Biến chứng đáng sợ nhất của bệnh tiểu đường. Bệnh nhân tiểu đường có thể dẫn đến biến chứng nguy hiểm như giảm hoặc mất thị lực, suy thận, mắc bệnh tim mạch, thậm chí phải đoạn chi.
Ông T.V.H (45 tuổi, TP.HCM) mắc bệnh tiểu đường type 2 và tăng huyết áp đă nhiều năm. Mới đây, ông phải nhập viện v́ phù toàn thân, mệt mỏi và hay khó thở. Qua thăm khám và thực hiện các xét nghiệm, bác sĩ chẩn đoán ông bị biến chứng bệnh thận mạn và phải điều chỉnh một sốt thuốc cho phù hợp với t́nh trạng.
“Tôi vẫn uống thuốc đái tháo đường nhưng ít tái khám, cứ mua theo toa cũ để uống, không ngờ gặp biến chứng nặng như thế nào”, ông H. nói.
Đại diện Trung tâm kiểm soát bệnh tật TP.HCM cho biết đái tháo đường là một trong những bệnh không lây nhiễm phố biển trên toàn cầu. Đái tháo đường xảy ra khi tuyến tụy không sản xuất đủ lượng insulin để điều chỉnh lượng đường trong máu hoặc khi cơ thể không thể sử dụng hiệu quả insulin mà nó tạo ra.
Bệnh có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm như bệnh tim mạch, mù ḷa, suy thận và đoạn chi.
Tiểu đường có thể dẫn đến biến chứng suy thận mạn giai đoạn cuối. Ảnh: GL.
Bác sĩ chuyên khoa 1 Trần Thị Ngọc Anh, Khoa Nội tiết, Bệnh viện Nguyễn Tri Phương (TP.HCM) cho hay tại thời điểm chẩn đoán tiểu đường type 2, các nghiên cứu ghi nhận trong 20 bệnh nhân sẽ có 2 người gặp biến chứng về mắt hoặc thận, 1 người có biến chứng về tim hoặc mạch máu. Các biến chứng này xuất hiện nhiều và nặng hơn nếu phát hiện trễ và kiểm soát bệnh kém.
Bệnh vơng mạc: Biến chứng này diễn tiến âm thầm với kết cục dẫn đến đục thủy tinh thể, tăng nhăn áp và cuối cùng là giảm hoặc mất thị lực.
Hiện chỉ có thể phát hiện biến chứng tại mắt của bệnh đái tháo đường thông qua thăm khám trực tiếp bởi bác sĩ chuyên khoa. Việc này nên được thực hiện mỗi 1 đến 2 năm một lần và thường xuyên hơn nếu có các bất thường. Bên cạnh kiểm soát tốt đường huyết, việc kiểm soát về mỡ máu và huyết áp cũng giúp giảm tiến triển bệnh.
Bệnh thận: Ngoài xét nghiệm chỉ số creatinine máu để đánh giá chức năng của thận, bác sĩ c̣n sử dụng chỉ số đạm trong mẫu nước tiểu để theo dơi bệnh. Các xét nghiệm này được kiểm tra định ḱ mỗi năm 1 lần. Thông thường, việc kiểm soát biến chứng thận cần kết hợp với cả kiểm soát huyết áp.
Bệnh tim mạch: Tăng huyết áp là bệnh lư thường gặp nhất trên những bệnh nhân mắc đái tháo đường. Mức huyết áp từ 130/80 mmHg trở lên cần được bác sĩ đánh giá và xem xét điều trị bằng thuốc.
Ngoài ra, các bệnh lư về mạch máu như xơ vữa mạch vành tim, mạch máu nhỏ ở chi có thể được phát hiện và đánh giá bằng siêu âm tim, siêu âm mạch máu. Trong đó, phương pháp điều trị và dự pḥng hiệu quả nhất là kiểm soát tốt đường huyết, mỡ máu, giảm cân và ngừng hút thuốc lá.
Biến chứng bàn chân đái tháo đường: Đây là nhóm bệnh lư liên quan đến các biến chứng thần kinh - mạch máu tại chân của người bệnh.
Bệnh diễn tiến chậm, triệu chứng không rơ ràng như tê mỏi, lạnh chân, giảm cảm giác của chân khi tiếp xúc với nước nóng hay mang giày dép. Khi bàn chân có các vết chai, vết trầy xước hoặc vết loét, chúng sẽ khó lành và có thể dẫn đến nhiều biến chứng.
Người bệnh cần chú ư các dấu hiệu của bệnh để phát hiện và khám sớm, chăm sóc bàn chân và điều trị phù hợp.
Đái tháo đường được chia thành 3 loại. Bao gồm:
Bệnh đái tháo đường type 1: Có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi, nhưng xảy ra thường xuyên nhất ở trẻ em và thanh thiếu niên. Khi mắc đái tháo đường type 1, cơ thể sản xuất rất ít hoặc không sản xuất insulin.
Bệnh đái tháo đường type 2: Phổ biến hơn ở người lớn và chiếm khoảng 90% tổng số trường hợp đái tháo đường. Khi mắc đái tháo đường type 2, cơ thể không sử dụng tốt lượng insulin mà nó tạo ra.
Đái tháo đường thai kỳ: Đây là t́nh trạng tăng đường huyết lần đầu tiên được phát hiện trong thời kỳ mang thai.
VietBF@ sưu tập
|