Trong tiểu thuyết vơ hiệp Kim Dung, phái Không Động xuất hiện với không ít tuyệt kỹ vơ công. C̣n ngoài đời, phái Không Động tồn tại cùng lịch sử vơ thuật Trung Quốc cả ngh́n năm qua, nhưng không khoa trương như trong tiểu thuyết vơ hiệp.
Phái vơ thuật Không Động ra đời sớm hơn phái Thiếu Lâm, Nga Mi, Vơ Đang, Côn Lôn, và là một bộ phận của văn hóa Đạo giáo của Trung Quốc. Môn phái vơ thuật này bắt nguồn từ núi Không Động, một ngọn núi nổi tiếng thuộc thành phố B́nh Lương, tỉnh Cam Túc, tự cổ chí kim được mệnh danh là “Trung Hoa Đạo giáo đệ nhất sơn”.
Phái Không Động hấp thu tinh hoa của nhiều môn phái vơ thuật khác của Trung Quốc, rồi tạo ra đặc trưng của ḿnh về thủ pháp, kỹ thuật, hệ thống vơ thuật. Phái Không Động chú trọng thực chiến, dùng kỹ năng vơ thuật để rèn luyện sức khỏe và gia tăng công lực.
Phái Không Động ra đời từ thời Đường. Chưởng phái đầu tiên là Phi Hồng Tử, người Cam Túc, đă hấp thụ các điệu múa của vùng Đôn Hoàng, h́nh thành vơ công cao thâm, là nền tảng quan trọng của vơ thuật phái Không Động. Đến cuối đời Thanh th́ phái Không Động đạt độ cực thịnh. Đến thời hiện đại, phái Không Động không c̣n được nhắc đến nhiều, khiến không ít người nghĩ môn phái này chỉ là sản phẩm tưởng tượng trong tiểu thuyết vơ hiệp. Tuy nhiên, môn phái này thực sự tồn tại trong thực tế. Trong tiểu thuyết vơ hiệp hiện đại, Không Động vẫn là danh môn chính phái, sử dụng kiếm thuật là chính.
Trên thực tế, kiếm thuật chỉ là một phần trong vơ học của phái Không Động. Ngoài ra, phái này c̣n sử dụng rất nhiều binh khí khác, như đoản binh (đao, côn, chùy), trường binh (giáo, mác, kích, gậy, côn tam khúc), binh khí mềm (phất trần, roi, xích chùy) và ḱ binh (bánh xe phong hỏa, quạt càn khôn, đũa sắt). Đặc biệt, phái Không Động ưa thích sử dụng những vũ khí nhỏ gọn, dễ mang, dễ cất giấu, khó bị đối thủ phát hiện, nhưng trong giao đấu lại dễ giành chiến thắng bất ngờ như quạt, phất trần, roi….
Tiểu thuyết gia Kim Dung đă lập một tấm bia ở núi Không Động với nội dung “Vơ thuật Không Động, uy trĩ Tây Thùy” (Vơ thuật phái Không Động vang danh miền biên giới phía Tây). Tuy nhiên, trên thực tế, vơ thuật phái Không Động được lưu truyền rộng răi tại Trung Quốc.
Tại tỉnh Quảng Đông vào cuối đời Thanh, vơ thuật trở thành công cụ chống ngoại xâm. Chưởng phái Không Động đời thứ 8 Viên Nhất Phi và Chưởng phái đời thứ 9 Hồ Phi Tử đều từng lập chiến công.
Cách xưng hô người đứng đầu phái Không Động không giống một số môn phái khác. Người đứng đầu phái Thiếu Lâm gọi là “Trụ Tŕ”, đa số các môn phái khác như Nga Mi, Vơ Đang gọi là “Chưởng môn”, với Không Động gọi là “Chưởng phái”.
