỉ mà một cán bộ “xách động và tuyên truyền - agiprop” của cộng sản quốc tế do Liên Xô lănh đạo. Tài liệu khác của Trung Quốc mới công bố, cho thấy ông Hồ là một sĩ quan (thiếu tá) trong đạo hồng quân của Mao Trạch Đông.
Một người “đa diện”, “quốc tế” như vậy th́ không thế là “nhà ái quốc” rồi!
Tập đầu “Déjà vu” có nghĩa là “đă xem qua, đă thấy rồi”. Tựa đề như vậy nhưng các đạo diễn lại không thấy chiến thắng Điện Biên Phủ là do công lao của Trung Quốc. Vũ khí, đạn dược, quân lính, cố vấn... đều đến từ Trung Quốc. Hiệp định Genève, nói là Pháp đàm phán với phe ông Hồ, mà thực ra là Pháp đàm phán với Châu Ân Lai. Chia cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 17 là ư kiến của họ Châu chớ đâu phải ư kiến của ôn,g Hồ.
Tài liệu từ nhiều phía (có can dự) viết về chiến thắng Điện Biên Phủ, như Trung Quốc, nhưng các đạo diễn chỉ chọn tài liệu từ phía CSVN.
C̣n về phía VNCH, không ai chịu so sánh ông Diệm, ông Thiệu thời đó với những lănh tụ đồng thời ở các nước châu Á. Ông Thiệu, ông Diệm làm ǵ độc tài hay tham nhũng bằng Marcos của Phi, bằng Sukarno của Indonesia, hay với cán bộ CSVN bây giờ?
Nếu mấy ông tướng tá VNCH tham nhũng, tiền bạc đầy túi như cán bộ CSVN bây giờ, tại sao sau khi tan hàng 1975, ra nước ngoài ông nào cũng phải đi làm cu li, làm việc “thúi móng tay” để có nhà ở, cơm ăn, hết vậy?
Trong một đất nước bị chiến tranh, trí thức “phản chiến” chỉ chú mắt vào các hành vi “bảo vệ an ninh nội địa” để lên án phía VNCH là “độc tài”, vi phạm nhân quyền. Các nước như Thái Lan, Miến Điện, Singapore, Mă Lai, Indonesia… ngay thời điểm bây giờ, nếu so sánh với VNCH ngày trước, th́ chế độ VNCH thời đó vẫn “tự do” và “dân chủ” gấp nhiều lần hơn.
Dân chúng miền Nam ngày xưa muốn biểu t́nh là biểu t́nh, nhà báo muốn chửi "Thọ chiếu" (chửi tổng thống Thiệu là Thiệu chó) là chửi. Chẳng có ai bắt bớ, đánh đập, bỏ tù… VNCH ngày đó làm ǵ có các điều 79, 88, 258… như Việt Nam bây giờ?
Không một ai thử đặt vấn đề về t́nh trạng dân chủ, nhân quyền ở miền Bắc thời đó. Ngay cả bây giờ cũng không thấy ai đặt vấn đề về chế độ độc tài công an trị hiện tại ở Việt Nam.
Trong chiến tranh, các đạo diễn đề cao tinh thần chiến đấu của bộ đội miền Bắc, đồng thời mạt sát quân VNCH là “hèn nhát”. Rơ ràng đây là một “thành kiến”. Với một thành kiến như vậy th́ c̣n ǵ là tính “khoa học, khách quan” để có thể xếp tập phim này là tập phim “lịch sử”?
Bởi v́ nếu so sánh "tinh thần chiến đấu" của quân đội VNCH với các quân đội các nước mà Mỹ từng sánh vai chiến đấu như quân đội Nam Hàn (trong cuộc chiến 1951-1953), quân đội Afghanistan (sau khi đánh Taliban), quân đội của Iraq (sau khi lật đổ Sadam Hussein)... th́ rơ ràng quân VNCH vượt trội cả cái đầu.
Chiến tranh Triều Tiên, lúc đầu quân Nam Hàn đă bị quân Bắc Cộng đánh tơi bời, rượt chạy “sút quần”, cho tới Pusan (kiểu mũi Cà Mau của Việt Nam). Nếu không có Mỹ và LHQ đổ quân kịp thời "cứu giá", th́ Nam Hàn coi như “đứt bóng”.
Trong khi tinh thần quân Mỹ ở các cuộc chiến "chống khủng bố" ở Iraq hay Afghanistan, kể cả quân đội của hai nước này, cũng không hơn ǵ lính VNCH hồi đó (nếu không nói là thua xa).
Đánh với một bọn du kính Hồi giáo được trang bị AK47, không có Tàu, Nga ủng hộ sau lưng mà đánh hoài không thắng. Ở Iraq và Afghanistan, Mỹ cũng theo sách vở ở Việt Nam “đồng minh tháo chạy”, bỏ lại biết bao nhiêu vũ khí, quân trang, quân dụng để chạy lấy người. Mỹ vừa rút th́ các quốc gia này tức thời bị sụp đổ. Quân IS vào tới đâu th́ lính bỏ súng chạy tới đó. Bọn “Nhà nước Hồi giáo” (tức IS) hôm nay, họ “đánh Mỹ” bằng vũ khí của Mỹ bỏ lại. Quân đội Iraq và Afghanistan do Mỹ đào tạo dựng lên, sụp đổ trong một thời gian ngắn kỷ lục.
Nh́n các quốc gia Iraq, Afghanistan đang bị "giải thể", các thành phố cổ kính bị tan nát bởi chiến tranh, hàng chục triệu nạn nhân chiến tranh… ta mới thấy sự bất lực của "sức mạnh Mỹ" cũng như sự vô trách nhiệm của giới lănh đạo Mỹ.
Quân Việt Cộng hồi đó có khác chi với quân IS bây giờ? Họ đánh bằng ḷng thù hận, dám "thí mạng cùi".
Vấn đề là người Mỹ không chỉ bỏ chạy, mà lại c̣n “trói tay” VNCH bằng cách không viện trợ quân sự. Kết luận rằng, quân CSVN vào tới đâu th́ lính VNCH bỏ chạy tới đó là một sự phỉ nhổ vào lịch sử. Cuộc chiến tăng cường độ th́ Liên Xô và Trung Quốc càng tăng nhịp điệu viện trợ. Quân VNCH bắn hết đạn th́ phải tháo chạy thôi.
Vấn đề là người Mỹ “tháo chạy” giao dân tộc Việt Nam lại cho “đảng cộng sản Việt Nam”. Bây giờ nh́n lại, cả dân tộc Việt Nam đang chịu nạn “nội xâm”. Chúng ăn của dân không từ một thứ ǵ.
Giải phóng “ách kềm kẹp của Mỹ Ngụy”, rốt cục cả nước lọt vào gông cùm của cộng sản phi nhân.
“Chính nghĩa” nào trong cuộc chiến, cho phía CSVN, nếu không phải là Mỹ đă trịnh trọng dâng cho họ ṿng nguyệt quế?
Các đạo diễn lựa chọn các h́nh ảnh chiến tranh, biểu hiện đủ các mặt tội ác. Nhưng họ chỉ lựa chọn các mặt thấy được gây ra do lính Mỹ, lính VNCH, tŕnh chiếu cho khán giả.
Bộ mặt tội ác phía bên kia, nào là đào mô đắp đường, giật ḿn xe đ̣, pháo kích vào chợ búa trường học, đặt chất nổ ở nhà hàng, ném lựu đạn vào đám đông, ám sát v.v… th́ không nói tới.
Những “tội ác” do lính Mỹ gây ra, không phải viết ra là để biện hộ, nhưng nguyên nhân là do du kích Việt Cộng trà trộn trong dân, núp trong dân bắn lén vào lính Mỹ. Hầu hết các đợt càn quét, các cuộc “thảm sát” (Mỹ lai, Bến Tre…) đều xảy ra đúng như vậy.
Nh́n lại cuộc chiến mà bọn khủng bố IS đang (thua) ở Iraq, Syria… ta thấy quân IS không khác một mảy may nào với Việt Cộng. Nhân chứng cuộc chiến là nhà văn Nguyên Ngọc có thố lộ là quân Việt Cộng trà trộn vào trong dân, sử dụng dân chúng như là tấm bia đỡ đạn.
Về “chính nghĩa”, nếu phía CS miền Bắc có “chính nghĩa”, tại sao không có người miền Nam chạy đi xin “tị nạn” ở miền Bắc? Người ta chỉ thấy ngược lại, các chiến binh miền Bắc xin “hồi chánh” ở lại miền Nam.
Cũng vậy, mỗi lần quân CS ra chiến dịch tấn công, là mỗi lần dân chúng chạy về phía “quốc gia”, không ai chạy về “vùng giải phóng”.
Sau khi chiếm được miền Nam, hàng triệu người dân miền Nam thà chết trong bụng cá chớ không chịu ở lại với cộng sản. Cho đến bây giờ, 99% người dân Việt Nam, kể cả cán bộ đảng viên CS, mong muốn của họ là bỏ nước Việt Nam qua Mỹ, Úc, Canada hay các xứ châu Âu để sống.
Nếu “có chính nghĩa” th́ tại sao dân chỉ muốn bỏ nước ra đi?
Về “chiến tranh”, trên quan điểm quốc tế, một số học giả gọi chiến tranh Việt Nam là một cuộc “chiến tranh ư thức hệ”, mang tính “quốc tế”. Phía miền Bắc được khối cộng sản yểm trợ, phía miền Nam được khối tư bản, do Hoa Kỳ đại diện chống lưng. Chiến tranh Việt Nam là thí điểm nóng của “chiến tranh lạnh”.
Vậy “chính nghĩa” đứng ở phía nào, trong khi khối cộng sản thế giới đă sụp đổ?
Cuộc chiến Việt Nam c̣n được các sử gia quốc tế gọi dưới tên khác là “chiến tranh ủy nhiệm”.
Trong chiến tranh, miền Bắc được phe XHCN giúp từ “a đến z”, thực phẩm, thuốc men, cây súng, viên đạn, xe tăng, đại pháo, hỏa tiễn… cho đến nhân sự (như chuyên gia kỹ thuật), phần lớn từ Liên Xô, Trung Quốc. Miền Nam th́ súng đạn, tiền bạc của Hoa Kỳ. Cả hai phía Việt Nam chỉ cung cấp xương và máu cho cuộc chiến.
Mục đích chiến tranh (ủy nhiệm), lănh đạo CSVN có nói: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc”. Rơ ràng đây là lư lẽ của một tập đoàn “đánh thuê”.
“Chính nghĩa” nào cho bọn “đánh thuê”?
Sau 1975, Việt Nam trở mặt với Trung Quốc, quay đầu về Moscow, trở thành tên xung kích sừng sỏ của Liên Xô, chống lại Trung Quốc.
Theo quan điểm của Trung Quốc, Việt Nam trở thành “Cuba của phương Đông”.
Chính nghĩa nào cho một tập đoàn làm “tay sai”, theo phe này chống lại phe kia?
Phía miền Bắc gọi đó là cuộc “chiến tranh giải phóng”, “đánh Mỹ cứu nước”. Phía miền Nam th́ gọi đó là cuộc chiến "bảo vệ tự do". Mà chiến tranh, theo Machiavel, là một “phương tiện” để chinh phục và chiếm hữu quyền lực.
Nếu các đạo diễn nh́n nhận cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” là có “chính nghĩa”. Điều này thừa nhận quân Mỹ là đạo quân “xâm lược”.
Nếu vậy th́ quân Mỹ hiện diện ở Nhật, Nam Hàn, ở Tây Đức trước kia, hay ở các nước “đồng minh” trên khắp thế giới… cũng là “đạo quân xâm lược”. Không biết dư luận Mỹ, các lănh đạo nước Mỹ, có “gánh vác” nổi vụ này hay không?
Hơn 40 năm sau, CSVN nhân danh có công “giải phóng miền Nam, thống nhứt đất nước” để giành độc quyền cai trị đất nước.
Về “thống nhứt đất nước”, có hàng chục thí dụ “thống nhứt đất nước” không tốn một giọt máu, không cần phải “đốt cháy Trường Sơn, tát cạn Biển Đông”.
Đổ máu trên 4 triệu người, đất nước tan hoang, dân t́nh ly tán. Cuộc chiến v́ vậy là “phi nghĩa".
C̣n về mục tiêu “giải phóng miền nam”, lịch sử đă bạch hóa mà các đạo diễn không thấy, có người dân nào ở miền Nam mong đợi được “giải phóng”? Như trên đă nói, các cuộc bỏ phiếu bằng chân, quân Việt Cộng vào tới đâu, dân chạy trốn tới đó. Sau 1975 dân Việt Nam có câu ví von: “Nếu cây cột đèn có chân nó cũng vượt biên”. Rơ ràng đây là “chân lư”. Mặt thật của cuộc chiến là cuộc “xâm lăng” được bọc dưới mỹ từ giải phóng.
Chính nghĩa nào cho cuộc chiến “xâm lăng”?
Về phía Mỹ, lư do nào họ can dự vào VN?
Các cuộc chiến cận đại như chiến tranh Kuwait, chiến tranh Iraq, người Mỹ chỉ “tham gia” cuộc chiến sau khi đă được LHQ “bật đèn xanh”. Trong cuộc chiến Kuwait, Iraq đă “xâm lược” Kuwait, vi phạm nguyên tắc nền tảng của LHQ. Mỹ và nhiều nước khác, theo tinh thần một nghị quyết của LHQ, đổ quân vào Kuwait để “tống cổ” quân Iraq ra khỏi nước này. Đây rơ ràng là một cuộc chiến “giải phóng”.
Cuộc chiến Iraq, Mỹ đưa ra những bằng chứng cho thấy nước này đang “chế tạo” vũ khí hạt nhân. Như vậy Iraq vi phạm hiệp ước “không phổ biến vũ khí nguyên tử” mà họ đă kư.
Nhưng chiến tranh, nói theo triết gia Alembert “nghệ thuật chiến tranh nhằm tiêu diệt con người, đồng thời cũng là nghệ thuật chính trị nhằm lường gạt con người”.
Bây giờ ta mới biết rằng cuộc chiến Iraq, Mỹ đă “dựng” lên những bằng chứng giả để có cớ đánh Saddam Hussein.
C̣n quan điểm Mác xít, qua các lư thuyết của Lenin và Mao Trạch Đông, tất cả các cuộc chiến tranh cách mạng là chiến tranh “có chính nghĩa” (chính đáng). Chiến tranh “phản động” là chiến tranh không chính đáng.
Vấn đề là trước khi Mỹ đổ quân vào Việt Nam không có một kết ước nào với lănh đạo Việt Nam (như kết ước đồng minh).
Chỉ khi quân Mỹ vào Đà Nẵng, trước chuyện đă rồi, chính quyền Sài G̣n chỉ đưa ra một thông báo, giảm thiểu mọi thủ tục, nh́n nhận sự hiện diện của Mỹ ở miền Nam.
Trước đó, thời ông Diệm, các đời tổng thống Mỹ đă hứa hẹn “giúp miền Nam xây dựng một quốc gia độc lập, có chủ quyền”. Người Mỹ gọi “quốc gia” đó là “South Vietnam”, nhằm chống lại sự xâm lăng của một quốc gia (độc lập có chủ quyền) khác ở miền Bắc, là quốc gia North Vietnam.
Vận động “xây dựng South VN” thành một “quốc gia độc lập có chủ quyền” của Mỹ là cần thiết, trên phương diện công pháp quốc tế. V́ chỉ khi VNCH là một quốc gia độc lập, có chủ quyền th́ Mỹ (và các nước có quan hệ khác) mới có quyền can thiệp (bằng chiến tranh), với lư do “quốc gia South Vietnam” bị một quốc gia khác là “North Vietnam” xâm lược.
Sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam “chính đáng - jus ad bellum” v́ dựa trên “quyền tự vệ chính đáng đa phương” của LHQ. V́ vậy theo chân Mỹ, các quốc gia “đồng minh” của Mỹ như Úc, Canada, Tân Tây Lan, Thái, Nam Hàn, Phi… cũng đổ quân vào Việt Nam.
Nhưng khi có sự hiện diện của quân đội Mỹ và các nước đồng minh, cuộc “nội chiến Bắc Nam”, miền Bắc muốn “thôn tính” miền Nam, trở thành cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước”.
Rốt cục cuộc vận động của Mỹ (xây dựng VNCH thành một quốc gia độc lập có chủ quyền) đă thất bại. Mỹ phải kư hiệp định Paris 1973, nội dung công nhận hiệu lực của Hiệp định Genève 1954, tức là nh́n nhận Việt Nam là một “quốc gia duy nhứt, thống nhứt ba miền, lănh thổ bất khả phân”.
Tức là trên phương diện “pháp lư” Mỹ đă thua, thứ nhứt v́ không thuyết phục được lănh đạo VNCH (nhứt là ông Diệm) tuyên bố VNCH “quốc gia độc lập có chủ quyền”. Bởi v́ lănh đạo miền Nam hầu hết xuất thân từ miền Bắc. Thứ hai, thua CSVN và các lực lượng trí thức thiên tả ở Paris về tuyên truyền, vận động dư luận quốc tế.
Mục tiêu “giải phóng miền Nam” được “quốc tế” ủng hộ. Rốt cục các đồng minh của Mỹ phải “tháo lui” v́ thấy cuộc chiến không c̣n chính đáng.
Nguyên nhân Mỹ thua là v́ Mỹ vào miền Nam mà không hỏi ư kiến dân Miền Nam (thông qua một cuộc trưng cầu dân ư, thí dụ vậy). V́ nếu có một “kết ước” hợp pháp giữa dân miền Nam và Mỹ, th́ cuộc chiến đă quay theo chiều hướng khác.
Chiến tranh Việt Nam lư ra giống y chang chiến tranh Triều Tiên. Vấn đề là ngựi Mỹ “bao thầu” mọi thứ, trong khi Pháp th́ chống Mỹ (v́ bị Mỹ đă hất chân), ủng hộ Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Khi quân Việt Nam vào gần tới Sài G̣n, Dương Văn Minh lên làm tổng thống. Sự việc đă rồi, Mỹ đă nh́n nhận MTGPMN, gián tiếp nh́n nhận Mỹ đă “xâm lược” miền Nam. Không có kết ước nào gắn bó VNCH với Mỹ. LHQ “bó tay”, không làm được việc ǵ.
VNCH là phía “có chính nghĩa”, v́ lănh đạo thiếu viễn kiến, đành phải chết tức tưởi.
Cuối cùng lịch sử luôn được viết bởi phe chiến thắng.
Lê Nguyễn: Mấy kỷ niệm về một đoạn đời sau tháng 4-1975 (Kỳ 1)
Gần nửa thế kỷ qua, những ngày tháng tư hàng năm bao giờ cũng là thời khoảng mang đến cho nhiều lớp người Việt Nam những kỷ niệm khó quên, nhiều ám ảnh nặng nề của quá khứ. Chúng được mở đầu bằng “Ngày nói dối” (1.4) và kết thúc bằng thời điểm 30.4 làm thay đổi số phận của hàng triệu con người.
Lớp người từng trải qua những ngày tháng tư ấy nay hầu hết đă thuộc về thành phần “thất, bát, cửu thập cổ lai hy”. Một số người đă bị thời gian loại ra khỏi sân khấu cuộc đời, số c̣n lại, người th́ nghễnh ngăng, người phải vật lộn với nhiều căn bệnh măn tính lăm le vùi dập kiếp người. Một thiểu số c̣n lưu giữ trong kư ức của ḿnh những h́nh ảnh cũ trong tâm thế không vui, cũng chẳng buồn, coi như đó là những màn biến ảo, đầy hỷ nộ ái ố, trong một vở trường kịch kéo dài.
Những câu chuyện vụn vặt này được kể ra không phải để trách phiền quá khứ, hay nung nấu thêm những t́nh cảm đă một thời dằn vặt mỗi con người. Kể lại chúng chỉ để bổ sung vào bức tranh toàn cảnh của xă hội Việt Nam sau 1975, v́ chúng là một phần không thể thiếu của lịch sử.
Tại miền Nam, sau tháng 4.1975, trùng trùng lớp lớp những con người cùng sẻ chia với nhau một số phận, cùng nếm chung với nhau sự cay đắng của kiếp người, nhưng nhiều năm sau, khi trở lại với cuộc sống đời thường, mỗi người một hoàn cảnh, một tâm trạng, một cái nh́n riêng rẽ về cuộc sống, và cũng có thể từ đó, nhiều sự phân hóa bắt đầu.
