7/11
Chính sách “Affirmative Action” coi như đă chết sau phán quyết mới đây của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ. Cuộc đời của chính sách Affirmative Action kéo dài từ năm 1961 đến năm 2023. Nếu ai có viết điếu văn về cái chết của Affirmative Action do quyết định này nên ghi nhận rằng từ nhiều năm qua, chính sách Affirmative Action đă bị mất uy tín, không được sự ủng hộ của nhiều giới, để rồi nó vừa bị giết chết bằng phán quyết của TCPV Hoa Kỳ hồi tuần trước.
Chính sách Affirmative Action đạt được một vài thắng lợi thời thập niên 1970’s. Nhiều người thường đặt câu hỏi phải chăng sự thắng lợi của chính sách Affirmative Action phần nào đă xuất phát từ mục đích muốn đem lại sự “đa dạng”- “diversity” trong các định chế của xă hội, hay chỉ làm cho phe chống đối hiểu rơ thêm mục tiêu họ cần tiêu diệt.
Với những thắng lợi của chính sách Affirmative Action được thông qua vào thời điểm không đúng lúc khiến cho việc thẩm định những ǵ sẽ bị mất mát do phán quyết gần đây của TCPV rất khó. Nhưng điều đó không có nghĩa là không thể làm được.
Cụm từ “affirmative action” được đưa ra bằng một quyết định hành pháp của Tổng thống Kennedy vào ngày 6 tháng Ba năm 1961. Quyết định này chủ trương chính sách cấm kỳ thị (màu da, sắc tộc) trong việc tuyển dụng người. Những năm sau đó, chính sách này được diễn dịch, ứng dụng cho nhiều mục tiêu, đối tượng khác nhau, để rồi biến thành việc quy định những “quota”, hay chỉ số trong việc tuyển dụng người làm việc, nhận đơn vào học trong trường đại học với hàm ư nâng đỡ người thiểu số, người da màu. Trong giai đoạn đầu, người ta c̣n đưa ra những công thức tinh vi để đạt mục tiêu đa dạng- diversity. Nhưng nói chung mục tiêu của chính sách rất đàng hoàng, và có thiện ư, mặc dù chưa hoàn hảo: Mục tiêu đó là cố gắng giải quyết t́nh trạng bất b́nh đẳng trong xă hội Mỹ, và ráng đi đến sự công b́nh tối đa trong những định chế, hay những cơ hội tiến thân để thành công. Trong đó có đại diện của tất cả mọi thành tố trong xă hội. Chính sách này đem lại kết quả thực tiễn, và được xem như là đầu tàu để đem lại sự hội nhập trong xă hội, vừa đúng lúc đang diễn ra phong trào bảo vệ nhân quyền. Nhờ thế, chính sách đă giúp phát triển sự lớn mạnh của giai cấp trung lưu Da Đen.
Tuy nhiên, cạnh đó có một nhóm không nhỏ lớn tiếng chỉ trích chính sách này. Họ tỏ ra bất măn, mất kiên nhân và đặt câu hỏi liệu c̣n bao lâu (How long?) nữa nhóm Da Trắng sẽ c̣n phải chịu đựng sự bất công về chủng tộc. Vội vàng cứu xét việc nâng đỡ nhóm Da màu và Thiểu số, thế c̣n nhóm Da Trắng tiếp tục bị lấn ép th́ sao. (Riêng chính sách Affirmative Action liên quan đến giống tính được du nhập dưới thời chính quyền Tổng Thống Johnson. Chính sách này nhằm nâng đỡ người đồng tính hay chuyển giới, v́ cho rằng đa số những nhường này bị kỳ thị trong vấn đề xin việc làm hay xin phúc lợi.). Ngay cả những người ủng hộ chính sách Affirmative Action cũng cảm thấy miễn cưỡng, mâu thuẫn khi bênh vực cho chính sách này. Trong vụ kiện Grutter vs Bollinger năm 2003, thách thức thủ tục nhận sinh viên của trường đại học Luật Khoa Michigan, bà Chánh Án TCPV Sandra O’Connor đă cứu vớt được chính sách Affirmative Action trong đường tơ kẽ tóc. Bà viết trong luận điểm của như sau: “Chúng tôi hy vọng khoảng chừng 25 năm nữa việc dành ưu đăi v́ lư do sắc tộc sẽ không c̣n cần thiết nữa để bênh vực cho nhóm quyền lợi mà chúng ta chấp thuận cho hưởng ưu đăi ngày hôm nay.”.