Nguyên nhân rất đơn giản, v́ phái Không Động bao gồm 8 hệ phái: Phi Long Môn, Truy Hồn Môn, Đoạt Mệnh Môn, Túy Môn, Thần Quyền Môn, Hoa Giá Môn, Ḱ Binh Môn và Huyền Không Môn. Đây là 8 bộ phận cấu thành phái Không Động, có tổng cộng 118 bài vơ với kỹ năng vơ thuật từ thấp đến cao, trong đó Huyền Không Môn được coi là báu vật của phái Không Động, thông thường chỉ được truyền thụ cho người được lựa chọn trở thành “Chưởng phái” tu luyện.
Đứng đầu 8 hệ phái này là 8 Chưởng môn nhưng giữa họ có quan hệ ngang cấp, chỉ phụ trách quản lư đệ tử trong hệ phái của ḿnh. Người có thân phận cao hơn họ là “Chưởng phái”.
Tiêu chuẩn lựa chọn “Chưởng phái” của phái Không Động không giống như trong tiểu thuyết vơ hiệp. “Chưởng phái” phải tinh thông 118 bài vơ thuộc 8 hệ phái trên, nhưng các bài vơ này có phong cách cương, nhu khác nhau, một người rất khó thành thục.
Tuy nhiên, nếu không xuất hiện bậc kỳ tài vơ học như vậy, th́ trong giai đoạn đó phái Không Động không có “Chưởng phái”. Chính v́ vậy, phái Không Động đi cùng lịch sử vơ thuật Trung Quốc trong suốt hơn 1.000 năm qua, nhưng trên thực tế chỉ có 12 đời “Chưởng phái”. “Chưởng phái” đời thứ 12 là Phi Chân Tử (tên thật là Trần Hổ), hiện là Trưởng Đoàn biểu diễn vơ thuật núi Không Động, B́nh Lương, Cam Túc.
Hiện nay, môn phái Không Động vẫn tiếp tục phát triển, tại khu vực gần chân núi Không Động có Trường vơ thuật Không Động, thuộc thành phố Lương B́nh, được thành lập năm 1999. Về mặt truyền thụ vơ công th́ sư phụ (thầy dạy vơ) cố gắng dạy đồ đệ, không để món vơ công đó thất truyền.
Thông thường một sư phụ thu nạp không quá 16 đồ đệ, thời gian truyền thụ thường là 3 năm. Trong số các đồ đệ, họ chọn ra 10 người xuất sắc, truyền thụ vơ công cao cấp của phái Không Động, trở thành trợ thủ của “Chưởng phái”. Thông thường, người nhập học trước là sư huynh, học sau là sư đệ, chứ không phân huynh, đệ bằng vơ công cao, thấp. Ngoài ra, phái Không Động c̣n đến các địa phương khác của Trung Quốc mở lớp dạy vơ thuật. Bên cạnh đó, tính đến năm 2003, phái Không Động đă mở được 7 vơ quán tại Nhật Bản.
Vơ thuật phái Không Động thiên về tính nhu, hoa mỹ; bộ tay, bộ chân, thân người thường tạo nên đường cong, đường cánh cung. Vơ thuật phái Không Động hấp thu tư tưởng triết học âm dương Thái cực, tấn công, pḥng thủ liên hoàn trong vận động. Khi tấn công trong động có tĩnh, tĩnh cực th́ sinh động, cương nhu kết hợp.
Ngay cả bài vơ “Túy bát tiên” trong Thần Quyền Môn vốn nổi tiếng với tính rắn rỏi, cũng chú trọng khéo léo tấn công những bộ phận mềm như mắt, cổ đối phương, tránh dùng lực quá mạnh.
Vơ thuật phái Không Động hội tụ cả những tinh túy của văn hóa Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo. Điều đó được thể hiện qua binh khí phái Không Động sử dụng như thuyền trượng, quạt, phất trần…, qua quyền thuật như La Hán Thập Tam Thủ, Phi Long Quyền, Không Động Thái Cực Quyền…
Đây cũng là minh chứng cho sự ḥa quyện giữa Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo trên núi Không Động. Qua những thông tin trên đây, du khách có thể phần nào thấy được đặc điểm diễn biến của nét văn hóa dân tộc Trung Hoa, từ nhận thức tự nhiên, tăng cường sức khỏe đến hoàn thiện bản thân.
VietBF@ sưu tập