Người kể chuyện hôm nay rất yêu cái chất “Ta về” của một Tô Thùy Yên, coi những ǵ ḿnh đă trải qua sau tháng 4.1975 là một “kiếp nạn”, trở về gia đ́nh với một tâm trạng tuy có buồn đau nhưng không oán hận cuộc đời.
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này.
V́ thế, hồi ức này chỉ là sự nhắc nhở lại những kỷ niệm vui buồn của một phận người sau khi cuộc chiến kết thúc, nó không được sử dụng vào những mục tiêu chính trị và không nhằm nói lên những quan điểm cực đoan trước một quá khứ đă lùi sâu nửa thế kỷ. Tất nhiên, người viết cũng mong mỏi người đọc với một tâm thế như vậy, b́nh tâm và không cực đoan trong các b́nh luận của ḿnh.
I) BƯỚC VÀO CUỘC ĐỜI MỚI
Những ngày sau 30.4.1975, quang cảnh của thành phố Sài G̣n và hầu hết các tỉnh dưới vĩ tuyến 17 đă làm yên ḷng những người chiến thắng. Hàng triệu con người từng cầm súng chiến đấu hay điều hành bộ máy cầm quyền cũ chấp nhận sự thay đổi số phận một cách an nhiên, họ rùng rùng đi tŕnh diện đăng kư với mong mỏi làm lại cuộc đời, dù biết rằng sẽ không ít chông gai. Họ tham dự những buổi học ngắn ngày tại địa phương để nắm bắt được ít nhiều quy luật của một xă hội mới, hoặc với những người ở cấp bậc, chức vụ cao hơn, sự tập trung “học tập cải tạo” (HTCT) với thời gian được tin là sẽ kéo dài 10 ngày hay một tháng cũng được tuân thủ ngoài sự dự tưởng của nhiều người.
Khoảng thượng tuần tháng 5.1975, ḿnh thơ thẩn trước cổng Bộ Nội vụ cũ, định len lách vào để tŕnh diện đăng kư, cốt có được cái giấy chứng nhận có giá trị duy nhất như một thẻ thông hành. Chạm mặt người bạn đồng môn Nguyễn Văn Thọ, được bạn đưa ra một sáng kiến bất ngờ: bọn ḿnh là Phụ tá Tỉnh trưởng kinh tế (xếp ngang Phó Tỉnh trưởng hành chánh) trong hệ thống của Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo (Phó Thủ tướng đặc trách sản xuất kiêm Bộ trưởng Canh nông), tŕnh diện chi ở đây, hăy qua Ban quân quản Nông nghiệp (tại Bộ Canh nông cũ) mà tŕnh diện!
Thế là chiếc xe đạp cà tàng đưa hai anh quan chức ngă ngựa chạy cà rịch cà tang qua Bộ Canh nông (cũ) ở đầu đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, tŕnh diện với Ban Quân quản Nông nghiệp, lúc bấy giờ c̣n nằm trong tay các cán bộ tập kết người miền Nam. Tŕnh diện xong, bọn ḿnh được xếp vào thành phần chuyên viên của ông Hảo, được nhận vào làm việc tại văn pḥng cũ của ông Hảo chung với Bộ Canh nông, với thu nhập theo quy chế tạm thời lúc bấy giờ:
- Công chức cũ hạng A (Kỹ sư, Đốc sự ...): 23.000 đ/tháng
- Công chức cũ hạng B (Cán sự, Tham sự, Thư kư ...): 20.000 đ/tháng
- Công chức cũ hạng C (Tùy phái, tài xế ...): 17.000 đ/tháng (Giá tham khảo vào tháng 5.1975: 160.000 đ/ 1 lượng vàng)
Vào thời điểm này, các lớp học tại địa phương kéo dài 3 ngày dành cho hạ sĩ quan và binh sĩ của chế độ cũ được tổ chức khắp nơi; sau 3 ngày, họ “hồ hởi, phấn khởi” (tiếng mới không có tại miền Nam trước tháng 4.1975), cầm tấm giấy chứng nhận đi làm lại cuộc đời.
Khoảng 10.6.1975, Ủy ban quân quản thành phố Sài G̣n-Gia Định ban hành thông cáo yêu cầu đi tŕnh diện tập trung cải tạo các thành phần sau: công chức từ chức vụ Phó Quận, Phó Ty đến Phó Tổng thống, sĩ quan từ cấp Thiếu tá trở lên. Thông cáo ân cần nhắc nhở các đương sự: “mang theo tiền bạc, vật dụng đủ dùng trong một tháng”. Mỗi đương sự phải đóng cho cơ quan tổ chức học tập hơn 13.000 đ là tiền nuôi ăn của một tháng đó.
Khoảng ngày 11 hay 12.6.1975, anh Ba Lộc, Trưởng ban quân quản Nông nghiệp, triệu tập các viên chức cũ thuộc diện tập trung cải tạo với lời nhắc nhở mà người viết bài này vẫn c̣n nhớ rơ: “các anh nên đi tŕnh diện học tập, v́ việc này rất có lợi cho các anh!
”Cái “lợi” đó, trong suy nghĩ của mọi người, chính là cái giấy chứng nhận đă hoàn thành thời gian cải tạo, để có thể tạo dựng lại cuộc đời từ con số không, hoặc tốt hơn nữa, là sự trở lại cơ quan nông nghiệp ḿnh đă từ đó ra đi.
Cũng theo thông cáo trên, thời gian tŕnh diện cải tạo dành cho hai thành phần sĩ quan và viên chức trên là các ngày 13,14 và 15.6.1975. Sĩ quan tŕnh diện ở nhiều nơi, riêng thành phần dân sự th́ ngày 13 và 14.6 tại trường Gia Long, ngày 15.6 tại trường Trưng vương, gần Thảo cầm viên (Sở thú).
Một sự t́nh cờ đă chi phối khá nhiều vào lịch tŕnh diện này: ngày 13.6 rơi vào “ngày thứ sáu 13”, một điều kỵ của người Công giáo; c̣n ngày 14.6 lại là ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, người Phật giáo ít ai quên câu: Mùng 5, mười bốn, hăm ba – Đi chơi cũng thiệt huống là đi buôn. Phải chăng sự t́nh cờ này đă biến ngày 15.6 c̣n lại thành ngày “ám ảnh” của mọi người?
Ḿnh th́ không dị đoan, song v́ lưu luyến hai cô con gái c̣n quá nhỏ (6 và 3 tuổi) nên cũng chờ đến ngày cuối cùng mới đi tŕnh diện.
Sáng ngày hôm ấy, ḍng người xếp hàng chờ “nhập trường” Trưng vương trải dài từ cổng Thảo cầm viên đến đường Hồng Thập tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai), ban tổ chức cho vào từng nhóm một để c̣n có th́ giờ lập nhiều thủ tục khác ở trường. Tiếng là gọi đến cấp Phó Tổng thống, song trong thành phần tŕnh diện, chỉ có một ông cựu Chủ tịch Hạ viện (Nguyễn Bá Lương) và một ông cựu Chủ tịch Tối cao pháp viện (Trần Minh Tiết), từng là hai nhân vật thứ 4 và thứ 5 của chế độ. Riêng với thành phần dân biểu, nghị sĩ, một số người - tự nhận hoặc được báo chí xếp hạng - thuộc “thành phần thứ ba” như Lư Quư Chung (Chánh Trinh), Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba... th́ được miễn đi học, sau đó lại c̣n được phép phát hành tờ báo Tin Sáng, và chỉ “hoàn thành nhiệm vụ” vào đầu thập niên 1980.
Với các cựu dân biểu, nghị sĩ khác phải đi HTCT, chuyện cũng chưa hết. Họ xoay được từ Ban quân quản Quốc hội một tờ giấy giới thiệu, có lẽ nhằm giúp họ được ... vào tù sớm và nhanh hơn, nên trong lúc ḍng người xếp hàng có thứ tự đang nôn nóng đợi đến phiên ḿnh th́ khoảng một chục ông dân cử ấy từ đâu chen ngang vào, xuất tŕnh tờ giấy giới thiệu cầm trên tay như tấm bùa hộ mệnh.
Sự xuất hiện bất ngờ của đám người bon chen này đă gây ra một phản ứng sôi nổi của đám đông, căng thẳng đến mức mấy cán bộ bảo vệ trẻ xem đây là dịp thử súng tốt nhất. Họ chỉa thẳng mũi súng lên trời, thị uy bằng mấy loạt đạn nhắm vào tàng cây me cổ thụ gần nhất. Một trận mưa lá me rơi lên đầu các sĩ tử, và nếu lúc đó được như bây giờ, đă có smartphone để quay phim hay chụp ảnh, th́ đó sẽ là một trong những khung h́nh đẹp và lăng mạn nhất kể từ tháng 4.1975!
Cuối cùng th́ mọi việc cũng êm xuôi. Đại đa số “sĩ tử” được nhập trường Trưng vương, lập thủ tục “nhập học”. Một thiểu số không nhỏ bị từ chối v́ trường đă quá đông, mà trời sắp tối, phải lủi thủi trở về nhà trong tâm trạng bất an.
Mà họ có lư khi bất an như vậy! V́ tuy chỉ mới sau hơn một tháng mà chính quyền nhân dân đă hoạt động có hiệu quả. Với tai mắt nhân dân, ngay trong đêm 15.6 đó, hầu hết những người không được cho “nhập trường” đều bị gơ cửa nhà và bị dẫn giải đi, với cái tội “trốn tŕnh diện cải tạo”. Mặc cho đă thanh minh thanh nga với mọi lư do lư trấu, họ bị tống hết vào trại giam Chí Ḥa, cung cấp bữa tiệc máu bất ngờ cho đám muỗi đói, để rồi sáng hôm sau, sau khi các cơ quan đều biết rơ về lư do bất khả kháng của họ, họ mới được thả về. Cuối tháng 6, họ được lệnh đi tŕnh diện bổ sung, theo diện HTCT 30 ngày, cùng lúc với các sĩ quan cấp úy, được thông báo phải “mang theo tiền bạc và vật dụng đủ dùng trong 10 ngày”!
__________________
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Lê Nguyễn: Mấy kỷ niệm về một đoạn đời sau tháng 4-1975 (Kỳ 2)
II) NHỮNG ĐOÀN XE GIỮA ĐÊM HÔM KHUYA KHOẮT
Với số tiền ăn đă đóng hơn 13.000 đồng cho một tháng, ngay buổi chiều nhập trường Trưng Vương, mọi người đă nh́n thấy nhiều chiếc xe của nhà hàng Á Đông và nhà hàng Đồng Khánh chở thức ăn tới. Bữa ăn sang trọng gấp 3, gấp 4 một bữa ăn thông thường hàng ngày! Sự yên tâm, phấn khởi nhờ thế mà tăng lên.
Khoảng 10 giờ 30 tối hôm sau, 16.6.1975, mọi người được lệnh tập trung hết dưới sân trường Trưng Vương, mang theo đầy đủ tư trang, vật dụng. Sau những thông báo và quy định cần thiết về trật tự, sự im lặng cần thiết trong hành tŕnh sắp tới, mọi người lặng lẽ leo lên những chiếc xe GMC bít bùng, khung xe được bao bọc bởi những tấm bạt nối với nhau, để lộ nhiều chỗ hở, giúp người trong xe có thể nh́n thoáng ra ngoài.
Xe bắt đầu lăn bánh vào khoảng 11 giờ khuya, trong một thành phố ngủ yên như đă chết. Chúng tôi nh́n vẻ im vắng của nó qua những khe hở của tấm bạt phủ trùm xe, biết rằng xe đang chạy về hướng Biên Ḥa. Rồi xe rẽ phải về hướng Vũng Tàu. Có những tiếng th́ thào: Chẳng lẽ họ sẽ đưa ḿnh xuống tàu?
Câu hỏi được sớm trả lời khi xe đột ngột dừng lại và rẽ trái, đi lên một khoảng dốc lài. Rồi xe dừng hẳn, tắt máy. Chúng tôi nhảy xuống xe. Một vài người chợt nhận ra đây từng là “Làng cô nhi Long Thành”, nơi mà trước đó vài năm, cứ vào mỗi chủ nhật, nhiều người kéo nhau lên để thực hiện công tác thiện nguyện đối với hàng ngàn em cô nhi bất hạnh. Người điều hành làng cô nhi lúc đó có cái tên mộc mạc là “ông Tư Sự”, sau nghe nói là người của 'bên thắng cuộc'.
Làng cô nhi Long Thành đêm 16.6 ấy chỉ c̣n là một khu vực hoang vu, những dăy nhà dài trống hoác, im ĺm. Theo sự sắp xếp đội, tổ khi chúng tôi vào tŕnh diện ở trường Trưng vương, mỗi người được phân vào một dăy nhà dài độ 60 mét, ngăn thành 4 căn, dăy đầu tiên mang số 1, c̣n gọi là A16, dăy số 2 là A14, và cứ như thế tiến dần lên. Tiếp nhận chúng tôi là những cán bộ miền Nam tập kết, vui vẻ, thân thiện. Tại nhà 2, nơi tôi đến, anh cán bộ bỏ tiền túi ra đi mua những khoanh kẽm giăng dọc theo nhà để mọi người có chỗ máng dây mùng.
Tiếc là những con người vẫn c̣n mang dáng dấp chơn chất, dễ gần ấy chỉ tạm thời đảm nhận công việc, trong lúc đợi trung ương cử về những cán bộ chuyên trách thuộc Cục quản lư trại giam Bộ Nội vụ. Và ngày ấy đă đến, chỉ sau không đầy một tuần lễ, với những cán bộ mới phần lớn xuất phát từ Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa... gương mặt khắc khổ và tiếng nói nặng chịch, khó nghe.
III) HỌC VIÊN HAY TRẠI VIÊN?
Trong khoảng thời gian tiếp sau tháng 6.1975 ấy, không phải mọi việc đều đă rơ ràng. Nhiều sự thực lộ dần ra, nhanh hay chậm c̣n tùy vào sự t́m hiểu và nhạy bén của mỗi người.
Trước tiên là cách gọi dành cho những sĩ quan, viên chức chế độ VNCH đi "học tập cải tạo" (HTCT) dài hạn. Trong năm đầu tiên, họ được gọi là “học viên”, với cách hiểu họ c̣n là “nghi can”, chưa thành án. Cũng v́ thế, làng cô nhi Long Thành, nơi họ đến học tập, có tên là “Trường 15 NV”, chứ chưa phải là “trại”. NV là cách viết tắt của hai chữ Nội vụ, trường do Cục quản lư trại giam, Bộ Nội vụ, trực tiếp quản lư, phân biệt với phần lớn các trường trại ở các tỉnh, do chính quyền địa phương trực tiếp quản lư.
Trong lúc các tướng tá được sắp xếp ở nhiều trung tâm khác nhau th́ tất cả thành phần dân sự được tập trung hết vào trường 15 NV Long Thành (một huyện của tỉnh Đồng Nai lúc bấy giờ). Từ ngày 17.6.1975, nơi đây có gần 3.000 học viên, được chia thành 4 khối:
- Khối 1 đông đảo nhất, gồm công chức hành chánh, thẩm phán, dân biểu, nghị sĩ... Hầu hết “tinh hoa” của chế độ đă bại trận nằm trong khối này, từ ông cựu Chủ tịch Hạ viện, ông cựu Chủ tịch Tối cao Pháp viện, đến ông cựu Tổng trưởng Tài chánh, các dân biểu, nghị sĩ trưởng khối trong Quốc hội…
- Khối 2 gồm thành viên các đảng phái “phản động” từ cấp Phó bí thư quận, huyện trở lên, nhiều nhất là đảng Dân Chủ của cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, kế đến là các thành viên đảng Đại Việt và Việt Nam Quốc dân đảng.
Trong khối này có ít nhất hai nhân vật nổi bật nhất.
Người thứ nhất là cụ Vũ Hồng Khanh, người từng lănh đạo Việt Nam Quốc dân đảng và hợp tác cùng chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc chiến chống Pháp sau năm 1945. Sau gần 50 năm, ḿnh vẫn c̣n nhớ h́nh ảnh của cụ: Búi tóc nhỏ sau gáy, bộ bà ba đen, chiều chiều, cụ ḥa vào ḍng người đi tản bộ trên “đại lộ hoàng hôn”. Khi đi, cụ hơi cúi người về phía trước, hai bàn tay nắm chặt lại phía sau lưng, rảo bước một ḿnh, không tṛ chuyện với ai.
Người thứ hai là luật sư Nguyễn Lâm Sanh, trước tháng 4.1975 là Phó chủ tịch Liên minh Á châu chống Cộng (chủ tịch là ông Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng VNCH, sau chết trong một trại cải tạo). Nghe kể rằng trước khi ra khu, luật sư Nguyễn Hữu Thọ có mở chung văn pḥng với LS Sanh, khi ra khu, ông Thọ có nhờ ông Sanh chăm sóc giúp gia đ́nh, và nghe đâu ông Sanh từng cho một người con trai của ông Thọ sang Pháp học (?). Những chi tiết này ch́ là nghe qua lời đồn đăi, c̣n cần kiểm chứng rơ ràng hơn, xin kể lại với tất cả sự dè dặt.
Đến khoảng tháng 10 năm 1975, Cục quản lư trại giam Bộ Nội vụ cử một đoàn cán bộ đông đảo lên Long Thành để hoàn tất hồ sơ mỗi học viên. Họ chụp ảnh, lăn tay và làm nhiều thủ tục cần thiết khác cho học viên. Nghe đâu ông Nguyễn Hữu Thọ, lúc đó là Phó Chủ tịch nước, có nhờ người con trai lên theo đoàn công tác, thăm LS Nguyễn Lâm Sanh, kèm theo mấy món quà. Đó cũng chỉ là “nghe đâu” thôi, xin không coi đó là thông tin có căn cứ xác đáng!
- Khối 3 gồm toàn các viên chức thuộc Phủ Đặc ủy Trung ương T́nh báo, mà theo thông cáo của Ủy ban Quân quản là “thuộc thành phần trung cấp trở lên”. Sự khác biệt trong cách hiểu từ “trung cấp” đă dẫn đến một hệ quả cười ra nước mắt. Người miền Nam lúc ấy hiểu từ công chức “trung cấp” là những người thuộc hạng B, từ ngạch thư kư đánh máy trở lên. Thế là các cô cậu nhân viên đánh máy ở Phủ Đặc ủy rùng rùng đi tŕnh diện học tập cải tạo, một số rất đông là nữ.
Măi đến khoảng 6 tháng sau, sau khi xem kỹ hồ sơ, biết họ chỉ là những nhân viên thừa hành cấp thấp, Cục quản lư trại giam đă trả tự do cho họ. Trong số những người về đợt này, có con trai anh Nguyễn Đ́nh Xướng, người đàn anh của anh em Quốc gia Hành chánh, chức vụ cuối cùng là Tổng Quản trị Hành chánh Phủ Tổng thống, mà người viết bài này từng có một bài viết dài về anh trên Facebook.
Vẫn c̣n nhớ rơ h́nh ảnh anh Xướng đứng ở đầu nhà gọi nhắn theo cậu con trai hối hả đi theo đoàn người ra cổng trại trong ngày được trả tự do ấy.
Trong số các viên chức “trung cấp” thật sự của Phủ Đặc ủy Trung ương T́nh báo tŕnh diện cải tạo thuộc khối 3, có khá nhiều người từng tốt nghiệp khóa Cao học Hành chánh. Trong một dịp họ sắp tốt nghiệp, Phủ Đặc ủy quá cần người, đă được phép Phủ Thủ tướng qua Học viện Quốc gia Hành chánh chọn nhiều người trong số họ để đưa sang Phủ làm việc ngay sau khi họ tốt nghiệp. Đa số những người này bị chọn ngoài ư muốn. Riêng người viết bài này có một người bạn đồng môn, đồng song, làm Chánh Sở Bắc Việt vụ tại Phủ nói trên, cái tên sở nghe qua đă lạnh người!
- Khối 4 gồm các sĩ quan cảnh sát từ cấp Thiếu tá trở lên. Trước năm 1972, khi ngành cảnh sát chưa chuyển qua chế độ cấp bậc như quân đội, họ là những viên chức thuộc ngạch Quận trưởng cảnh sát (có bằng Cử nhân luật trở lên), hoặc Biên tập viên cảnh sát có thâm niên. Đại đa số họ thuộc phái nam, chỉ có một số rất ít là nữ, trong đó có nữ Thiếu tá NTT, biệt đội trưởng biệt đội Thiên Nga, một tổ chức đặc biệt gồm toàn nữ trong guồng máy cảnh sát VNCH lúc bấy giờ.
Khối 1 đông hơn cả, được phân cho khoảng 6 dăy nhà, từ nhà 1 đến nhà 6, Dăy đầu tiên gọi là Nhà 1, có ít nhất hai nhân vật khá nổi tiếng thời đó. Đó là luật sư Trần Văn Tuyên, một nhân sĩ trí thức từng thuộc nhóm Caravelle, rất được công chúng ngưỡng mộ. Người thứ hai là nhà báo, nhà hoạt động chính trị Phạm Thái, bút danh của ông Nguyễn Ngọc Tân (?), thành viên đảng Đại Việt. Trong số mấy ngàn học viên ở Long Thành lúc đó, ông Phạm Thái có vinh dự được các phương tiện truyền thông nhắc đến nhiều về việc trước năm 1975, ông từng có bài báo lên án vở kịch Lá Sầu Riêng của kịch sĩ Kim Cương là sản phẩm tuyên truyền cho phía CS. Mà thật vậy, sau 1975, chính tác giả vở kịch và nhiều cây bút XHCN đă khẳng định điều đó.
Ông Phạm Thái thường qua nhà 2, nơi tui ở, để nói chuyện, và chứng tỏ một kiến văn quảng bác về nhiều vấn đề chính trị, xă hội trên thế giới. Theo yêu cầu của anh em, ông c̣n mở lớp dạy Hán văn, song chỉ mấy ngày sau, lớp học này bị buộc phải giải tán. Với quan điểm và quá tŕnh hoạt động chính trị của ông, ai cũng nghĩ rằng thời gian ở trại của ông sẽ phải thâm niên hơn nhiều so với đa số những người khác. Nhưng không, mọi suy đoán đều sai lạc một cách thảm hại.
Chỉ khoảng 2 tháng sau, ông Phạm Thái được ra về theo một quyết định mà trong đó, ông được ghi là can tội “Giám đốc”, một chức vụ mà không ai từng nghe nhắc đến về ông. Đây là sự bất ngờ lạ lẫm nhất, để rồi lại có tin đồn rằng ông là anh của phu nhân một vị lănh đạo rất cao từng có thời gian mấy năm ở lại miền Nam sau hiệp định Genève 1954. Đây cũng là một loại “tin đồn vô căn cứ” khác.
Về mặt nhân sự, dăy nhà 2 của tui có lẽ là một trong mấy nơi hùng hậu nhất. Ở đây có các ông:
- Trần Minh Tiết, cựu Chủ tịch Tối cao Pháp viện
- Lưu Văn Tính, chuyên gia tài chính, cựu Tổng trưởng Tài chánh, trước tháng 4.1975 là cố vấn tài chánh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
- Nguyễn Xuân Phong, Trưởng phái đoàn VNCH tại ḥa đàm Paris trước tháng 2.1973
- KTS Ngô Viết Thụ, khôi nguyên giải La Mă, người tái thiết dinh Độc lập vào đầu thập niên 1960
- Anh Nguyễn Đ́nh Xướng, Tỉnh trưởng Vĩnh B́nh (Trà Vinh) thời Ngô Đ́nh Diệm, chức vụ cuối cùng: Tổng Quản trị Hành chánh Phủ Tổng thống
- Cụ Phạm Trọng Nhân, nhân viên ngoại giao kỳ cựu, cựu Đại sứ VNCH, chức vụ cuối cùng: Giám đốc Nha nghi lễ Bộ Ngoại giao...
Trong một bài viết trên Facebook vào cuối tháng 4 một năm nào đó, tui có nhắc đến sự “gặp gỡ” t́nh cờ tại trại Long Thành giữa ông cựu trưởng phái đoàn ḥa đàm VNCH Nguyễn Xuân Phong và ông cựu trưởng phái đoàn ḥa đàm VNDCCH Xuân Thủy, có khác chăng là lúc đó Nguyễn Xuân Phong là một tù nhân đứng bên cửa sổ nh́n ra, c̣n Xuân Thủy là một cán bộ cao cấp đi thị sát trại, có một nhóm cán bộ lănh đạo trại khép nép theo sau. Trong t́nh huống bất ngờ đó, tui t́nh cờ đứng cạnh ông Phong, ṭ ṃ liếc qua, thấy ông chống tay lên hông, nh́n cảnh tượng diễn ra bằng một đôi mắt thật b́nh thản.
(C̣n nữa)
__________________
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Một điểm hay của sách giáo khoa thời trước 1975 ở miền Nam là không có yếu tố tuyên truyền chánh trị trong đó.
Thời gian gần đây, qua những vụ việc mang tính tiêu cực liên quan đến ngành giáo dục làm cho nhiều người đi đến nhận định rằng nền giáo dục chịu trách nhiệm một phần cho hiện tượng đạo đức xă hội bị 'suy thoái'. Những người quan tâm bàn đến những vấn đề vĩ mô như triết lí giáo dục như là một cách thoát ra khỏi t́nh trạng suy thoái. Nhưng tôi nghĩ trong t́nh h́nh hiện nay, có một cuốn sách có thể giúp nâng cao đạo đức học đường, và qua đó, giúp khôi phục đạo đức xă hội. Đó là cuốn sách "Những bài học thuộc ḷng Tân Quốc Văn Giáo Khoa Thư" (*) của soạn giả Trần Văn Chánh.
Tân Quốc Văn Giáo Khoa Thư
Tôi sẽ gọi tắt là "Tân Quốc Văn Giáo Khoa Thư" (Tân QVGKT) để phân biệt với bộ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư của các soạn giả Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đ́nh Phúc và Đỗ Thận. Bộ sách QVGKT dù được xuất bản gần 100 năm trước, nhưng cho đến nay vẫn được xem là một cuốn sách giáo khoa thuộc vào hàng hay nhất và có ảnh hưởng lớn nhất. Những câu chuyện trong sách nhắm đến việc hun đúc t́nh thương yêu đồng bào; tôn trọng mạng sống của con người; ḷng nhân ái; trọng của người; không vọng ngữ, v.v. cho đến nay vẫn c̣n nguyên giá trị.
Tân QVGKT là một sự tiếp nối QVGKT nhưng với một h́nh thức khác. QVGKT dùng văn xuôi, c̣n Tân QVGKT dùng thơ. Dùng h́nh thức thơ có lẽ là một lựa chọn hay, v́ có vần điệu nên người đọc dễ nhớ và dễ cảm nhận. Tân QVGKT là một tuyển tập 263 bài thơ rất quen thuộc đối với học tṛ tiểu học ở miền Nam thời trước 1975. Đó là những bài thơ mà thế hệ chúng tôi học thuộc ḷng. Theo thời gian, những người thuộc thế hệ tôi không c̣n nhớ bao nhiêu, nên tuyển tập này là một gợi nhớ đến kỉ niệm của một thời c̣n cắp sách đến trường. Những giá trị đạo đức và luân lí của những bài thơ đó th́ vẫn c̣n mang tính thời sự, và rất cần thiết cho học tṛ thời nay.
Soạn giả Trần Văn Chánh đặt tiêu đề cho cuốn sách là "Bổn cũ soạn lại". Bổn cũ là v́ đây là những bài thơ đă đăng trên nguyệt san nổi tiếng "Tiểu Học Nguyệt San" trong thập niên 1950s đến 1960s. Soạn giả đă cất công tuyển chọn những bài thơ của các nhà khảo cứu nổi tiếng (như Nguyễn Văn Ngọc, Phan Sào Nam tức Phan Bội Châu, Nguyễn Văn Vĩnh, Kim Định), và dĩ nhiên đa số là từ các nhà nhơ xưa và nay như Nguyễn Du, Tam Nguyên Yên Đổ, Đặng Duy Chiểu, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Trăi, Nguyễn Nhược Pháp, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu , Đoàn Văn Cừ, Mộng Tuyết, Anh Thơ, Vơ Lang, Trần Hiền Ân, Vũ Tiến Thu, Kiên Giang, Vũ Hoàng Chương, Tế Hanh, Bàng Bá Lân, v.v. Một số tác giả không thấy kí tên thật mà chỉ là những chữ viết tắt như "M. H", "T. H." T. T. P", thậm chí "X"!
Có thể xếp 263 bài thơ vào 4 chủ đề chính: t́nh yêu tổ quốc, phong cảnh đất nước, t́nh yêu tha nhân, và học đường. Bạn đọc sẽ thấy những bài thơ có tựa đề như T́nh tổ quốc, Ḷng nhân ái, Ngày Giỗ Tổ, Nhớ ơn tổ tiên, Người dân Việt, T́nh quê hương, Quê cha đất tổ, v.v. Phong cảnh đất nước được thể hiện qua những bài thơ như Nha Trang, Sài G̣n, Đà Lạt, Sông Cửu Long, Đèo Hải Vân, v.v. cùng những danh nhân Trần Hưng Đạo, Khóc Tản Đà. Người đọc cũng sẽ t́m lại những kỉ niệm đẹp thời dưới quê qua những bài thơ đẹp như tranh thủy mặc như Cảnh quê, Phiên chợ quê, Bức tranh xuân, Tết nhà quê, Xuân Kỉ Dậu, Chiều thôn quê, Ngày mùa, Trăng thu, v.v. Những bài thơ khuyên học tṛ làm vệ sinh, Tuổi xanh chăm học, Đừng tham ăn, Nên dùng hàng nội hóa, v.v. Học đường được miêu tả qua những bài thơ quen thuộc như Có một trường, Trong pḥng thí nghiệm, Vệ tinh nhân tạo, Hè về, Khai trường, Cắm trại, v.v. Đó là những bài học có giá trị vĩnh cửu, những bài học không bao giờ lỗi thời, và vượt lên các định kiến chánh trị.
Các tác giả dùng chữ đơn giản, giàu h́nh tượng, và câu thơ thường ngắn. Đó là một kĩ năng rất tốt để truyền đạt những ư tưởng phức tạp đến trẻ em. Mỗi bài thơ có những chữ mới (đối với học tṛ) và được soạn giả giải thích các chữ mới đó một cách ngắn gọn. Đọc xong mỗi bài thơ, các em sẽ học thêm được một vài chữ mới và ư tưởng mới.
Cuốn sách của kỉ niệm
Tác giả Trần Văn Chánh có chủ đích soạn Tân QVGKT cho học tṛ cấp tiểu học (lớp Ba, Bốn, và Năm), nhưng những người ở tuổi lục tuần trở lên và từng lớn lên ở miền Nam th́ cuốn sách này là cả một khung trời kỉ niệm. Kỉ niệm về một thời dưới những mái trường giàu đạo đức học đường, giàu truyền thống 'tôn sư trọng đạo', và [nói theo ngôn ngữ thời nay] tự do học thuật.
Đối với tôi, h́nh ảnh của những người thầy cô thời tiểu học và trung học thật khó quên. Từ cách ăn mặc nghiêm chỉnh, lời nói nhẹ nhàng, phong cách ứng xử xă hội, đến nét chữ trên bảng đen làm nên những nhà mô phạm mà đám học tṛ chúng tôi phải noi theo. Tôi không bao giờ quên một người thầy cao tuổi cứ nhắc đi nhắc lại câu văn trong QVGKT khuyên học tṛ không nên vọng ngữ:
"Sự nói xấu là cái tật cứ đi bới móc chuyện xấu của người ta mà nói. Người nói xấu là có ác ư hoặc để thỏa ḷng ghen ghét, hoặc để khoe cái hay và che cái dở của ḿnh. Người nói xấu là người hèn hạ đáng khinh, v́ chỉ nói những lúc vắng mặt người ta, để làm cho người ta mất danh giá. Ta đi học, đă biết điều phải trái, th́ ta chớ hề nói vu cho ai bao giờ. Ta nên cho những điều ấy là điều hèn mạt, đáng khinh bỉ."
Những lời cảnh báo đó vẫn c̣n y giá trị thời sự ngày nay.
Một số bài thơ tôi vẫn c̣n nhớ là bài Thư thăm thầy (của Đào Thanh Khiết) có những câu hết sức cảm động và nói hộ cho biết bao thế hệ học tṛ: Nhờ ơn thầy dạy dỗ / Con mới được nên hay / Nhờ công thầy cực khổ / Con mới có ngày nay. Có bài Trong vũ trụ của Quốc Trung, bây giờ đọc lại thấy bài thơ có chất 'thiền', ấy vậy mà chúng tôi đă nhập tâm bài thơ khi c̣n ở lứa tuổi tiểu học:
Ḱa ngắm cảnh thiên nhiên hùng vĩ,
Tài hóa công huyền bí vô cùng,
Núi non điệp điệp trùng trùng,
Sông dài, biển rộng, cánh đồng bao la.
Trong vũ trụ, người là cát bụi,
Đời trăm năm ngắn ngủi tấc gang,
Một hơi gió thoảng nhẹ nhàng,
Một con trùng nhỏ đủ tan mạng người.
Gợi kỉ niệm nhất là bài thơ Con đường quê (ngày xưa có tựa đề là Lời con đường quê) của thi sĩ Tế Hanh, v́ những câu thơ tả đúng cảnh làng quê tôi ở miền Tây:
Tôi, con đường quê nhỏ chạy lang thang,
Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng.
Đến cuối thôn kia hơi cỏ vướng
Hương đồng quyến rũ hát lên vang.
Từ đấy ḿnh tôi cỏ mọc đầy,
Giọc ḷng hoa dại ngát hương lây.
Tôi ôm đám lúa, quanh nương sắn,
Bao cái ao rêu nước đục lầy...
Những buổi mai tươi nắng chói xa
Hồn tôi lóng lánh ánh dương sa,
Những chiều êm ả tôi thư thái
Như kẻ nông phu trở lại nhà.
Trước 1975, ở miền Nam các thầy cô dạy trung học được gọi là "Giáo sư" (dịch từ chữ "Professeur" của Pháp), và tôi nghĩ họ xứng đáng với danh xưng đó. Có những giáo sư trung học thời đó, tuy không có bằng cấp cao cỡ tiến sĩ, nhưng những công tŕnh nghiên cứu của họ và những sách giáo khoa họ soạn đều là những công tŕnh để đời. Trong giảng dạy, các giáo sư trung học được quyền tự do chọn chủ đề và cách dạy, mà không có thế lực chánh trị nào can thiệp.
Có thể nói giáo dục thời trước 1975 ở miền Nam là một "đền thiêng" gần như độc lập với quan điểm chánh trị của chánh quyền đương thời. Thật vậy, chương tŕnh Việt Văn ngày xưa có khá nhiều tác phẩm và tác giả thuộc bên kia chiến tuyến như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Lưu Trọng Lư, Phạm Huy Thông, Thanh Tịnh, Văn Cao, Hữu Loan, v.v. Chương tŕnh triết học vẫn giảng dạy chủ nghĩa cộng sản và có những tranh luận sôi nổi.
Trong những ḱ thi, giới chánh trị và quân sự không được can thiệp. Trưởng nữ của ông Ngô Đ́nh Nhu không được nhận vào trường y (v́ thiếu điểm) nhưng không 'cận thần' nào trong chánh phủ Ngô Đ́nh Diệm dám can thiệp.
Ông tướng Cao Văn Viên là người học giỏi và rất ham học, dù là quân nhân cấp tướng rất bận rộn, nhưng ông vẫn ghi danh học cử nhân văn khoa. Trong ḱ thi sau cùng, ông thi đậu cao các ḱ thi viết nhưng bị đánh rớt trong ḱ thi vấn đáp, và giám khảo đánh rớt ông là một người ở tuổi quân dịch! Vị giám khảo này chẳng bị phiền hà ǵ. Dĩ nhiên, ông tướng phải thi lại.
Có một câu chuyện thật khác về một ông trung tá học cử nhân văn khoa bị giám khảo đánh rớt và phải thi lại, và vị giám khảo này là lính của ông trung tá!
Có thể nói không quá đáng rằng nền giáo dục thời đó đă có được quyền mà ngày nay chúng ta gọi là "tự do học thuật" (academic freedom).
Có thể xem nền giáo dục thời trước 1975 là một tiếp nối nền giáo dục chịu sự chi phối của Khổng Nho vào cuối thế kỉ 19 và nền giáo dục Pháp thuộc. Đó là nền giáo dục được xây dựng dựa trên 3 nguyên tắc được đề ra từ năm 1958: Nhân Bản, Dân Tộc, và Khai Phóng. Nguyên tắc Nhân Bản đặt con người là trọng tâm của phát triển (chứ không phải là công cụ) và chấp nhận sự khác biệt giữa các cá nhân. Nguyên tắc Dân Tộc tôn trọng và phát huy các tinh hoa của truyền thống dân tộc, đảm bảo sự đoàn kết dân tộc. Nguyên tắc Khai Phóng tôn trọng tinh thần khoa học và tiếp nhận những kiến thức mới, và góp phần vào sự phát triển văn minh nhân loại.
Do đó, không ngạc nhiên khi thấy nội dung cuốn Tân QVGKT xoay quanh những bài học với 3 nguyên tắc giáo dục Nhân Bản, Dân Tộc, và Khai Phóng. Có thể nói rằng Tân QVGKT không phải chỉ đơn thuần là sách giáo khoa cấp tiểu học, mà c̣n bao hàm nhiều triết lí sống và tương tác giữa con người và xă hội. Tôi thấy nội dung cuốn Tân QVGKT là một bổ sung rất tuyệt vời cho bộ QVGKT, v́ nó giúp mở mang trí tuệ và làm giàu tâm hồn của giới trẻ.
Giáo dục là kiến thức sống, là thông tin và kĩ năng trong đời người. Học đường là môi trường chuẩn cho thầy và tṛ sử dụng trong việc chuyển tải và thu nhập kiến thức, thông tin và kĩ năng. Trong thời b́nh, xây dựng một nền giáo dục nhân bản, dân tộc và khai phóng (hay khoa học) phải là ưu tiên số 1 của bất cứ chánh phủ nào có trách nhiệm, bởi v́ giáo dục là một chất xúc tác cho tiến bộ xă hội qua việc đào tạo những cá nhân hữu dụng, nhân văn và viễn kiến.
Trong bối cảnh các giá trị luân lí và đạo đức xă hội bị xói ṃn, việc xuất bản cuốn Những bài học thuộc ḷng Tân Quốc Văn Giáo Khoa Thư vừa đúng lúc vừa có ư nghĩa thời sự. Đây là loại sách cần và nên có mặt trong thư viện của tất cả các trường trung tiểu học và tủ sách của mọi gia đ́nh người Việt.
GS Nguyễn Văn Tuấn
__________________
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Kỳ 5: Vấn đề tham nhũng - Phê b́nh sự lư giải của điệp viên Frank Snepp về lư do “v́ sao Mỹ bỏ rơi VNCH”
Tôi có theo dơi các bài phỏng vấn điệp viên Frank Snepp do BBC thực hiện. Bài cuối cùng nói về nguyên nhân “v́ sao Mỹ bỏ rơi VNCH”.
Theo Frank Snepp: “Kissinger và Nixon cùng nghĩ ra chiến lược bỏ rơi Việt Nam mà trên thực tế họ đă thực hiện. Năm 1969, Kissinger và Nixon đến nhậm chức tại Nhà Trắng. Họ là một cặp đôi, trong đó Nixon là tổng thống. Họ hứa đưa Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, đó là lời hứa với người dân Hoa Kỳ khi tranh cử”.
Tôi chia sẻ nhận xét này của Frank Snepp. Nixon đắc cử tổng thống Mỹ tháng 9 năm 1968, nhậm chức tháng giêng 1969, nhờ các hứa hẹn sẽ “kết thúc chiến tranh Việt Nam” và đem lại “ḥa b́nh trong danh dự” cho nước Mỹ.
Sau cuộc “tổng tiến công và nổi dậy” trong Tết Mậu thân 1968, quần chúng Mỹ đa số chống chiến tranh Việt Nam, cũng như dư luận thế giới không thuận lợi cho sự can thiệp của quân đội Mỹ vào nội t́nh Việt Nam.
Học thuyết Nixon ra đời năm 1969, với “quân sư” là Henry Kissinger. Mục tiêu học thuyết là “ḥa Trung chống Xô”, sau khi nhận thấy có sự rạn nứt nghiêm trọng trong khối cộng sản giữa Trung Quốc và Liên Xô (do những xung đột trên vùng biên giới).
Tuy nhiên tôi không chia sẻ với Frank Snepp về ư kiến Nixon “cống hiến Việt Nam cho Bắc Kinh để Trung Quốc cởi mở hơn và làm bạn với Hoa kỳ”.
Thực tế chỉ ra rằng, nếu Nixon muốn có “một khoảng thời gian hợp lư” để rút khỏi Việt Nam th́ Mao chỉ muốn một “khoảng cách hợp lư” giữa hai vùng ảnh hưởng Mỹ-Trung.
Mâu thuẫn Trung-Xô khiến Bắc Kinh dễ dăi trong cách tiếp cận với Mỹ. Trong khi Trung ương đảng CSVN khai sinh chính sách “đi dây” giữa hai “đồng chí anh em Liên Xô và Trung Quốc”.
Từ năm 1965 đến 1969, viện trợ quân sự của Liên Xô cho miền Bắc từ 4 đến 5 tỉ đô la, trong khi viện trợ của Trung Quốc chỉ c̣n 20% con số viện trợ của Liên Xô. Liên Xô giúp cho Bắc Việt nhiều thứ vũ khí tối tân hơn vũ khí của Mỹ viện trợ cho VNCH. Miền Bắc tách dần khỏi quỹ đạo Trung Quốc, trở thành vệ tinh của Liên Xô, trong khi đó Lào và Campuchia trung lập. Trung Quốc tưởng chừng không c̣n điểm nắm tại Đông Dương.
Từ sau Hiệp định Genève 1954, Bắc Kinh không hề muốn Bắc Việt Nam thành công trong sự nghiệp “giải phóng miền Nam” mà chỉ muốn một Việt Nam bị phân chia, miền Bắc phục tùng Trung Quốc. Trung Quốc chỉ muốn Việt Nam (và Triều Tiên) không bao giờ thống nhứt. Một Việt Nam (và Triều Tiên) chia rẽ và chiến tranh luôn có lợi cho Bắc Kinh.
Sau biến cố Mậu Thân, Hội nghị Paris được mở (tháng 5-1968). Trung Quốc lo ngại Washington và Moscow thỏa thuận một “giải pháp Việt Nam” mà Trung Quốc đứng ngoài. Trung Quốc t́m mọi cách phá hoại Hội nghị bằng cách thúc đẩy CS Bắc Việt gia tăng cường độ chiến tranh.
Trần Nghị, bộ trưởng bộ ngoại giao Trung Quốc gặp đại diện Việt Nam tháng 10-1968, đe dọa chấm dứt ngoại giao nếu Việt Nam “chấp nhận 4 bên đàm phán”. Trung Quốc cho rằng, như thế là giúp Johnson thắng cử, làm kéo dài sự “đô hộ của dân miền Nam dưới gót giầy đế quốc Mỹ!” (sic!).
Năm 1969, Trung Quốc đặt vấn đề với CSVN: Thế Việt Nam muốn đánh hay ḥa để Trung Quốc tính việc viện trợ? Viện trợ của Trung Quốc năm 1969 sụt 20% so với năm 1968.
Tức là do lo ngại đàm phán của ba nước Việt-Xô-Mỹ có thể gây bất lợi, Trung Quốc thúc đẩy Hà Nội lên thang chiến tranh. Trung Quốc cho rằng, Việt Nam dùng viện trợ của Trung Quốc đánh Mỹ, nhằm mục tiêu đàm phán với Mỹ th́ viện trợ của Trung Quốc không có ư nghĩa.
Hiển nhiên, quyết tâm của Trung Quốc khiến Nixon không thể thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Washington cũng nắm được ư đồ của Trung Quốc. Mỹ nhận thấy không thể thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh” nếu không có sự đồng thuận của Trung Quốc. V́ thế, con đường “Việt Nam hóa chiến tranh” của Nixon bắt buộc phải đi qua Bắc Kinh.
Qua các cuộc đi đêm và ngoại giao “bóng bàn” với Washington, Bắc Kinh thiết lập lại cầu nối với Mỹ. Từ đó ta thấy, Bắc Kinh làm áp lực hiệu quả lên Hà Nội để Mỹ rút quân khỏi Việt Nam b́nh an. Đổi lại, Mỹ nh́n nhận Bắc Kinh là đại diện chính thức của Trung Quốc tại LHQ, thay v́ nhà nước Quốc Dân đảng ở Đài Bắc, đồng thời hứa giúp Trung Quốc phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật.
Mỹ không thể “cống hiến” Việt Nam cho Trung Quốc, như Frank Snepp nói. Việt Nam có vào lọt ṿng ảnh hưởng của Trung Quốc hay không c̣n tùy thuộc vào sức mạnh và ư chí đảng CSVN, cũng như tương quan lực lượng giữa Trung Quốc và Liên Xô đối với Bắc Việt Nam. Không phải chỉ có duy nhứt Trung Quốc là “đỡ đầu” cho Bắc Việt Nam.
Thực tế cho thấy, Học thuyết Nixon đă “ứng nghiệm”. Cộng sản lục địa thay chỗ Quốc dân đảng ở LHQ, và Mỹ rút quân một cách “an toàn” ra khỏi Việt Nam.
Thực tế cũng cho thấy, sau 1973, “khi đồng minh tháo chạy” khỏi miền Nam Việt Nam, đảng CSVN hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của Bắc Kinh và ngả vào Liên Xô. Sau 1975, Việt Nam trở thành “tên xung kích vô sản sừng sỏ” vùng Đông Nam Á của đế quốc cộng sản Liên Xô.
Và thực tế cho thấy, cam kết của Nixon về chiến tranh Việt Nam không đem lại cho Mỹ “danh dự”, cũng như cho châu Á một nền “ḥa b́nh”, đúng như tựa đề quyển sách “No peace, No honor” của Larry Berman.
Tức là sự lư giải của Frank Snepp về việc Mỹ “nhượng” Việt Nam cho Trung Quốc là hoàn toàn không có căn cứ. Chỉ có Nixon và Kissinger “bán đứng” VNCH cho CS Bắc Việt mà thôi.
Điều mâu thuẫn trong sự lư giải của Frank Snepp về nguyên nhân sự sụp đổ nhanh chóng của VNCH, Frank Snepp nói rằng: “Tôi nghĩ những người bạn Việt Nam thân yêu của tôi không đúng khi đổ lỗi sự sụp đổ nhanh chóng của VNCH cho Hoa Kỳ… Việc thất trận của VNCH đến từ những lư do gần nhà hơn.”
Những lư do “gần nhà”, theo ông Frank Snepp, “thứ nhất, viện trợ không thể đến kịp thời để cứu miền Nam Việt Nam. Thứ hai, hệ thống hậu cần của VNCH đă bị tham nhũng lũng đoạn, khó có thể tiếp thu và triển khai thêm vật liệu một cách hiệu quả. Và, cuối cùng, các cấp tư lệnh Nam Việt Nam v́ lo xa không muốn để vũ khí thặng dư gần tiền tuyến, pḥng khi Cộng sản tràn vào, mà cất chúng ở xa. V́ vậy, khi cộng sản tấn công vào Quân khu 1, họ cạn kiệt đạn dược và không có một kho dự trữ đủ gần để có thể đến lấy, trước khi bị Cộng sản tiến chiếm".
Mâu thuẫn của Frank Snepp là ông đă nh́n nhận “viện trợ (Mỹ cho VNCH) không thể đến kịp thời” và ông cũng biết rơ ư định của Nixon và Kissinger là “bỏ Việt Nam”.
Viện trợ đến trễ, cũng như bịnh nhân nghẹt thở mà oxygen đến trễ. Th́ có khác ǵ cúp viện trợ đâu?
Khi đă quyết định “bỏ Việt Nam” và cúp viện trợ th́ mọi lư lẽ nhằm quy trách nhiệm sụp đổ VNCH do nội bộ VNCH đều chỉ là ngụy biện. Quốc hội Mỹ thời đó có câu “không bỏ thêm một xu cho chiến tranh Việt Nam”.
Mỹ bỏ Đài Loan nhưng dầu sao xứ này có luật Taiwan Relations Act bảo vệ. C̣n Mỹ bỏ VNCH đơn thuần như bỏ một cái áo rách.
Thời điểm trước “chiến dịch mùa xuân 1975”, bắt đầu tháng 12 năm 1974, số đạn dược, súng ống, xăng dầu, xe cộ… của VNCH c̣n lại là bao nhiêu? Đủ để quân VNCH “cầm cự” bao lâu?
Lúc Trung Quốc đánh Hoàng Sa (tháng giêng năm 1974), phi cơ VNCH đă không có xăng để bay ra bỏ bom. Khi Mỹ “tháo chạy” năm 1973, xe cộ bỏ lại hàng hà sa số. Hầu hết đều “bỏ xó”, không sử dụng được v́ không có xăng dầu và phụ tùng thay thế.
Tại các tiền đồn, từ cuối năm 1974, pháo binh của VNCH đă không đủ đạn để bắn giải vây hay yểm trợ cho các đơn vị hành quân.
Frank Snepp cũng nói rằng: “Công bằng mà nói, Nixon không có lựa chọn nào khác v́ Hoa Kỳ và VNCH đă không đánh bại được Bắc Việt”.
Cho rằng ngay cả lính Mỹ và lính VNCH hợp lại cũng “không đánh bại” CSVN mà điều này chưa chắc. Đánh “kiểu Mỹ”, từ Việt Nam qua Iraq cho tới Afghanistan… Mỹ đều thua.
Thực tế cho thấy, hoàn toàn khác với lư giải của Frank Snepp, quân VNCH không thua, họ chỉ “buông súng” khi đă hết đạn (và khi có lịnh từ Dương Văn Minh). Bộ đội miền Bắc hay lính Cộng ḥa miền Nam đều là người Việt. Họ đều có “lá gan” như nhau. Mỹ “tháo chạy” năm 1973. Quân VNCH một ḿnh chống chọi lại đạo quân mà Frank Snepp thú nhận Mỹ “không đánh lại”, cho tới tháng Tư năm 1975.
C̣n lư do Frank Snepp cho rằng, VNCH sụp đổ v́ lư do hàng ngũ lănh đạo VNCH “tham nhũng”. Đa số lănh đạo thượng tầng của VNCH đều chạy thoát và tị nạn bên Mỹ. Ông Frank Snepp có thể chỉ ra ai là người qua Mỹ sống bằng tiền tham nhũng?
Mỹ thua và bỏ chạy v́ nhiều lư do mà lư do chính là Mỹ đánh giặc kiểu “nhà giàu”. VNCH sụp đổ v́ bị Mỹ ép “đánh giặc theo kiểu nhà giàu”.
Mỹ rút Afghanistan, quân Mỹ c̣n ở Kabul mà quân chính phủ thân Mỹ đă “buông súng” và Taliban đă chiếm toàn bộ lănh thổ. Mỹ thoát thân ra khỏi Kabul dưới họng súng “bảo vệ” của quân Taliban mà Mỹ thề thốt phải tiêu diệt.
Mỹ sẽ tiếp tục thua nếu vẫn tiếp tục đánh giặc kiểu quăng tiền ra cửa sổ.
V́ sao Mỹ thua ở chiến tranh Việt Nam?
Theo tôi, Mỹ thua, kéo theo VNCH sụp đổ, có hai lư do chính và một lư do phụ. Lư do thứ nhứt, Mỹ thua v́ không thể xây dựng được quốc gia VNCH (Nation and State Building).
Sau 1954, Mỹ thay thế Pháp vào miền Nam với danh nghĩa giúp VNCH “Xây dựng Quốc gia - State Building”. Ư định xây dựng một quốc gia tên gọi South Viet Nam của Mỹ, có thể gọi là Nam Việt Cộng ḥa quốc, hay Nam Việt Dân quốc, với ranh giới, lănh thổ và dân chúng xác định từ vĩ tuyến 17, là một “quốc gia thất bại”, ngay từ trong ư định.
Hiệp định Genève 1954 là một hiệp ước giữa Pháp và Việt Minh nhưng Hội nghị Genève 1954 là một Hội nghị quốc tế (tương tự Hội nghị San Francisco 1951), có giá trị pháp lư “ràng buộc”. Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị được các đại cường bảo kê. Điều khoản quan trọng là: Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhứt ba miền Bắc, Trung, Nam và toàn vẹn lănh thổ. Vĩ tuyến 17 chỉ là giới tuyến quân sự tạm thời. Trong mọi trường hợp không thể diễn giải nó như là ranh giới chính trị”.
Mỹ và VNCH không nh́n nhận mọi văn bản của Hội nghị Genève. Vấn đề là Mỹ và VNCH “đồng sàng dị mộng”. Mỹ quan niệm VNCH là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, với lănh thổ, dân chúng và ranh giới được xác định từ vĩ tuyến 17. Nhưng quan điểm của VNCH, khi phản đối Hiệp định Genève 1954, là chống phân chia lănh thổ, tức đối nghịch với lập trường của Mỹ.
Nỗ lực của Mỹ “xây dựng quốc gia Nam Việt Nam” có thể kiểm nhận qua tập tài liệu “Why Vietnam?” của The White House, Washington, D.C., 20 août 1965. Hồ sơ này có thể coi là tập “sách trắng” của Mỹ nhằm giải thích lư do, trước dư luận quốc tế và nhân dân Mỹ, v́ sao người Mỹ can thiệp vào chiến tranh Việt Nam.
Từ năm 1960, qua những bức thư Tổng thống Eisenhower gởi ông Diệm, ta thấy người Mỹ đă có quan niệm miền Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Quốc gia đó tên gọi “South Vietnam”. Tổng thống Eisenhower cảnh báo ông Diệm bằng thư riêng ngày 26 tháng 10 năm 1960: “Cộng sản miền Bắc đă và đang sử dụng vũ lực để khuynh đảo chính trị và phá hoại nền tự do của quốc gia South Vietnam”.
Sang đến đời Tổng thống Kennedy, cũng theo tài liệu “Why Vietnam?”, dẫn lá thư ngày 14 tháng 12 năm 1961 của Tổng thống Kennedy đă gởi cho ông Diệm, nội dung cảnh báo: “Các cuộc tấn công bằng vũ lực hay các cuộc khủng bố chống lại nhân dân và chính quyền trên đất nước của quư ngài trong thời gian qua được sự ủng hộ và lănh đạo của ngoại bang là cộng sản Hà Nội”.
Cũng trong tập tài liệu đă dẫn, tháng tư năm 1965, TT Johnson c̣n đi xa hơn trong lập luận VNCH là một “quốc gia độc lập có chủ quyền”: “Miền bắc Việt Nam đă tấn công một quốc gia độc lập có chủ quyền là miền Nam Việt Nam”.
Nhiều lần tập tài liệu trích dẫn ư kiến lănh đạo Mỹ, theo đó Mỹ đổ bộ vào Việt Nam “không có một tham vọng nào về lănh thổ” mà chỉ bảo vệ “quyền” của nhân dân miền Nam Việt Nam. “Quyền” này thể hiện qua sự “lựa chọn tương lai của dân tộc Việt Nam bằng lá phiếu và các cuộc bầu cử tự do”.
Tài liệu cũng dẫn những cam kết của các lănh đạo Mỹ: “Đến khi nào mà Mỹ c̣n có thể ngăn cản, th́ không có một thế lực nào có thể khuất phục dân tộc Nam Việt Nam bằng vũ lực hay bằng khủng bố”.
Người Mỹ cố gắng xây dựng “quốc gia Nam Việt nam”, sao cho sự tham gia của Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam phù hợp với Hiến chương Liên Hiệp Quốc, ở các điều “quyền được can dự vào chiến tranh”, điều 51 về “quyền tự vệ chính đáng”, và giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp ḥa b́nh.
Nhưng Mỹ và VNCH “đồng sàng dị mộng”. Hiến pháp VNCH đến ngày cuối cùng vẫn khẳng định lănh thổ Việt Nam từ Nam Quan đến Cà Mau.
Mỹ kư Hiệp định Paris 1973, khẳng định Mỹ nh́n nhận hiệu lực của Hội nghị Genève 1954. Tức là, Mỹ nh́n nhận “quốc gia Việt Nam độc lập, thống nhứt ba miền lănh thổ bất khả phân chia” và “vĩ tuyến 17 chỉ là ranh giới tạm thời sử dụng cho quân sự. Trong mọi trường hợp không thể diễn giải như là đường ranh giới chính trị”.
Chiến tranh Việt Nam từ đó trở thành một cuộc “nội chiến”.
Từ khi Mỹ can dự vào chiến tranh Việt Nam, dư luận thế giới dựa vào nội dung Hội nghị Genève 1954 lên án Mỹ “xâm lược”. Mọi nỗ lực của Mỹ xây dựng “quốc gia” tên gọi “Nam Việt Dân quốc” hay “Nam Việt cộng ḥa quốc” đều thất bại.
Không thuyết phục được các lănh đạo VNCH tuyên bố “quốc gia độc lập”, từ ông Diệm đến ông Thiệu. Điều này dẫn đến việc Mỹ thua về pháp lư. Thất bại về quân sự và chính trị chỉ c̣n là thời gian.
Quân đội Mỹ không c̣n lư do chính đáng nào để ở lại Việt Nam.
Thất bại trong việc “xây dựng quốc gia” VNCH. Mỹ không c̣n ở Việt Nam, ngọn cờ “mặt trận giải phóng” mất đi hiệu lực, cũng như lời hô hào “chống Mỹ cứu nước” không c̣n thuyết phục.
Nhưng miền Bắc vẫn c̣n có lư do “thống nhứt đất nước” để chiếm miền Nam. Mỹ rút nhưng chiến tranh Việt Nam vẫn c̣n lư do tiếp diễn.
Thứ hai, Mỹ không tạo được lư do hợp pháp (và thuyết phục) - jus ad bellum - để can dự vào chiến tranh Việt Nam. Điều này trực tiếp đến từ việc thất bại xây dựng quốc gia “South Viet Nam - Nam Việt cộng ḥa quốc”.
Jus ad Bellum: Chiến tranh Iraq, Mỹ lấy lư do Saddam Hussein “làm bom nguyên tử” để can thiệp. Chiến tranh Afghanistan Mỹ can dự v́ biến cố 11 tháng 9. Chiến tranh Triều Tiên, Mỹ dẫn đầu quân đội đồng minh “cứu giá” Nam Hàn qua một Nghị quyết của Đại hội đồng LHQ.
Chiến tranh Việt Nam, quân Mỹ hàng trăm ngàn người đổ bộ vô băi biển Đà Nẵng năm 1965 mà không thông qua bất kỳ một kết ước nào với chính phủ VNCH. Chuyện xảy ra giữa lúc các tướng lănh VNCH đang tranh giành quyền lực ở Sài g̣n. Người Mỹ mượn tay “lính đánh mướn” giết ông Diệm năm 1963. Từ thời điểm ông Diệm chết cho đến năm 1965, VNCH như rắn không đầu.
Cũng không có cuộc trưng cầu dân ư nào, cho dầu “lấy lệ”, để “hợp thức hóa” sự hiện diện quân Mỹ ở miền Nam. Sự hiện diện “không lư do chính đáng” của quân Mỹ ở miền Việt Nam khiến quân Mỹ trở thành một thứ “quân xâm lược”, không chỉ dưới mắt của phe cộng sản mà cả ở phe đồng minh của Mỹ.
Sự hiện diện của Mỹ đă tạo cho VNDCCH có lư do chính đáng thành lập Mặt trận Giải phóng Miền Nam. MTGPMN có lư do chính đáng để “đánh Mỹ xâm lược”.
Tại sao Bắc Hàn không thành lập mặt trận “đánh Mỹ cứu nước” giải phóng Nam Hàn? Tại sao dân Nhật không nổi dậy lập mặt trận “chống quân Mỹ xâm lược”? Đơn giản là tại v́ sự hiện diện của quân Mỹ ở các nơi đây là “chính đáng”, được bảo kê bằng những hiệp ước kư kết giữa hai chính phủ hợp pháp và có giá trị “quốc tế”.
Rốt cục, “đồng minh tháo chạy” năm 1973. Mỹ vô Việt Nam không theo nguyên tắc pháp lư nào, th́ khi Mỹ rời khỏi Việt Nam cũng không có ǵ ràng buộc.
Chiến tranh Việt Nam, từ cuộc chiến “quốc tế”, nước này xâm lược nước kia, trở thành một cuộc “nội chiến”.
Và khi Mỹ nh́n nhận chiến tranh Việt Nam là cuộc “nội chiến”, sau khi Mỹ rút, các bên Việt Nam có quyền đ̣i Mỹ “bồi thường chiến tranh”, v́ những tàn phá vật chất, cũng như sinh mạng do bom đạn của Mỹ gây ra trên đất nước Việt Nam.
Sai lầm từ đầu là người Mỹ luôn coi VNCH là một “quốc gia độc lập có chủ quyền”, với lănh thổ, dân chúng và đường ranh giới được xác định là vĩ tuyến 17.
Mỹ không nh́n nhận Hiệp định Genève 1954 và không công nhận VNDCCH. Mỹ thiết lập bang giao với Việt Nam từ năm 1950.
Chiến tranh Việt Nam dưới mắt người Mỹ là “chiến tranh quốc tế”, xảy ra giữa hai quốc gia VNVH và VNDCCH. Quốc gia VNDCCH “xâm lược” VNCH.
Nhưng Mỹ đổ quân vô Nam Việt Nam, một “quốc gia độc lập có chủ quyền”, như vô nhà không chủ. Mỹ “ngồi xổm” lên Hiến chương LHQ, một thứ “luật quốc tế” do Mỹ và đồng minh soạn thảo ra.
Rốt cục Mỹ phải nh́n nhận hiệu lực Hiệp định Genève 1954. Tức là Mỹ đă thua. Chiến tranh Việt Nam không phải là chiến tranh quốc tế, nước này xâm lăng nước kia. Quyền “tự vệ đa phương” theo Hiến chương LHQ không được xác lập.
“Jus ad Bellum - quyền được can dự vào chiến tranh” của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam không thể chứng minh. Mỹ bỏ chạy và không có một lư do (hợp lệ) nào để trở lại Việt Nam nữa, ngay cả khi VNCH sụp đổ. Bởi v́ chuyện VNCH trụ được theo thời gian hay sụp đổ tức thời là chuyện “nội bộ” của Việt Nam.
Thứ ba, do yếu tố nội tại VNCH. Các lănh đạo VNCH, từ ông Diệm đến ông Thiệu, đều không có ư thức rằng, khi “tư cách pháp nhân quốc gia” của “Repuplic of South Viet Nam” hay Việt Nam Cộng ḥa chưa được xác lập, VNCH không thể ngang hàng kư kết với Mỹ các hiệp ước an ninh hỗ tương, đă đành. VNCH cũng không thể gia nhập bất cứ một “liên minh quân sự” nào cả.
Liên minh SEATO, nói là “Liên pḥng Đông Nam Á”. VNCH thuộc Đông Nam Á, mà chiến tranh Việt Nam là nguyên nhân thành lập SEATO. Nhưng VNCH không được gia nhập liên minh này.
Tư cách gia nhập các liên minh quân sự là “pháp nhân quốc gia” mà tư cách pháp nhân này VNCH c̣n khiếm khuyết.
Hiến chương LHQ cho phép một “quốc gia không phải là thành viên LHQ” trở thành thành viên của Ṭa Công lư Quốc tế hay gia nhập vào các tổ chức quốc tế thuộc LHQ.
Suốt cuộc chiến 1954-1975, VNCH không hề được Hiến chương LHQ bảo vệ.
VNCH cũng không thể trở thành “thành viên” của Ṭa Công lư quốc tế. Vụ Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa mà VNCH bó tay, không thể kiện cáo đi đâu được. Đơn giản v́ tư cách pháp nhân “quốc gia” của VNCH chưa được xác định.
Mỹ đổ quân vào miền Nam, dưới cái nh́n của nhiều người Việt là chống làn sóng đỏ cộng sản bằng cách biến miền Nam thành một “thành tŕ” bảo vệ “tự do”.
Quốc gia không có th́ “chính nghĩa quốc gia” không có.
Cuộc chiến Bắc Nam chưa bao giờ quân dân miền Nam được giáo dục để “bảo vệ lănh thổ quốc gia” hay để “bảo vệ quốc gia chống cộng sản xâm lăng”. Khẩu hiệu “Tổ quốc - Danh dự - Trách nhiệm” hay và đẹp biết bao nhiêu. Vấn đề là VNCH không xác định được “tổ quốc” của VNCH là ǵ? Nếu Tổ quốc VNCH bao gồm luôn miền Bắc th́ mọi hô hào, mọi vận động chống Việt Cộng đều hoài công.
Người ta chỉ nghe các khẩu hiệu hết sức là vô nghĩa như “chống Cộng”, “bảo vệ tự do” hoặc các biểu ngữ “bêu xấu cộng sản”. Không ăn thua! Chế nhạo rằng “bảy thằng Việt Cộng đu nhánh đu đủ không găy”... là không ăn thua.
Khi người nông dân tiếp tế cho Việt Cộng th́ trước sau ǵ VNCH cũng thua. Việt Cộng là “giặc”, tiếp tế cho Việt Cộng là “giặc”. Rốt cục toàn bộ nông dân Việt Nam trở thành kẻ thù. Sai lầm! Bom đạn nào có thể tiêu diệt hết nông dân Việt Nam?
Mà không chỉ người nông dân. Mọi tầng lớp trong xă hội như sinh viên học sinh, nhà báo, nhà tu, chính trị gia v.v… đều có người ủng hộ Việt Cộng và chống VNCH.
Hiến pháp VNCH luôn khẳng định lănh thổ Việt Nam “từ Nam quan đến mũi Cà Mau” th́ tổ quốc VNCH cũng là tổ quốc chung cho mọi người Việt Nam, bao gồm miền Bắc. VNCH không phải, hay chưa phải là một “quốc gia độc lập có chủ quyền”.
Đă đành VNCH là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế trực thuộc LHQ. Vấn đề là VNCH “kế thừa” vị thế thành viên này từ Quốc Gia Việt nam (hành lập năm 1949), với lănh thổ từ Nam Quan đến Cà Mau. Tức đại diện luôn cho miền Bắc.
Điều mà lănh đạo VNCH không chịu nh́n thấy là khi c̣n quan niệm lănh thổ từ Nam Quan đến Cà Mau th́ miền Bắc có quyền trương ngọn cờ “thống nhứt đất nước”. Mỹ rút chỉ giải quyết được vấn đề “chống Mỹ cứu nước” (mà không giải quyết được chủ trương “thống nhứt đất nước” của miền Bắc). VNCH sụp đổ chỉ là sớm hay muộn.
Lănh đạo VNCH đa số xuất thân miền Bắc vĩ tuyến 17. Không ai muốn VNCH độc lập. Những người này không thấy Đông và Tây Đức, hai quốc gia độc lập, đă thống nhứt ra sao.
T́nh h́nh “tự trói tay chân” như vậy mà đến 30 tháng 4 năm 1975 VNCH mới sụp đổ, th́ quân VNCH phải là quân thiện chiến hàng đầu thế giới.
__________________
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Lê Nguyễn: Mấy kỷ niệm về một đoạn đời sau tháng 4-1975 (Kỳ 4)
V) NHỮNG CHUYỆN KỂ Ở TRẠM XÁ LONG THÀNH
(Hồi ức này chỉ là sự nhắc nhở lại những kỷ niệm vui buồn của một phận người sau khi cuộc chiến kết thúc, nó không được sử dụng vào những mục tiêu chính trị và không nhằm nói lên những quan điểm cực đoan trước một quá khứ đă lùi sâu nửa thế kỷ. Tất nhiên, người viết cũng mong mỏi người đọc với một tâm thế như vậy, b́nh tâm và không cực đoan trong các b́nh luận của ḿnh…)
Thân tặng Moc Nguyen và những bạn đồng cảnh ngộ ở Long Thành-Xuyên Mộc (1975-1982).
V.1) CHUYỆN CHIẾC BÔ NHỰA VÀ BỊCH TRO THAN
Tháng 8.1975, học viên trường 15 NV (Làng cô nhi Long Thành cũ) cảm thấy thể chất của ḿnh không c̣n được như cũ. Từ những bữa ăn có trị giá cao đến những bữa ăn theo chế độ tập trung bằng ngân sách nhà nước, cơ thể con người không kịp thích ứng, nhiều thứ bệnh “trời ơi đất hỡi” xuất hiện và lan truyền nhanh hơn virus Covid.
Trước tiên phải kể đến bệnh “gảy đàn”, các đương sự ngồi đâu gảy đó, gảy ngoài rồi đến gảy trong, gảy hết ban ngày đến ban đêm, gảy cả những ngóc ngách sâu kín nhất chưa từng gảy bao giờ. Dù sao, trong cái gảy này, c̣n có cái... sướng, nhiều người cố giảm thiểu chúng bằng những viên multivitamin mang theo.
Căn bệnh kế tiếp không sướng chút nào, đó là bệnh phù thũng (béri-béri). Ngủ một đêm dậy, nghe gương mặt ḿnh nặng nề, mắt như híp lại, lấy tay ấn vào lớp thịt cổ chân, thịt lún sâu xuống rồi không chịu trở về nguyên trạng!
Vào thời điểm đó, các phương tiện truyền thông ngoài đời đang cao giọng tố cáo t́nh trạng “phồn vinh giả tạo” của miền Nam trước 1975, theo nghĩa: Sự sung túc chỉ là bề ngoài, thực chất bên trong là sự đói kém, thiếu thốn trăm bề.
Những người tù c̣n mang danh “học viên” ở Long Thành lúc ấy đă nhanh chóng phát huy sáng kiến, cập nhật ngôn ngữ ngoài đời. Sáng sáng, cứ thỉnh thoảng nghe tiếng la toáng của một anh nào đó rằng th́ là, “tụi bây ơi, tao bị phồn vinh giả tạo rồi!”. Ấy là lúc anh ta cảm thấy khuôn mặt của ḿnh nở to ra, nặng chịch, ấn ngón tay vào cổ chân, thịt chỉ chịu lơm xuống mà chẳng chịu phồng lên. Thật, không có cách so sánh, ứng dụng nào tuyệt vời hơn thế!
Hai căn bệnh “gảy đàn” và “phồn vinh giả tạo” rơ ràng là hậu quả của t́nh trạng thiếu dinh dưỡng, do sự thay đổi nhanh chóng chế độ ẩm thực, khiến cơ thể mất nhiều chất đề kháng, các thứ vi trùng, vi khuẩn tha hồ thâm nhập và hoành hành.
Tuy nhiên, đáng sợ hơn cả không phải là ngứa ngáy hay phù thũng, mà là bệnh kiết lỵ (dysenterie). Căn bệnh này hoành hành v́ hố xí tập thể không xa nơi ở bao nhiêu, lại c̣n có sự hiện diện của hàng sư đoàn gián quanh nhà.
Sống chung cùng một đội với tui có kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Anh là một trong những học viên bị căn bệnh kiết lỵ tấn công sớm nhất, chỉ sau mấy ngày, mặt anh phờ phạc hẳn. Tui theo gót anh, với một hậu quả kinh khiếp hơn.
Câu chuyện liên quan đến anh Nh., sĩ quan cấp Thiếu tá, nguyên là Chủ sự pḥng (như Trưởng pḥng) thuộc Sở Nội dịch Phủ tổng thống, sau khi khuyết người đứng đầu, anh được cử làm xử lư thường vụ Chánh sở Nội dịch. Công việc chính của sở này là điều hành việc phục dịch chung cho toàn bộ Phủ tổng thống. Theo ngôn ngữ hành chánh của miền Nam trước 1975, xử lư thường vụ (XLTV) là hành vi hoàn toàn có tính tạm thời trong thời gian chờ cử người chính thức đảm nhiệm chức vụ.
Ngay cả khi đă chính thức là Chánh Sở Nội dịch, Thiếu tá Nh. cũng không đủ tiêu chuẩn được học tập cải tạo (HTCT), nói chi mới chỉ là người XLTV. V́ thế, khi đến tŕnh diện tại trường Trưng vương, anh bị từ chối cho nhập trường. Khốn nỗi, không vào được nơi đây, với cấp bậc (nay gọi là quân hàm) Thiếu tá, anh cũng phải tŕnh diện cải tạo nơi khác, mà Nh. lại thích ở chung với anh em công chức, vui hơn. Cuối cùng, sau khi suy đi tính lại, anh đến gặp cán bộ tiếp nhận, khai rằng anh không phải Chánh sở, mà là XLTV Chánh sở. Nghe cụm từ có hai chữ “xử lư”, anh cán bộ chấp thuận cho N. vào, có lẽ v́ theo ngôn ngữ lúc bấy giờ, chữ “xử lư” nghe có một cái ǵ đó to tát, nghiêm trọng hơn!
Buổi sáng hôm đó, Thiếu tá Nh. mang đến chỗ ḿnh nằm một tô cơm nhỏ anh nấu chiều hôm trước, nhưng đến sáng th́ bị đau bụng nhiều nên không ăn được. Vào thời điểm ấy, lương thực chính là bo bo, cơm trắng là sản phẩm cao cấp, ngu ǵ mà từ chối ḷng tốt của người khác. Ḿnh ăn ngay tô cơm của Nh. vào buổi trưa hôm đó, song không hiểu sao, ăn gần hết cơm, ḿnh mới nghe bốc lên mũi mùi... gián! Đúng là có sự phản chủ của cái lỗ mũi!Thôi th́ mọi chuyện đă lỡ làng, giờ chỉ c̣n trông cậy vào ông thần may rủi.
Chiều hôm ấy, bụng ḿnh quặn thắt từng cơn, với những biểu hiện rơ ràng của bệnh kiết lỵ. Cơ thể đang suy yếu, bệnh thừa thắng xông lên, buộc ḿnh phải đi ra, đi vào từ nhà ở đến cụm hố xí ngoài hàng rào mỗi ngày khoảng... 20 bận. Thuốc đường ruột Carboguanidine mang theo chỉ có tác dụng với bệnh tiêu chảy, thuốc kháng sinh Tétracycline chỉ chuẩn bị chút ít cho chuyến đi học 30 ngày, nốc sau một-hai ngày cũng hết. Bệnh này làm cho đường ruột bị tổn thương, không cho phép dung nạp đồ cứng, kể cả cơm gạo, người bệnh chỉ có thể ăn cháo mua ở căng-tin.
Vậy mà với tần suất đi ra, đi vào trung b́nh mỗi ngày 20 bận như vậy, ḿnh đủ sức chịu đựng đến ngày... thứ 7, với cái bao tử chỉ chứa toàn cháo loăng trong suốt 7 ngày! Tổ trưởng của tui lúc ấy là cụ Trần Luyện, tuổi chắc cũng chỉ hơn 50, song có một cḥm râu dài. Trước tháng 5.1975, cụ Luyện là Tổng Giám đốc Nha Khẩn hoang lập ấp của Phủ Quốc vụ khanh đặc trách khẩn hoang lập ấp, mà người đứng đầu là bác sĩ Phan Quang Đán.
Thấy t́nh h́nh không ổn, cụ Luyện dẫn tui xuống Trạm xá, xin cho tui được nằm lại trạm. Được sự chấp thuận của người có thẩm quyền, cuộc sống của một bệnh nhân trạm xá bắt đầu.Cũng cần nói thêm đôi chút về trạm xá Long Thành lúc ấy. Ban đầu nó chỉ gồm có hai bác sĩ cán bộ của trại. Gọi là “bác sĩ” cho lịch sự, chứ lúc đó, ông HC là một y sĩ (ngang với cán sự y tế trong chế độ cũ), c̣n ông H. là một y tá. Không lâu sau, do số bệnh nhân tăng cao, trạm xá được tăng cường bởi hai bác sĩ thực thụ, là các học viên đang HTCT. Đó là BS Hạnh, một chuyên gia đang làm việc ở Viện Pasteur Sài G̣n, và BS Tùng, một thầy thuốc rất mát tay.
Tiếng là “trạm xá”, song nơi đây nhỏ hơn một ngôi nhà cấp bốn, chỉ có một căn pḥng rộng duy nhất vừa dùng làm nơi khám bệnh, phát thuốc, vừa là chỗ nằm điều trị của bệnh nhân nặng. Trạm không có nhà vệ sinh riêng, ai có nhu cầu, phải đi bộ ra hố xí công cộng ở sát hàng rào. Sau hơn 7 ngày chịu đựng, ḿnh không c̣n khả năng đi ra hàng rào nhiều lần như thế nữa. Và chính trong t́nh thế này, ḿnh mới phát hiện được một t́nh bạn cao đẹp.
Người đó là Nguyễn Chi Lăng, tốt nghiệp khóa Cao học 3 Học viện QGHC (1969), từng là bạn “đồng liêu” với ḿnh trong thời gian cùng làm việc ở tỉnh Kiên Giang (Rạch Giá). Để giúp giải quyết những bế tắc của một bệnh nhân kiết lỵ không c̣n khả năng đi xa, Lăng xuống căng-tin t́m mua cho ḿnh một cái bô nhựa, loại dành cho trẻ em 3-4 tuổi, không quên xúc cho ḿnh một bịch tro lấy từ bếp nấu ăn.
Có một chút may mắn là tuy chật hẹp, song trạm xá Long Thành c̣n có một nhà kho hẹp bỏ không, không cửa nẻo, trống huơ trống hoác, nằm cạnh lối đi vào nơi khám bệnh và phát thuốc. Ḿnh bỏ chiếc bô nhựa và bịch tro trong nhà kho ấy, mỗi lần bụng quặn đau, không chịu nổi, th́ lén vào đó, kéo quần, ngồi xuống, y như một chú bé lên ba.
Đó chưa phải là điều đáng sợ, đáng sợ hơn là h́nh ảnh đó trải ra trước mắt của hàng năm, bảy chục người – nam cũng như nữ - đi vào trạm xá để khám bệnh và xin thuốc mỗi ngày! Một quá khứ mới vừa qua đi, h́nh ảnh của những chiếc công xa, những bàn giấy lớn, những đống hồ sơ chất cao như núi... mọi thứ tan biến dần, nhường chỗ cho một thực tế rơ nét hơn, và cũng đau đớn hơn, đó là h́nh ảnh cái bô nhựa và bịch tro than góp phần cứu văn cuộc sống của một con người.
Ḿnh nhắc điều này với ḷng biết ơn chân thành đối với Nguyễn Chi Lăng. Mỗi sáng sớm, Lăng chạy xuống căng-tin xin cho ḿnh một ca nước nóng, làm vài việc cần thiết theo yêu cầu và một, hai ngày một lần, anh “giải quyết” cái bô nhựa có rải nhiều lớp tro của ḿnh tại một nơi khuất lấp nào đó! Nếu không có một t́nh bạn cao quư, không thể làm được như thế. Và trong suốt cuộc đời của ḿnh, ḿnh không bao giờ quên được điều này.
Lê Nguyễn: Mấy kỷ niệm về một đoạn đời sau tháng 4-1975 (Kỳ 6)
(Hồi ức này chỉ là sự nhắc nhở lại những kỷ niệm vui buồn của một phận người sau khi cuộc chiến kết thúc, nó không được sử dụng vào những mục tiêu chính trị và không nhằm nói lên những quan điểm cực đoan trước một quá khứ đă lùi sâu nửa thế kỷ. Tất nhiên, người viết cũng mong mỏi người đọc với một tâm thế như vậy, b́nh tâm và không cực đoan trong các b́nh luận của ḿnh…)
6. MỘT TRƯỜNG HỢP “CHUYỂN ĐỔI GIỚI TÍNH” TẠI LONG THÀNH
Câu chuyện xảy ra vào những ngày trước cái tết xa nhà đầu tiên của lũ chúng tôi, một cái tết mà ai nấy cũng biết là sẽ rất đau buồn. Bữa nọ, cụ Phạm Trọng Nhân (đă giới thiệu trong một bài trước) lục đâu ra một vở kịch thơ có nhan đề Chiến Sĩ Triều Trần và nuôi ư định tổ chức tŕnh diễn tác phẩm này.
Hai nhân vật chính trong tác phẩm là vị tướng Trần B́nh Trọng của nhà Trần bị giặc Nguyên-Mông bắt giữ và cô công chúa Mông Cổ được giao nhiệm vụ dụ hàng ông. Vai cô công chúa phải có mặt xuyên suốt vở kịch và ngâm thơ từ đầu đến cuối. Bên cạnh hai nhân vật chính này c̣n có nhân vật tướng Mông Cổ, anh lính hầu tướng Mông Cổ và cô a hoàn của công chúa Mông Cổ.
Sau khi tham khảo bạn bè, cụ Nhân nhất trí giao vai Trần B́nh Trọng cho anh Dorohiem, người Chăm, em ruột anh Đỗ Hải Minh, học khóa 11 Quốc gia Hành chánh, chức vụ cuối cùng là Giám Đốc tại Bộ Phát triển Sắc tộc. C̣n vai công chúa Mông Cổ th́ cụ chỉ sang tôi, v́ hai lẽ:
- Tôi là 1 trong 5 giọng ngâm thơ của nhà 2. Thành thực mà nói, tôi ngâm thơ ... khá dở, song đọc thơ hay ngâm theo kiểu thoại trong kịch thơ th́ giọng nhấn nhá của tôi lại khá mượt mà.
- Anh Nguyễn Cao Quyền, nguyên đại tá Nha Quân Pháp, Cố vấn ngoại giao ṭa đại sứ Việt Nam tại Pháp, thành viên cùng tổ ngoại giao với cụ Nhân, người sẽ phụ trách việc tạo trang phục và trang điểm trong vở kịch, cho rằng gương mặt tôi phù hợp với hóa trang nữ, nói vui theo ngôn ngữ hiện đại là “chuyển đổi giới tính”.
Thế rồi, cuối cùng tôi bị ép phải “chuyển đổi giới tính”.
Ngoài đời, tôi vốn thuộc thơ rất nhanh, và nhớ lâu nữa, nên chỉ trong một thời gian ngắn, tôi nhập tâm toàn bộ phần đối thoại bằng thơ của ḿnh trong vở kịch. Chàng Dorohiem Trần B́nh Trọng lại khá vất vả với vai của anh, anh bị vấp váp thường xuyên, nên vào các buổi trưa và buổi tối, trong lúc mọi người nghỉ ngơi, anh ra khu vườn vắng ôn tập một ḿnh.
Vai viên tướng Mông Cổ phù hợp với anh Nguyễn Đ́nh Xướng, người cao to, nước da rám nắng.
Trong một status cách đây khá lâu, tôi có bài tường thuật chi tiết về chuyện tŕnh diễn vở kịch này, một vài trang ngoài nước cũng có đăng lại, nay chỉ xin nhắc mấy nét chính. Anh Nguyễn Cao Quyền từng là Chánh thẩm Ṭa án quân sự mặt trận (xử bắn Tạ Vinh), nhưng lại là người rất có tư chất nghệ sĩ. Anh không giỏi chữ Hán, song lại viết chữ Hán rất đẹp. Anh tạo cho các bộ trang phục chúng tôi đang mặc những “biến tấu” cho phù hợp với thời xưa, trang điểm cho nhân vật bằng những sáng kiến bất ngờ. Màu hồng là một trong những màu cần thiết, cho son môi, cho má hồng và hàng chục thứ khác, lúc đầu anh lấy gạch xây, mài ra với nước, sau, khi đến gần ngày tết, anh kiếm được nhiều giấy hồng đơn (dùng để viết câu đối), dễ dàng tạo ra màu hồng hơn.
Với bộ nhung phục của nhân vật Trần B́nh Trọng, anh có những tờ giấy bạc lót trong bao thuốc lá, tạo những hoa văn có nghệ thuật để không bị lẫn với quần áo của các ... đạo t́.
Đêm giao thừa, đội kịch diễn trước cho anh em Nhà 2 xem, có thêm sự chứng kiến của gần 10 học viên nữ, ở nhà riêng, nhưng khi sinh hoạt th́ các chị được tách ra, bổ sung vào các nhà nam. V́ chúng tôi tập kịch trong lúc các anh đi lao động, nên khi tŕnh diễn, vở kịch cũng trở thành một bất ngờ thích thú đối với mọi người. Ai cũng tiên đoán rằng trong cuộc tŕnh diễn văn nghệ của toàn trường 15 NV vào đêm mùng 3 tết, vở kịch Chiến Sĩ Triều Trần sẽ đoạt giải nhất.
Cuối cùng th́ kết quả đêm văn nghệ chung đă diễn ra đúng như tiên đoán, cụ Phạm Trọng Nhân và những người làm nên vở kịch lịch sử nhận được sự ngợi khen nồng nhiệt của mọi người. Với riêng tui, kể từ đêm diễn đó, ḿnh có thêm một cái tên mới được nhiều bạn bè kêu, gọi, đó là tên “công chúa Mông Cổ”. Nó phổ biến đến nổi, sự nghiệp “chuyển đổi giới tính” đeo đẳng ḿnh trong một thời gian dài!
Đêm mùng ba tết đó, khi chương tŕnh văn nghệ đă kết thúc, những hoan lạc nhất thời sớm tan biến, trong cái tĩnh lặng của nửa đêm về sáng, nỗi nhớ gia đ́nh nhói lên, ḿnh không ngủ được, lấy giấy viết một bài thơ dài tặng cụ Nhân, đại ư nhắc lại những ǵ đă diễn ra trong đêm kịch nhiều kỷ niệm, đặc biệt trong đoạn cuối, ḿnh viết:
Mai này ḿnh sẽ về muôn nẻo,
Vút cánh bằng bay khắp mọi miền,
Chắc hẳn ḷng ḿnh luôn nhớ măi,
Ảnh h́nh vở kịch buổi tàn niên ... (tháng 2/1976)
Đến lúc đó, cũng chỉ mới hơn 6 tháng qua đi, tuổi trẻ vẫn c̣n hy vọng vào một ngày về gần gũi, đâu biết đến ngày mai sẽ dành cho ḿnh những điều ǵ.
Mấy tháng sau, nghiệp dĩ “chuyển đổi giới tính” lại một lần nữa t́m đến với ḿnh! Anh bạn K.T.H., thẩm phán ở Mỹ Tho, sáng tác một vở kịch không c̣n nhớ nhan đề, chỉ với hai nhân vật: Cô hàng nước và chàng tráng sĩ qua sông. Anh N.M.Đ., dân biểu, trưởng ban văn nghệ nhà 2, đưa ḿnh xem nội dung, xem xong, ḿnh đề nghị thay v́ kịch gồm cả thơ và lời thoại, giờ chuyển hết lời thoại sang thơ, thành một vở kịch thơ hoàn toàn. Tất nhiên là anh Đ. hoan nghênh đề nghị này.
Trưa hôm đó, trong lúc mọi người nghỉ trưa, ḿnh ra vườn rau, làm cái việc "thi hóa" toàn bộ các lời thoại trong vở kịch. Thần may mắn chiếu cố, khi tiếng kẻng báo thức vừa vang lên th́ ḿnh cũng vừa viết những ḍng thơ cuối cùng.
Xem xong vở kịch, Đ. ngạc nhiên một cách thích thú, ḿnh cũng ngạc nhiên về sự mau mắn của ḿnh.
Vở kịch thơ chỉ diễn cho nội bộ nhà 2 xem, và ḿnh cũng làm tṛn vai tṛ cô hàng nước. Nhưng như thế chưa phải đă xong. Vin vào chuyện ḿnh chuyển thành công lời thoại thành thơ, trưởng ban văn nghệ NMĐ thừa thắng xông lên, nghĩ ra một tiết mục táo bạo trong buổi diễn văn nghệ toàn trường 15 NV sắp tới. Đó là tiết mục toàn nhà 2 gần 300 người sẽ đồng ca ba bản nhạc đỏ: Ca ngợi Hồ chủ tịch, Như có Bác trong ngày đại thắng, và Kết đoàn. Không chỉ có thế, Đ. thuyết phục ḿnh soạn ra ba bài thơ mở đầu cho ba bản nhạc đó.
Ḿnh cũng “thừa thắng xông lên” như Đ., không để anh phải nài nỉ nhiều, hai ngày sau giao cho anh 3 bài thơ, mỗi bài có hai khổ.
Đêm văn nghệ toàn trường, mọi người ngạc nhiên trước hơn 200 con người dàn hàng ngang đồng ca 3 bản nhạc dưới bàn tay điều khiển điêu luyện của dân biểu NMĐ, một người có nhạc lư rất vững, và bắt giọng cũng như bắt nhịp rất chuyên nghiệp. Về việc ngâm các bài thơ trước mỗi bản nhạc, nhà trưởng nhà 2 NVNg đảm trách. Anh Ng. là dân biểu, người Huế, và là một trong những người ngâm thơ có giọng Huế hay nhất mà ḿnh từng nghe.
Sau hai sự kiện tạm gọi là thành công, trưởng ban văn nghệ nhà 2 NMĐ cảm thấy “gắn bó” với ḿnh hơn, song không ngờ lần kế tiếp lại đánh dấu một ... tan vỡ!
Chiều hôm đó, ḿnh đang ngủ trưa muộn, Đ. bỗng đến lay ḿnh dậy. Ngồi lên, dụi mắt, thấy Đ. dúi cho ḿnh hai trang giấy chi chít những dấu kư âm âm nhạc, nhờ ḿnh viết lời cho bản nhạc anh vừa soạn. Ôi trời, ḿnh có làm việc này bao giờ đâu, vừa bực bội v́ bị phá giấc ngủ, ḿnh từ chối một cách khá thẳng thừng. Đ. không ngờ bị phản ứng như vậy, anh quay đầu đi thẳng và giận ḿnh luôn từ hôm ấy. Và cũng không ngờ sự giận dỗi này dẫn đến một bất lợi khá lớn đối với ḿnh, chuyện này sẽ xin kể tiếp ở kỳ sau.
Lê Nguyễn: Mấy kỷ niệm về một đoạn đời sau tháng 4-1975 (Kỳ 7)
7. KHI SỐ PHẬN ĐĂ AN BÀI
Lúc ấy là khoảng tháng 7, tháng 8 năm 1976. Sau hơn một năm làm việc, cơ quan quản lư trại giam Bộ Nội vụ hoàn tất việc thanh lọc ra những người “có tội với nhân dân”. Hai quyết định được ban hành cùng lúc, một để trả tự do cho khoảng 100-200 người người xét không có tội, một quy định việc tập trung cải tạo ba năm cho đại đa số những người c̣n lại. Quyết định sau nhấn mạnh đến hai chi tiết:
- Ai lập công chuộc tội sẽ được cho về trước thời hạn 3 năm
- Ai ngoan cố không chịu học tập, lao động, sẽ bị kéo dài thời hạn cải tạo sau 3 năm
Một thời kỳ mới bắt đầu, không c̣n “học viên” nữa, mà là “trại viên” (hay tù cải tạo); không c̣n “trường 15 NV” nữa, mà là “Trại cải tạo Long Thành”.
Do có một số người được thả về, các đội, tổ được sắp xếp lại hoàn toàn, thay v́ theo thứ tự tŕnh diện tại trường Trưng Vương hay Gia Long trước đây, th́ nay sắp tên theo thứ tự mẫu tự. Tên ḿnh khởi đầu bằng chữ C, ở chung tổ với các anh Nguyễn Văn Bon, nguyên Quận trưởng ở Đô thành Sài G̣n, chức vụ cuối cùng là Tổng thư kư Bộ Giáo dục; anh Nguyễn Ngọc Điện, chánh án ṭa sơ thẩm B́nh Dương; Lê Tài Bổn, chánh án ṭa sơ thẩm Kiên Giang, bạn học của ḿnh thời tiểu học ở trường tư thục Chấn Hưng…
Trong sự cải tổ toàn diện này, anh Hai Trung, cán bộ phụ trách nhà 2, nhận thêm trọng trách chung của cả trại. Ngày ngày, đến nhà 2, anh thường sà xuống chiếc phản của anh (dân biểu) NMĐ, cùng hút thuốc lào. Cán bộ nhà tiếp xúc với trưởng ban văn nghệ nhà là chuyện b́nh thường, không ai để ư, song có một vai tṛ quan trọng khác của anh Đ. măi về sau mới lộ diện. Đó là vai tṛ “tư vấn” cho ông Hai Trung.
Sau khi chuyển qua chế độ trại viên, trại tổ chức một đội trật tự gồm những trại viên làm việc dưới sự sai phái trực tiếp của cán bộ trại. “Trật tự” là vị trí mơ ước của bất cứ anh tù nào, do không phải lao động nặng như phá rừng, cuốc đất, chỉ làm công việc nhẹ nhàng trong mát. Trời xui đất khiến, anh Hai Trung được lănh đạo trại giao nhiệm vụ tuyển ra đội trật tự của trại, và người mà anh trông cậy vào sự tiến cử lại chính là NMĐ!
Khi mọi việc đă xong xuôi, một vài anh em thắc mắc, v́ sao anh Đ. khá gắn bó với ḿnh mà không tiến cử ḿnh vào đội trật tự; đến lúc ấy, hầu hết mọi người không biết việc Đ. giận ḿnh về chuyện không chịu giúp đặt lời cho bản nhạc của anh.
Về phần ḿnh, ḿnh chẳng hối tiếc ǵ về những chuyện đă qua, coi như số phận đă an bài.
Khi từ học viên trở thành trại viên là lúc đời tù cải tạo thật sự bắt đầu. Mọi hoạt động đều diễn ra trong những kế hoạch được thực hiện một cách nghiêm túc.
Sau khi đă sắp xếp lại tổ chức tổ, đội, chúng tôi bắt đầu vỡ đất để trồng rau màu ở khu vực cạnh làng cô nhi cũ. Với những bàn tay thư sinh chỉ quen với giấy má, thử thách không hề nhỏ. Ngày đầu, mỗi người phải dùng cuốc vỡ một vạt đất ngang 1 mét, dài 100 mét. Lúc ấy đă vào tháng 7, tháng 8, nghĩa là đang ở mùa mưa, song v́ đất nằm trên một ngọn đồi dốc nên không giữ nước, chỉ cuốc một mét đầu tiên thôi, cánh tay đă tê rần. Nước uống là cả một bị kịch, phần uống vào không bù đắp nổi với lượng nước từ cơ thể tiết ra. Đó là chưa kể uống vào chỉ thuần là ... nước, trong khi hơi nước và mồ hôi thoát ra có chứa cả muối khoáng, sự rối loạn điện giải là mối đe dọa có thật.
Tuy nhiên, bỗng dưng chỉ sau 1-2 tháng lao động nặng nhọc, nghiệp dĩ cũ lại t́m về với ḿnh: Lại chuyển đổi giới tính!
Vở thoại kịch lần này có tầm phủ sóng cả trại, do chính cán bộ Giáo dục trại chủ tŕ việc tập luyện. Nhan đề của nó là “Lửa thù Sơn Mỹ”, nhằm nhắc lại hành vi của một đại đội lính Mỹ dưới quyền Trung úy Calley tại làng Sơn Mỹ, tỉnh Quảng Ngăi. Hai nhân vật chính của vở kịch là viên trung úy Mỹ và một cô cán bộ cách mạng tên Thanh. Ngoài ra c̣n mấy nhân vật phụ, không đáng kể.
Với vóc dáng dềnh dàng, một lần nữa, anh Nguyễn Đ́nh Xướng được giao vai trung úy Calley, c̣n cô Thanh, th́ lại là ... tui. Kể ra tạm thoát khỏi cảnh đánh vật với những vạt đất đồi khô khốc, cũng là một may mắn. Lần này, vở kịch do chính ban lănh đạo trại chọn nên quá tŕnh tập kịch diễn ra rất khác, với sự theo sát mỗi ngày bởi ba nhân vật, gồm:
- Trung úy Đức, Cán bộ, Trưởng ban Giáo dục trại
- Thượng sĩ Mạnh, Cán bộ, Phó ban Giáo dục trại
- Trại viên, nhạc sĩ Vũ Thành An, Trưởng ban Văn nghệ trại.
Mỗi sáng, trong lúc thiên hạ đi cuốc đất th́ chúng tôi kéo nhau lên hội trường tập kịch. Thoại kịch không dính dáng ǵ đến nghề nghiệp âm nhạc của Vũ Thành An, song với tư cách trưởng ban văn nghệ trại, anh không thể vắng mặt khi hai cán bộ giáo dục của trại luôn bám sát các buổi tập của nhóm kịch.
Bữa nọ, chúng tôi ngạc nhiên trước sự hiện diện của một phụ nữ lạ trong buổi tập kịch. Chị ngồi im lặng theo dơi từng động tác của tụi tôi trong suốt buổi sáng. Không lâu sau, mọi người được biết chị phụ nữ lạ ấy là vợ của Thượng sĩ Mạnh, Phó ban Giáo dục, đang phụ trách việc tập kịch cho một nhóm cán bộ nữ, chị đến để “học tập” cách tập diễn của tụi tôi.
Lần diễn vở kịch này, không có chuyện hóa trang theo kiểu vở kịch thơ lịch sử Chiến Sĩ Triều Trần, nhân vật chuyển giới thành cô cán bộ Thanh phải ăn mặc như một phụ nữ thật sự.
Một buổi trưa nọ, anh nhà trưởng nhà 2 Đỗ Hữu Cảnh (chuyên viên dầu khí) dẫn tui đi đến dăy nhà của các chị nữ để mượn bộ đồ bà ba của chị Q. May mắn là chị cũng vui vẻ với lời “đề nghị khiếm nhă” của hai gă tù nam.
Cần nhắc đôi chút về chị Q. Chị là người mà trong một bài viết cách đây khá lâu, ḿnh từng nhắc đến. Chị giữ chức vụ Chánh Sở tại Bộ Xă hội, tức nằm ngoài tiêu chuẩn đi tŕnh diện HTCT, nhưng trong buổi chiều ngày 15.6.1975, chị cứ đi ra đi vào trường Trưng vương nhiều lần, cố thuyết phục cán bộ tiếp nhận cho chị nhập trường. Có lẽ lúc ấy, chị cũng như hầu hết mọi người, mong sao sau 30 ngày, có được cái giấy chứng nhận đă hoàn thành nghĩa vụ học tập để tiếp tục cuộc sống mới.
Không lâu sau tháng 5.1975, các phương tiện truyền thông của bên thắng cuộc lên án nặng nề chiến dịch Babylift, với sự phối hợp giữa chính quyền VNCH mà đại diện là Bộ Xă hội và một số tổ chức nhân đạo quốc tế nhằm đưa hầu hết trẻ cô nhi ra khỏi Việt Nam, về làm con nuôi nhiều gia đ́nh người Mỹ. Người ta gọi đó là sự kiện “bắt cóc trẻ em”, nhất là trong chiến dịch Babylift đă xảy ra một tại nạn thương tâm, khi một chiếc máy bay chở các em bị rơi lúc vừa cất cánh khỏi Sài G̣n.
Chính trong bối cảnh chiến dịch Babylift, Sở Bảo trợ mẫu nhi thuộc Bộ Xă hội, nơi chị Q. làm Chánh Sở, là cơ quan bị lên án nặng nề nhất, do sự phối hợp giữa Sở này với các tổ chức nhân đạo quốc tế. Không rơ trong đời sống ở trại Long Thành lúc bấy giờ, chị Q. có phải trải qua các đợt thẩm vấn về chuyện chiến dịch Babylift hay không?
Về phần ḿnh, vai cô cán bộ tên Thanh trong buổi diễn vở kịch "Lửa thù Sơn Mỹ" không có ǵ đáng nói, đáng nói chăng đó là dịp có được hơn một tháng tập kịch để trốn cái nắng lửa của ngọn đồi cao mà mỗi nhát cuốc bổ xuống như một nhát chém vào tuổi thanh xuân mơn mởn của ḿnh.
Vậy mà vở kịch trên cũng chưa phải là dịp “chuyển đổi giới tính” cuối cùng của ḿnh. Khoảng giữa năm 1978, khi đă có 2 đợt người được đưa ra Bắc, số anh em c̣n lại ở Long Thành chỉ c̣n khoảng 200 người, sống chung với anh em tù h́nh sự và rất nhiều thiếu niên bị gia đ́nh gửi cho “cách mạng giáo dục” sau tháng 4.1975, ḿnh lại một lần nữa bị gài làm phụ nữ trong một vở kịch khác.
Lần này, ḿnh đă về đội Cấp dưỡng (nhà bếp), công việc thoải mái hơn, nên sau một ngày đi tập kịch về, ḿnh nói với anh Trần Thiên Ân (khóa 17 QGHC), Trưởng ban văn nghệ trại, cho trở về đội làm việc, để vai kịch đó cho người khác. Vào thời điểm ấy, nhạc sĩ Vũ Thành An, trưởng ban văn nghệ cũ của trại, đă được đưa ra Bắc trong chuyến đầu tiên.
_____
Kỳ sau: Chuyện t́nh cốt nhục sau tháng 4.1975 và buổi thăm nuôi nhạt nḥa nước mắt
Năm nào cũng vậy, cứ hễ gần 30 Tháng Tư là ban Tuyên giáo lại xua các em đi khắp ngả, đến từng trang cộng đồng, trang cá nhân của anh em dân chủ, chỉ để làm 1 công việc duy nhất là chọc quê, phá đám, xả rác rưởi trên trang của người khác. Và các em cần mẫn làm chuyện ấy trong vô thức.
Tuyệt nhiên, các em không có một tí ǵ là lư luận để biết ḿnh nói vậy, nhận định vậy có đúng sự thật không, có vi phạm đạo đức làm người không, có tự hạ giá trị nhân văn của chính ḿnh không. Tôi thấy tội nghiệp các em, chỉ v́ tiền mà các em để ban Tuyên giáo sai các em làm con rối rẻ tiền! Hôm nay, tôi muốn nói một lần cho ra lẽ những từ mà các em hay dùng.
Ngoài những từ mà các em thường sử dụng như: Khát nước - Đu càng - Tộc Nail,... đặc biệt các em c̣n luôn sẵn sàng buông ra những tiếng chửi thề, những từ ngữ tục tĩu khó chấp nhận được từ miệng một người tử tế. Chửi người khác, khinh thường người khác nhưng không tự biết ḿnh đang bước xuống vị trí rất thấp trong mức thang nhân văn khi làm vậy. Tôi thấy các em thật đáng thương và tôi muốn nói với các em 1 lần về những từ mà các em muốn đổ lên đầu người khác.
“KHÁT NƯỚC”
Khi các em hỏi ai đó “Khát nước không?” các em muốn ám chỉ họ là người mất nước, là vô tổ quốc. Cái đó c̣n tùy các em nghĩ thế nào là tổ quốc.
Thế giới bây giờ nhỏ lắm, con người di chuyển không ngừng giữa các lục địa. Em ở đâu, tôi ở đâu không thành vấn đề. Tổ quốc của em, tổ quốc của tôi chính là cái cội nguồn, là ḍng máu, là tấm ḷng của tôi, của em đối với tổ quốc. Chừng nào mà ḿnh thấy ḿnh có trách nhiệm đóng góp cho sự tồn vong của tổ quốc, th́ ḿnh xứng đáng là con dân của tổ quốc đó!
Hăy nhớ cho rằng tổ quốc là một trạng thái mà chính cá nhân đó cảm nhận được chứ không phải là điều ǵ mà em hay ai khác ban bố cho. Các em không có quyền ǵ với người khác về tổ quốc của họ! Vậy nên nói người này “khát nước” người kia “khát nước” là nói xàm em nhé!
Có biết bao người đang ở trong nước mà phá hoại đất nước dưới nhiều h́nh thức? Lại có biết bao người Việt dù xa xứ nhưng vẫn gửi những đồng tiền cực khổ của họ về giúp đỡ đồng hương ở quê nhà. Ai là người xứng đáng để có một tổ quốc hơn?
“ĐU CÀNG”
H́nh ảnh đoàn người di tản kéo nhau lên chiếc trực thăng đậu trên nóc toà lănh sự Mỹ để di tản trong ngày 30 Tháng Tư, 1975 là một h́nh ảnh đáng xấu hổ cho CS Bắc Việt lúc đó. Tại sao khi quân Bắc Việt vào, người dân không vui mừng ở lại chào đón mà vội vă ra đi, đến phải chen nhau bám lấy chiếc trực thăng. Xấu hổ không?
Ban Tuyên giáo không thấy xấu hổ để mớm cho các em dùng những từ này đi chế giễu người khác, th́ thật ra họ đang tự vả vào mặt họ đấy! Các em nhắm mắt dùng th́ tự các em cũng đang vả vào mặt ḿnh các em biết không?
“TỘC NAIL” - “DŨA MÓNG”
Có lẽ không một ngành nghề nào mà đă đổ tiền nhiều nhất và sớm nhất về cho bà con trong nước sau năm 75 đấy các em.
Vào thập niên 80’ đất nước kiệt quệ v́ bị cấm vận, có lẽ tiền từ “tộc Nail” là nguồn ngoại tệ duy nhất đổ vào Việt Nam để bà con đỡ phải ăn bo bo, húp cháo. Gia đ́nh có Việt kiều ở hải ngoại là đầu vào của kiều hối, rồi từ đó kiều hối được phân tán dần qua các dịch vụ trao đổi, buôn bán,... qua nhiều ngơ ngách, nó đă chảy vào túi của các em đấy! Một cách gián tiếp, các em có ăn ké th́ làm ơn đừng coi khinh người cho các em miếng ăn. Như vậy vô ơn lắm!
Mà nói thật nha, “dũa móng” th́ đă sao? “Tộc nail” dùng sức lao động đổi lấy miếng cơm một cách lương thiện. Họ không khinh người, họ không chửi rủa, thù hằn ai, họ dành dụm tiền gửi về nước với một số lượng lớn, cần mẫn, đều đặn. Số kiều hối này không ít đâu. Nếu họ ngưng gửi, gia đ́nh họ sẽ đói và các em cũng đói lây! So với họ về tiền bạc chưa chắc các em đă kiếm được nhiều tiền bằng họ, so về nhân cách sống th́ các em không bằng họ đâu nhé!
Một điều mà các em không thể ngờ là chính người Việt tị nạn đă nâng ngành nail lên thành 1 kỹ nghệ có tầm vóc với nhiều hăng xưởng, nhiều cơ sở dịch vụ khắp nước Mỹ và nay lan qua cả Âu, Á châu. Tất cả doanh nghiệp này hầu như nằm trong tay của người Việt. Lợi nhuận mà họ tạo ra đóng góp vào nền kinh tế Mỹ không ít đâu. Đây là một sự thành công của người Việt mà các dân tộc khác cũng phải ngă mũ, không đáng hănh diện hay sao?
VÀI LỜI VỚI BAN TUYÊN GIÁO
Nói với các em dư luận viên mà không nói tới Ban Tuyên Giáo là một sự thiếu sót lớn.
Bởi v́ chính quư vị đă xui đám trẻ nhỏ đi “đánh trận” mà không trang bị cho các em ấy bất cứ một luận cứ hợp lư nào để mà đi tuyên vận. Để các em ấy nói những lời ngây ngô, vô nghĩa, thù hận, chửi tục,... cho thấy quư vị cũng chẳng biết tuyên vận là phải làm ǵ.
Cái ǵ đúng, cái ǵ sai quí vị cũng chẳng hiểu i tờ ǵ ráo, chỉ giỏi xúi trẻ ăn c.ứt gà là hay thôi.
Tôi khinh quư vị!
Lê Nguyễn: Mấy kỷ niệm về một đoạn đời sau tháng 4-1975 (Kỳ 8 )
8. Chuyện t́nh cốt nhục sau tháng 4.1975 và buổi thăm nuôi nhạt nḥa nước mắt
8.1. Cuộc chiến 1954-1975 để lại nhiều hệ lụy đáng tiếc trong những gia đ́nh có người thân ở cả hai phía. Lẽ ra những ngày sau tháng 4.1975 phải là thời điểm chứa chan hạnh phúc của sự sum họp gia đ́nh sau một thời gian dài đằng đẳng phân ly.
Vậy mà, ở nhiều gia đ́nh, sự mừng vui, chan ḥa th́ ít, sự bất đồng, thậm chí xung đột, nhiều hơn. Các ông bố, ông anh “cách mạng” thường lên lớp những thằng con, thằng em “ngụy” của ḿnh bằng những bài kinh nhật tụng vẫn được hô ra rả trên các hệ thống loa phường. Người khổ tâm nhất trong những vụ này thường là các bà mẹ già, “vừa vui sum họp, đă sầu chửi nhau”.
Theo thông lệ lúc đó, các cán bộ có nhiều năm cống hiến, có địa vị cao trong bộ máy chính quyền, có thể bảo lănh anh em, con cái của họ về để “giáo dục” trong gia đ́nh. Với sự bảo lănh của họ, con em của họ có thể được xét trả tự do sớm hơn thời hạn quy định.
Song đó không phải là điều đơn giản. Chuyện bảo lănh thường vấp phải một số trở ngại phổ biến như sau:
- Người cán bộ "bên thắng cuộc" sợ "tiền đồ cách mạng" của ḿnh bị ảnh hưởng bất lợi bởi mối quan hệ với con em từng "hoạt động cho địch".
- Người cán bộ hứa cho gia đ́nh yên tâm rồi không làm ǵ cả, cái này người trong Nam gọi là “hứa lèo”!
Thông thường, gia đ́nh người đi cải tạo “bôi trơn” việc bảo lănh bằng nhiều thứ tài sản trên danh nghĩa “quà cáp” trong nội bộ gia đ́nh: TV, tủ lạnh, xe gắn máy ... nhưng kết quả không phải lúc nào cũng như ư. Chuyện rủi may, thật giả trong bảo lănh, dẫn đến nhiều hệ quả khôn lường.
Người may mắn nhất trong chuyện này có lẽ là anh BXT, một đàn anh trong giới Quốc gia Hành chánh (QGHC), từng nhiều năm giữ chức vụ Phó Thị trưởng một thị xă lớn ở miền Trung, cuối cùng là một viên chức của Phủ Đặc ủy Trung ương t́nh báo. Xét chung, với cách đánh giá của "bên thắng cuộc" lúc bấy giờ, anh thuộc dạng cải tạo mút chỉ cà tha.
Song, trong những ngày ở Long Thành, được biết anh T. có người cậu ruột là Thứ trưởng một bộ quan trọng ở trung ương. Trong một lần lao động gần cổng trại, anh em được chứng kiến cảnh ông cậu anh thân hành đi công xa lên thăm anh. Tất nhiên, ban lănh đạo trại, người có cấp bậc cao nhất chỉ là Thiếu tá, gặp ông Thứ trưởng, phải khép nép chào.
Một thời gian sau, sau chưa đầy hai năm, anh BXT có quyết định tha! Xe ông Thứ trưởng được phái lên Long Thành đón anh về, cán bộ trại thân t́nh tiễn chân anh.
Đó là một trường hợp khá hăn hữu, đối nghịch với nhiều bi kịch khác. Anh PVT là bạn đồng môn, đồng khóa QGHC của ḿnh, lúc ấy đang ở một trại cải tạo thuộc vùng núi Thất Sơn, Châu Đốc. Bữa nọ, trại thông báo cho T rằng có người anh ruột là Thiếu tướng NTB (khi đi tập kết, hầu hết đều đổi tên họ) đến thăm. Nghe đâu ông Thiếu tướng này là Tư lệnh phó một quân khu.
Sau khi nhận được thông báo trên, anh T trả lời dứt khoát là anh không có người anh nào tên như thế cả. Báo hại ông B phải chịu nhân nhượng ông em khó tánh, thân hành vào đến tận nơi ở để thăm ông em. Dù không có dịp nghe anh T. tâm sự, mọi người tin rằng giữa họ đă hay đang có một sự bất đồng nào đó khá sâu sắc.
Trường hợp của bác NVN cũng khá ê chề. Bác là đồng môn trước chúng tôi khoảng 8-9 năm, song v́ lúc vào học trường QGHC, bác đă là công chức nên tuổi tác của bác hơn anh em chúng tôi chừng 20 tuổi. Gọi là bác mà không là anh, là v́ thế.
Trước tháng 4.1975, bác N. giữ một chức vụ giám đốc tại Phủ Tổng thống. Người anh của bác là một vị tướng lừng danh của Mặt trận, bác tin rằng chuyện bảo lănh bác về sớm có thể dễ như trở bàn tay. Bác nuôi hy vọng ấy mỗi ngày. Cho đến một hôm, gia đ́nh vào thăm nuôi, người vợ bác chuyển đến bác lời nhắn gửi của ông anh tướng lănh là “nhắn chú ấy cố học tập tốt để sớm về!”.
Câu nói có giá trị của một sự từ khước bảo lănh, một cú sấm sét giữa trời quang! Bác N là một người khá cao to, vậy mà chỉ sau 2-3 tháng, sự thất vọng dẫn đến khủng hoảng tinh thần khiến bác sụt mất gần 15 kư thịt! Từ một người hiền lành, ít nói, bác bỗng trở nên cáu gắt, sẵn sàng gây gỗ với bất cứ ai.
Song bi kịch lớn nhất mà ḿnh và nhiều bạn đồng môn QGHC từng chứng kiến, phải kể đến trường hợp của C.
Khóa QGHC của anh ra trường sau ḿnh hơn 2 năm; đầu năm 1968, toàn bộ anh em vừa tốt nghiệp được gửi đi học khóa 1/68 trường Bộ binh Thủ Đức. Ḿnh cũng gia nhập khóa đó với tư cách người có lệnh gọi nhập ngũ cá nhân. Sự t́nh cờ xui khiến C., ḿnh và một người bạn nữa ở chung một tiểu đội, xếp quần áo trong một tủ chung dành cho 3 người.
Cuối khóa quân sự đó, theo quy định chung của Phủ Thủ tướng, mọi cựu sinh viên tốt nghiệp QGHC đều được đưa về các đơn vị hành chánh địa phương.
Tháng 6.1975, C. cũng đi tŕnh diện học tập cải tạo (HTCT) và được đưa lên trại Long Thành như hầu hết anh em đồng môn QGHC đang có mặt ở Sài G̣n sau tháng 4.1975. Ở đó, mỗi người một hoàn cảnh, một tâm trạng, không ai giống ai.
Sau hai đợt đi Bắc, số trại viên c̣n lại ở Long Thành được chuyển lên trại Xuyên Mộc vào những tháng cuối năm 1979. Một buổi sáng, C. trở vào nhà sau giờ thăm nuôi, anh thảng thốt kể về cái chết của vợ ḿnh. Theo lời anh, chị đă tự t́m đến cái chết do phẫn uất trước sự “hứa lèo” của người bố là một cán bộ thâm niên. Anh c̣n kể là anh đă trừng mắt, giận dữ nh́n những người thân khi họ “khoe” với anh rằng trong đám tang vợ anh, một số giới chức địa phương đă đến chia buồn và đưa tiễn.
Người vợ vắn số của C. là em gái một nhà văn nổi tiếng, là nhân vật chính trong một truyện ngắn mà nhà văn đă gửi vào đó t́nh yêu thương đằm thắm. Có điều là trong truyện này, nhà văn đă thay tên và địa vị xă hội trước năm 1975 của người em rể, song với những ai là bạn của C. đều nhận ra anh.
Hiện nay, nhà văn kể trên đang sống tại Mỹ. Những người con của C. cũng đang sống ở Mỹ, song không cùng một nơi với người cậu ruột của họ. C. qua đời cách nay mấy năm, hy vọng anh đă gặp lại người vợ thương yêu ở một cơi giới an lành nào đó, không có kỳ thị, chẳng có hận thù.
8.2. Với những cựu viên chức dân sự tại trại cải tạo Long Thành, trước 1975, cuộc sống của họ gắn liền với đời sống gia đ́nh. Phụ cấp gia đ́nh vợ 1.600đ/ tháng, phụ cấp mỗi đứa con 1.000đ/tháng, không hạn chế số con, cho phép người phụ nữ an phận trong đời sống gia đ́nh, lo chuyện nội trợ và giáo dục con cái.
Bản thân ḿnh cũng vậy, hầu như chưa có bao giờ ḿnh sống xa gia đ́nh đến quá 3 ngày. Nói như thế để thấy rằng việc phải xa gia đ́nh, hoàn toàn không thấy mặt người thân trong thời gian hơn một năm trời là một sự chịu đựng ... khủng khiếp. Cũng may là nghịch cảnh diễn ra tuần tự, có lớp lang, từ 30 ngày lên 1 năm, từ 1 năm lên 3 năm, rồi từ 3 năm lên 5 năm, 10 năm, 15 năm ... tâm hồn con người như được rèn luyện dần sự chịu đựng để mỗi ngày một thích nghi với sự khắc nghiệt của cuộc sống hơn.
Dẫu vậy, tin tức về sự thăm nuôi lần đầu tiên sau hơn một năm trời khắc khoải cũng trở thành một quả bom nổ tung và lóe sáng trong đêm hôm tăm tối. Khó có thể diễn tả hết cảm xúc của những giờ phút ấy!
Ḿnh c̣n nhớ cảm giác xúc động, lâng lâng của buổi sáng đó, chân bước ra cổng trại cơ hồ như bước trên mây. Vừa ra khỏi cổng trại, nh́n về hướng nhà thăm nuôi lố nhố hàng trăm người, nước mắt ḿnh chảy tràn trên đôi má, như một phản xạ không sao ḱm giữ được.
Bạn Nguyên My và những bạn từng có dịp thăm nuôi thân nhân ḿnh lần đầu tiên chắc c̣n nhớ những cảm xúc đó. Hai cô con gái của ḿnh th́ khi xa nhau, đứa nhỏ chưa đầy 3 tuổi, chưa biết nhiều, c̣n đứa lớn 6 tuổi, từng lăn lóc với ḿnh từ Côn Đảo về đến B́nh Dương, đă biết nhắc lại những kỷ niệm đầu đời. Ḿnh tưởng tượng khi gặp nhau, nó sẽ ôm ḿnh và khóc như chưa bao giờ được khóc.
Ḿnh cố bước chậm trên con đường từ cổng trại ra nhà thăm nuôi, cách nhau chừng 30-40 mét, lau vội những giọt nước mắt c̣n vương, cố chuẩn bị một vẻ mặt b́nh tĩnh để đón chờ cuộc gặp gỡ đầy xúc động.
Ḿnh ngồi xuống chiếc băng ghế trong căn nhà thăm nuôi chật kín, vang lên đủ thứ âm thanh khóc cười lẫn lộn. Đúng là h́nh ảnh của câu hát “vui sao nước mắt lại trào”. Tuy nhiên, ḿnh đối mặt với một bất ngờ lớn: Cả hai đứa con gái đều không có đứa nào khóc cả! Nhất là đứa lớn theo sát ḿnh từ những ngày sống ở Côn Đảo và chưa bao giờ xa nó quá 2 ngày. Nó liếc ḿnh rồi nh́n vào đám đông, gương mặt không biểu lộ một dấu hiệu buồn vui nào rơ nét. Sao lạ vậy? Chả lẽ chỉ sau hơn một năm xa cách mà chúng đă thay đổi hẳn như thế sao?
30 phút thăm gặp trôi nhanh, giờ chia tay cũng đă đến. Trong nỗi ngạc nhiên và đau buồn, ḿnh t́m thấy chút an ủi khi kịp nh́n thấy trong đôi mắt của hai cô con gái, những tia nh́n chan chứa yêu thương.
Khi vừa về đến nhà ở Sài G̣n, mẹ chúng cật vấn liền: Sao tụi con gặp ba mà không đứa nào khóc cả? Đứa lớn trả lời không suy nghĩ: Trước khi đi, mẹ dặn con lúc gặp ba không được khóc, khóc người ta sẽ bắt ba học tập lâu hơn, v́ thế khi gặp ba, con muốn khóc lắm, mà không dám khóc. Hóa ra, trong lần thăm nuôi đầu tiên đó, nó không dám khóc v́ sợ ḿnh ở tù lâu hơn. Ở tuổi lên 7, nó đă biết nuốt nước mắt vào ḷng!
Kỳ tới: Ăng-ten, họ là ai? Những chiếc bao bố ở trại Long Thành
_______
(Hồi ức này chỉ là sự nhắc nhở lại những kỷ niệm vui buồn của một phận người sau khi cuộc chiến kết thúc, nó không được sử dụng vào những mục tiêu chính trị và không nhằm nói lên những quan điểm cực đoan trước một quá khứ đă lùi sâu nửa thế kỷ. Tất nhiên, người viết cũng mong mỏi người đọc với một tâm thế như vậy, b́nh tâm và không cực đoan trong các b́nh luận của ḿnh…)
Lê Nguyễn: Mấy kỷ niệm về một đoạn đời sau tháng 4-1975 (Kỳ 9)
9. Chuyện ăng-ten trong trại cải tạo
Vào giữa thập niên 1960, trong quân lực VNCH, ngành truyền tin thường sử dụng các máy ANPRC 5, ANPRC 10 để liên lạc trong phạm vi đại đội. Chiếc PRC10 h́nh khối chữ nhật, gọn gàng, khi hành quân, người lính truyền tin mang trên lưng, khi dừng quân liên lạc với tiền phương hay hậu cứ, họ nhẹ nhàng đặt máy xuống, kéo chiếc cần ăng-ten (antenne) mỏng như lá lúa lên cao rồi bắt đầu gọi đi.
Như vậy, trong thiết bị của ngành truyền tin, chiếc cần ăng-ten giữ một vai tṛ quan trọng, đẩy tín hiệu mạnh lên, giúp kết nối dễ dàng giữa các vị trí khác nhau trên trận địa.
Song trước và sau năm 1975, hai từ ăng-ten c̣n có một nghĩa khác, không chỉ áp dụng cho thiết bị, mà cho cả con người. Đặc biệt từ tháng 6.1975, khi các trại cải tạo mọc lên như nấm th́ hai chữ ăng-ten đă có một chỗ đứng vững vàng trong kho ngôn ngữ đời thường lúc ấy. Nó dùng để chỉ những người tự nguyện hay bị ép buộc phải làm kẻ chỉ điểm cho cán bộ trại giam về mọi vấn đề mà họ cần biết.
C̣n nhớ, người Pháp có câu nói cho rằng nghề “bán hoa” là cái nghề xưa nhất trái đất (le métier le plus vieux du monde), tương tự như thế, cũng có thể nói nghề ăng-ten là một trong những nghề xưa nhất trong đời sống lao tù. Chả thế mà mới chưa đầy một tháng sau khi nhập trại Long Thành, các học viên đă được phổ biến một thông cáo nêu rơ tên những người được xe của trại chở về Sài G̣n để ... chữa răng.
Mọi việc diễn ra trót lọt và không ai nghi ngờ ǵ về mục đích của chuyến đi chữa răng đó.
Măi đến hơn một năm sau, một người trong cuộc mới chịu tiết lộ với mấy người bạn thân là chuyến xe đi “chữa răng” đó đă chở các anh về hướng Sài G̣n, thả các anh xuống ở ngả tư Hàng Xanh để các anh về thăm gia đ́nh, và buổi chiều, các anh có mặt ở Hàng Xanh trước 4 giờ để được đưa trở lại trại Long Thành.
Như vậy, ngay trong những ngày đầu tiên của trại Long Thành, đă có một thỏa hiệp ngầm giữa các cán bộ điều hành trại và những người tự nguyện làm ăng-ten. Đại khái họ sẽ làm tai mắt cho cán bộ, ghi nhận những sự kiện đáng lưu ư trong đời sống học viên, đổi lại, họ sẽ được hưởng một số ưu đăi, mà chuyện đi chữa răng là một ví dụ.
Suy nghĩ của những người tự nguyện làm ăng-ten trong môi trường học tập cải tạo (HTCT) c̣n đi xa hơn, họ hy vọng ở một ngày về sớm sủa do những đóng góp dưới h́nh thức “lập công chuộc tội” của họ. Kết quả của những niềm mơ ước đó như thế nào, xin chờ câu trả lời trong bài sau, về những cuộc chuyển trại có kèm theo ... bao bố.
Ở trại cải tạo, c̣n có một thành phần không phải là ăng-ten chuyên nghiệp, song cương vị của họ buộc họ phải có ít nhiều việc làm dành cho giới ăng-ten. Đó là các nhà trưởng, đội trưởng, tổ trưởng. Họ phải thường xuyên tiếp xúc với cán bộ điều hành, và tất nhiên là phải báo cáo toàn bộ những ǵ liên quan đến đơn vị mà họ phụ trách, ví dụ như: Anh em có nhiệt t́nh lao động không, có anh nào nói xấu cách mạng không, có anh nào dự tính trốn trại không v.v...
Về thực chất việc làm của giới tổ trưởng, đội trưởng và nhà trưởng, khó đánh giá một cách chính xác, song cũng không phải là không đánh giá được. Cứ nh́n thái độ, cách hành xử của cán bộ điều hành đối với tập thể hay một số cá nhân là có thể đoán ra sự việc. Người có tâm sẽ t́m cách luồn lách, che chở cho các bạn đồng cảnh ngộ, báo cáo cách nào đó để không bị quy là báo cáo láo, nhưng vẫn không để cho bạn tù bị trù dập. Trái lại, kẻ mưu cầu lợi ích riêng tư th́ lại t́m cách mua ḷng cán bộ bằng việc vẽ vời chuyện nọ, chuyện kia, ít xít ra nhiều. Đó là chưa kể chuyện họ có thể dùng cương vị của ḿnh để giải quyết những mâu thuẫn cá nhân nữa.
Trường hợp của nhà văn Duyên Anh (Vũ Mộng Long) là một vấn đề đáng suy nghĩ. Khi tôi và hơn 150 bạn tù c̣n lại ở trại Long Thành được đưa hết lên trại Xuyên Mộc vào những tháng cuối năm 1979 th́ Duyên Anh đang là đội trưởng đội rau xanh số 17 kiêm nhà trưởng nhà 2, sát cạnh nhà 1 là nơi chúng tôi vào ở.
C̣n nhớ, cứ vào mỗi buổi chiều, khi tiếng kẻng trại vang lên, báo hiệu cho mọi người ra ngồi hết ngoài sân cạnh nhà để cán bộ tới điểm số rồi lùa hết vào buồng, khóa cửa lại, nhà trưởng Duyên Anh là người rất năng nổ, anh chạy ra chạy vào thét lác anh em nhanh chóng tập họp, nhiều người chỉ trích anh về cách hành xử nóng nảy, cốt để lấy ḷng cán bộ.
Không sống chung nhà với Duyên Anh, ḿnh chỉ thấy có thế. Song, khi ḿnh vừa đặt chân lên Xuyên Mộc, th́ cũng vừa có tin một người trong đội của Duyên Anh là nhà văn Nguyễn Mạnh Côn đă bị biệt giam cách đó mấy ngày. Anh em ở nhà 2 kể lại rằng khi vừa hết hạn cải tạo 3 năm, ông Côn đứng lên đề nghị trại cư xử với ông như một công dân, v́ ông đă hết hạn tù. Yêu cầu này được nhiều anh em tù hiện hành (tù bị bắt do chống phá chính quyền sau tháng 4.1975) hoan hô rầm rộ, và thế là ông Côn bị khép tội vào xách động, bị biệt giam, bị tước bỏ cả quyền được thăm nuôi.
Mấy ngày sau, người nhà ông Côn lên thăm nuôi bị đuổi về, điều kiện khắc nghiệt của pḥng biệt giam, kèm với sức khỏe sa sút khiến chỉ qua một thời gian ngắn sau khi được trả về pḥng, ông Côn qua đời. Và người ta kết nối việc ông Côn bị biệt giam, cái chết của ông, với trách nhiệm đội trưởng, nhà trưởng của Duyên Anh!
Ḿnh cho rằng những ǵ Duyên Anh đă làm với tư cách đội trưởng, nhà trưởng ở trại Xuyên Mộc, và cái chết của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, đă góp phần không nhỏ vào những ǵ xảy đến cho anh tại Pháp và Mỹ, sau khi anh được trả tự do và đi ra nước ngoài.
Một câu hỏi được đặt ra là thái độ của anh em bạn tù đối với người làm ăng-ten như thế nào?
Vào những năm chúng tôi c̣n ở Long Thành (1975-1979), trại đặt ra lệ b́nh bầu cuối mỗi tháng, theo đó, mỗi đội họp, bầu ra 3 thành phần trại viên:
1) Người lao động xuất sắc
2) Người lao động trung b́nh
3) Người lao động yếu kém
Thành phần 1 và 3 chỉ lèo tèo vài ba người cho có tụ, thành phần 2 chiếm đại đa số. Bầu vào thành phần xuất sắc khá dễ, anh nào cuốc đất đạt năng suất cao dễ nhận ra, dễ bầu bán. Khó nhất là bầu thành phần 3, dễ gây tranh căi, dẫn đến oán hận ngấm ngầm. Cách ổn hơn cả để bầu vào thành phần này là mấy anh ... ăng-ten! Họ bị nhận diện bởi hầu hết anh em trong đội, không có ǵ oan sai hết. Và họ cũng nhận chịu mà không oán thán ǵ.
Chuyện b́nh bầu không chỉ có danh hiệu suông. Với tiêu chuẩn mỗi người tù 13 kư lương thực/ tháng (bo bo, sắn lát hay bắp khô, riêng cơm th́ mỗi tuần 1 chén), kẻ được bầu xuất sắc được hưởng 15 kg/tháng, bù vào đó, kẻ yếu kém bị giảm xuống c̣n 11 kg/tháng.
Ở thành phần tù h́nh sự và hiện hành, chuyện 15 hay 11 kg lương thực mang đến nhiều hậu quả khôn lường. Họ tranh nhau, dùng mọi thủ đoạn để hạ nhau ḥng kiếm thêm chút lương thực mỗi ngày. Nguyên nhân là do đa số họ thuộc thành phần “mồ côi”, không được thăm nuôi, cuộc sống hàng ngày trông cậy vào từng chén sắn lát, bắp ngô.
Thành phần tù chính trị thoải mái hơn, nhân văn hơn, dù ǵ nát giỏ vẫn c̣n tre. Đến buổi chia lương thực, người xuất sắc có khẩu phần 15 kg lănh xong th́ mang lại anh 11 kg, sớt chia lại cho cân bằng.
Năm 1979, khi các tù chính trị dân sự (công chức, dân biểu, nghị sĩ, thẩm phán) được đưa hết từ trại Long Thành lên trại Xuyên Mộc, chúng tôi sống chung trại với thành phần tù quân sự cấp úy (thiếu úy - đại úy), những người tŕnh diện HTCT “mang theo tiền và vật dụng đủ dùng trong 10 ngày”. Xét về mặt tuổi tác th́ đa số họ trẻ hơn chúng tôi, song họ đă gián tiếp “dạy” chúng tôi về cách đối phó với thành phần ăng-ten trong trại một cách không khoan nhượng, dứt khoát và theo một “quy tŕnh” rơ rệt.
Kế hoạch đối phó với ăng-ten của các bạn tù sĩ quan cấp úy có 3 bước như sau:
- Bước 1 là bước cảnh cáo, khá nhẹ nhàng: Ban đêm, khi đèn trong buồng tắt tối om, mọi người ngủ cả, họ lén lấy đôi dép của “đối tượng” bỏ vào hồ nước trong buồng toa-lét ở cuối dăy nhà.
- Nếu bước 1 không có hiệu quả, họ tiến hành bước 2 là ... trấn nước. Cuối buổi lao động, hàng mấy trăm người chen chúc tắm ở một khúc sông Ray, năm bảy anh em kéo đối tượng ra giữa ḍng, ấn đầu xuống cho ngộp nước. Tù đông nghịt, từ trên nổng cao xa mấy mươi mét, cán bộ bảo vệ có nh́n thấy cũng chỉ nghĩ là bạn tù đùa giỡn với nhau thôi.
- Cuối cùng, nếu đối tượng vẫn bền ḷng chặt dạ với “sự nghiệp ăng-ten” th́ anh em áp dụng biện pháp tối hậu không thơm tho chút nào. Giữa đêm, họ dùng một gáo đựng phân ướt giội lên nóc mùng đối tượng. Sáng ra, chàng mang hết mùng mền, gối ra giặt ở giếng nước trước con mắt rẻ rúng của mọi người.
Nhờ thái độ quyết liệt và dứt khoát đó mà về sau, hầu như không c̣n phải áp dụng bước 3 nữa và hiện tượng ăng-ten gần như không c̣n tồn tại trong thành phần các anh em tù từng là sĩ quan cấp úy ở trại Xuyên Mộc.
Kỳ tới: Những chiếc bao bố ở trại Long Thành
Lâm B́nh Duy Nhiên: Hăy quên và hưởng thụ!
Có quá, quá nhiều người muốn quên những ǵ họ từng trải qua. Những thời khắc kinh hoàng khi sẵn sàng chấp nhận bỏ ḿnh nơi biển sâu để t́m chút tia hy vọng, chút hơi thở tự do nơi xứ người.
Có nhà văn nào đó từng thốt lời tận cùng đớn đau khi nói về những cuộc vượt biên của đồng bào miền Nam sau biến cố 30 tháng 4: Họ ra đi t́m Tự do trong cơi Chết!
Vài trăm ngàn người chết nơi đại dương sâu thẳm và lạnh lẽo, không chút khói hương. Nhiều tranh căi và hoài nghi từ các phía, nhất từ chính quyền của “Bên thắng cuộc” nhằm hạ thắp con số nạn nhân. Dẫu bao nhiêu đi chăng nữa th́ đó cũng là những con số khủng khiếp và không có ǵ có thể bào chữa cho thái độ trả thù nhỏ mọn của nhà cầm quyền khi đă trực tiếp đẩy đưa chính đồng bào của ḿnh vào cơi chết!
Gần 50 năm trôi qua, nhưng người Việt vẫn tiếp tục bỏ nước ra đi. Không c̣n trên những con thuyền mỏng manh, dễ vỡ nơi đại dương bao la. Họ bỏ nước ra đi không v́ chế độ chính trị hà khắc. Đơn giản chỉ để mưu cầu một cuộc sống tươi đẹp hơn. Họ phải băng rừng, xuyên quốc gia, trốn chui trong các xe hơi, phải trả giá cho những cái chết đau thương khi bị lính biên pḥng xả súng bắn chết hay bị chết cóng trong xe tải…
Chiều nay đi chợ, trong cái chốn đông người của ngày thứ bảy, bất chợt nghe tiếng Việt của đồng hương. Ủa, bà không về Việt Nam chơi sao? Có lễ 30 tháng Tư đó, giá vé máy bay cũng rẻ, sao hổng đi?
Ngó lại, thấy hai chị líu lo nói chuyện về Việt Nam đón… lễ! Mà cả hai đều là “thuyền nhân” của những năm cuối 70. May mắn, sống sót và được Thuỵ Sĩ đón nhận và cưu mang.
Phải như thế nào, từ cơi chết, bỏ chạy để t́m Tự do nhưng nay lại hớn hở, vui mừng, về Việt Nam vui chơi, “ăn lễ”. Một cái “lễ” tang tóc và đau thương tận cùng xương tuỷ của hàng chục triệu đồng bào. Cái gọi là “lễ”, “đại thắng mùa Xuân” theo cách gọi của chính quyền trong nước, dần dần bị chính nhiều người trong nước, những người có ḷng tự trọng, kêu gọi không vui mừng, không đại lễ, không duyệt binh, không diễn văn, không hận thù hay không pháo bông ǵ nữa!
Vui chơi và quên đi quá khứ v́ sao phải bỏ nước ra đi. Vui chơi và nhắm mắt quên đi thảm trạng phi dân chủ, tù tội của đất nước, của hàng chục triệu đồng bào phải sống trong bất công và đàn áp, khủng bố. Vui chơi v́ vẻ hào nhoáng, phồn thịnh bên ngoài của phố phường, của một thiểu số rất ít, những kẻ thành công, thành đạt và giàu có. Đó là sự phù phiếm, bề ngoài, che dấu những vết thương đau nhói trong một cơ thể bệnh hoạn đang hấp hối.
Bao nhiêu người bỏ nước ra đi, chạy nạn cộng sản, giờ quay mặt ngợi ca chính quyền. Lũ lượt kéo nhau về vui chơi. Đó không đơn giản là nỗi niềm cố hương, dĩ nhiên hoàn toàn cảm thông. Người ta quay về với sự vui mừng v́ “đất nước đổi thay, giàu có và phát triển”. Sự dễ dăi nhanh chóng thay thế những h́nh ảnh đau khổ của quá khứ. Sự hưởng thụ trong chốc lát lấn át sự thật về những cuộc sống khó khăn và nghèo khổ của xă hội. Một xă hội thật, không được ưu đăi như nơi trung tâm thành phố, nơi những toà nhà trọc trời, nơi những chiếc xe hiệu nổi tiếng lăn bánh bên những ḍng người giàu có và lịch lăm.
Người ta cố t́nh quên đi hiện thực của một xă hội bệnh hoạn, của những quan chức tham nhũng. Quên, tức nhắm mắt trước bất công. Quên, tức đồng loă, trong một chừng mực nào đó, với thể chế chính trị độc tài đang giam hăm cả một dân tộc suốt gần nửa thế kỷ.
Quên không phải để Sống. Quên để hưởng thụ. Quên để phủi tay, chối bỏ mọi trách nhiệm và lương tâm đối với quê hương.
Chế độ này chỉ trông chờ vào sự quên lăng và dễ dăi của vài triệu người Việt tự do, đối lập với chính quyền. Hăy quên đi tất cả. Hăy xoá bỏ hận thù (nhưng nhà nước vẫn độc quyền tiếp tục khơi dậy thù hận). Hăy về đây vui chơi và hưởng thụ. Đừng lên tiếng tranh đấu, đ̣i hỏi ǵ nữa. Tất cả đă có đảng và nhà nước lo!
Một xă hội vô luân, lạnh lùng và vô cảm chính là đích đến của nhà cầm quyền.
Để họ dễ trị và tiếp tục tồn tại trong sự thờ ơ của đám đông và của chính những kẻ vốn đang được hít thở không khí tự do và nhân bản nơi xứ người.
MỘT 30/4 KHÁC
Năm 1973 Hiệp định đ́nh chiến Paris kư kết xong, quân đội tác chiến Mỹ vừa rút khỏi Việt Nam th́ Trung Quốc liền giở tṛ xâm lấn.
Sau nhiều tháng dọ dẫm, đầu năm 1974 Trung Quốc tiến đánh quần đảo Hoàng Sa, Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa tại Miền Bắc lúc ấy đă phản ứng dữ dội. Hai chính phủ của hai miền Nam Bắc Việt Nam quyết định ngồi lại với nhau để cùng đồng ḷng lên án và chống lại Trung Quốc xâm lược.
Hà Nội điều lực lượng hải quân ra biển Đông hỗ trợ, cứu nạn những quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa bị trôi dạt trên biển. Đồng thời chính phủ Bắc Việt ra lệnh cho các đơn vị bộ đội ngưng tấn công phá hoại những hạ tầng cơ sở kinh tế và quân sự của Miền Nam Việt Nam.
Trung Quốc đe dọa cắt tất cả viện trợ quân sự lẫn kinh tế cho Bắc Việt. Bắc Kinh ra lệnh đóng cửa biên giới không cho hàng viện trợ từ Nga đi qua lănh thổ Trung Quốc vào Miền Bắc.
Quốc hội Hoa Kỳ gấp rút phê chuẩn thông qua gói viện trợ 6,4 tỷ USD tái thiết hậu chiến cho hai miền Nam Bắc Việt Nam (Theo điều khoản 21 trong Hiệp định Paris). Song song đó chính phủ Mỹ tái tục viện trợ thêm cho Việt Nam Cộng Ḥa.
Chính Phủ Việt Nam Cộng Ḥa quyết định nhường hết gói viện trợ tái thiết hậu chiến của Miền Nam cho Miền Bắc.
Ngày 30/4/1975 quân đội của Miền Bắc rút hết về phía trên vĩ tuyến 17. Toàn thể người dân hai miền Nam Bắc vui mừng trước bối cảnh ḥa b́nh và kết thúc nội chiến.
Nga liền dọa cắt viện trợ cho Bắc Việt. Chính phủ Hà Nội xúc tiến đàm phán b́nh thường hóa quan hệ ngoại giao với Washington.
Năm 1976 người dân hai Miền Nam Bắc được liên lạc và thăm viếng nhau. Cuối năm 1977 tổng thống Mỹ Jimmy Carter chính thức thăm Hà Nội, đánh dấu quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Tháng Hai năm 1979 lực lượng hỗn hợp của hai miền Nam Bắc tiến hành tái chiếm những ḥn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa bị mất từ năm 1974. Lúc ấy Hạm đội hải quân Mỹ hiện diện đông đảo trên biển Đông, quân đội Trung Quốc thất thủ rút về đảo Hải Nam.
Năm 1980 người dân hai miền Nam Bắc được tự do qua lại, hàng hóa, đường hàng không cũng được nối kết thông thương.
Năm 1989 sau khi khối Cộng Sản Đông Âu sụp đổ Miền Bắc chính thức tuyên bố từ bỏ con đường XHCN, hai miền của Việt Nam bàn chuyện thống nhất đất nước.
Ngày 30/4/2000 Việt Nam thống nhất đất nước. Tổng thống Mỹ Bill Clinton cùng hàng chục Nguyên thủ các quốc gia khác đến Hà Nội và Sài G̣n để chứng kiến sự kiện lịch sử nói trên.
Thập niên 1990s 2000s nền kinh tế nói chung của Việt Nam phát triển mạnh vượt mặt các nước Đông Nam Á.
Đầu thế kỷ 21 Việt Nam có các tập đoàn lớn sản xuất ô tô, đóng tàu, hàng điện tử cùng những thương hiệu danh tiếng cạnh tranh với hàng hóa của Nam Hàn và Nhật Bản.
Năm 2024 thu nhập b́nh quân của người dân Việt Nam hàng năm đạt trên 30,000 USD (750 triệu VND). Hộ chiếu Việt Nam thuộc hàng có quyền lực nhất Châu Á. Hàng trăm ngàn công nhân Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Miến Điện, Cambodia...xếp hàng dài dài xin xuất khẩu lao động sang Việt Nam.
Nhân dịp kỷ niệm ngày ḥa b́nh thống nhất đất nước năm nay chính phủ Quốc Gia Việt Nam thông báo sẽ đài thọ toàn bộ chi phí cho những kiều bào (Cộng sản cũ) đang sống ở Nga, Trung Quốc, Cu Ba, Bắc Hàn muốn hồi hương hay trở về thăm quê hương.
Ngày 30/4 năm nay chính quyền các nơi cũng hủy bỏ bắn pháo bông, giảm các mục chi tiêu để dồn ngân sách hỗ trợ đồng bào, nông dân đang bị hạn hán.
Vậy đó, phiên bản "Một 30/4 khác" là thế!.
Vũ Việt
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.