Câu hỏi “Bao lâu nữa” hay “How Long? Luôn luôn là câu hỏi sai. Bởi v́ câu hỏi đó giả dụ trước rằng có một tốc độ chuẩn mực nào đó một thành phần sống trong sự yếu thế sẽ có thể phục hồi, hay đạt được ước nguyện của ḿnh. Sự yếu kém của thành phần này là sản phẩm của nhiều thế kỷ bị xă hội chèn ép. Điểm chính ở đây là thành phần bị yếm thế phục hồi, lấy lại vị thế ngang bằng là nhờ vào sự tiến bộ mà thành phần đó làm được, không phải là do yếu tố thời gian. Chúng ta thấy đó, một nửa thế kỷ sau khi phong trào nhân quyền kết thúc, tài sản ṛng trung b́nh của gia đ́nh Da Trắng vẫn cao gấp 10 lần so với lợi tức ṛng trung b́nh của gia đ́nh Da Đen. Sai biệt giàu nghèo quá chênh lệch là do nhiều thập niên người Da Đen không có điều kiện được giáo dục tốt, có việc làm tốt, và có nhà ở tiện nghi. Sự bất lợi, yếu thế, của người Da Đen không phải chỉ là do hoàn cảnh kinh tế, không được đứng trong giai cấp trung lưu. Học sinh Da Đen ở Hoa Kỳ phần lớn chỉ được đi học ở những trường học có phương tiện rất hạn chế, nghèo nàn, không bằng những trường mà các bạn Da Trắng đồng trang lứa theo học. Điểm chủ yếu là vụ kiện Hội Đồng Quản Trị hệ thống trường đại học California kiện University of California v Bakke lần đầu tiên đă thách đố chính sách Affirmative Action ra trước ṭa án. Trong vụ kiện này người ta xem yếu tố chính trong chính sách Affirmative Action theo đổi mục đích tạo được sự đa dạng trong xă hội, là những điều không rơ ràng, mờ mịt. Trong vụ kiện mới đây sinh viên trong nhóm Fair Admission đứng ra kiện hai trường đại học Harvard và North Carolina đă kỳ thị không nhận sinh viên Á châu. Chính vụ kiện này đă cho các vị Chánh Án xu hướng bảo thủ cơ hội bỏ hẳn chính sách Affirmative Action, kể từ sau vụ kiện UC và Bakke. Họ từng nghe nhiều lời phản đối của tiểu bang đối với chính sách này.
Từ khi Tối Cao Pháp Viện gồm đa số chánh án khuynh hướng bảo thủ, với tỷ lệ 6-3, báo TIMES đă gióng tiếng cảnh báo từ hồi tháng 10 rằng Tối Cao Pháp Viện sẵn sàng tiêu hủy chính sách thu nhận sinh viên vào trường đại học dựa trên sắc tộc. Chúng ta có thể kể rơ ra trường hợp Chánh Án Clarence Thomas. Từ bấy lâu nay, ông là người có ư khinh miệt chính sách Affirmative Action. Ông Thomas tốt nghiệp trường Luật ở đại học Yale, ra trường mà không t́m được việc làm. Trong những lần phỏng vấn xin việc, ông thường bị vặn hỏi về ư nghĩa của cụm từ “diversity”, hay “đa dạng.” Theo ông, cụm từ này mơ hồ, khó hiểu, và vô nghĩa. H́nh như cụm từ này có nghĩa là mọi thứ đều phải chia đồng đều cho tất cả mọi người. Đây là một lập luận bao quát, rộng lớn. Nhiều chương tŕnh đa dạng ở bậc giáo dục cao, như ở trường cao đẳng, hay đại học, chủ trương hướng về mục tiêu phát huy nhiều cộng đồng nhiều sắc thái, quy tụ đủ mọi sắc tộc, quốc tịch, căn bản giáo dục, sở thích, tài năng, và kinh nghiệm khác nhau. Trong tổng số 116 vị Chánh Án từng được bổ nhiệm vào Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ, chỉ có hai người: Chánh án Thurgood Marshall và Clarence Thomas là thấu hiểu thật sâu xa cảm nghĩ của một người Da Đen theo học trong một trường học phân biệt màu da- segregated schools-. Quan điểm này của ông Chánh án sẽ đem lại ích lợi cho toàn thể xă hội từng bị chi phối bởi chính sách Affirmative Action, và ông muốn điều chỉnh những khiếm khuyết đó. Lư luận trên đây không mấy khó hiểu, mặc dù, việc ủng hộ chính sách Affirmative Action xem ra là điều rất khó làm.
Hậu quả cuối cùng của quyết định mới đây sẽ sáng tỏ thêm sau một thời gian. Tuy nhiên, chúng ta có thể tiên đoán một cách chắc chắn rằng rồi đây sẽ có rất ít sinh viên da màu, hay gốc thiểu số có mặt ở nhiều trường đại học, nhất là những trường có sự mức độ ganh đua khó khăn với được nhận vào.
Năm 1998, sau khi các trường đại học thuộc hệ thống University of California hủy bỏ hệ thống thu nhận học sinh dựa vào yếu tố màu da, giới tính, và sắc tộc th́ số sinh viên Da Đen, hay gốc Nam Mỹ Latin được nhận vào các trường U.C giảm hẳn, nhất là xin vào các trường khó như trường Berkeley và UCLA, giảm đến 40%. Nhiều sinh viên Da Đen và Latino sẽ phải theo học ở những trường đại học có phương tiện học vấn kém phong phú, và do đó, tỉ lệ tốt nghiệp của những sinh viên này sẽ giảm. Để rồi về sau cơ hội thành công cũng giảm bớt theo.
Hậu quả của phán quyết trên không chỉ ảnh hưởng đến những thế hệ tương lai mà thôi. Sau khi phán quyết về quyền được phá thai được đua ra gần đây, Tối cao Pháp Viện Hoa Kỳ mất đi sự ủng hộ của công chúng. Chỉ có 63% dân Mỹ ủng hộ việc làm của Tối Cao Pháp Viện. Tiếp theo vụ cấm phá thai, bây giờ lại thêm việc hủy bỏ chính sách của Affirmative Action, người ta thấy Tối Cao Pháp Viện với thành phần bảo thủ chiếm tỷ lệ đa số 6-3 đang t́m cách thực hiện những đường hướng, chính sách của Đảng Cộng Ḥa. Biến những ưu tiên của đảng Cộng Ḥa trở thành cơ sở luật pháp cho cả nước. Kể từ mùa thu năm ngoái, tâm lư tín nhiệm vào Tối Cao Pháp Viện xuống rất thấp, chỉ c̣n 47% dân Mỹ đặt niềm tin “rất nhiều” vào hệ thống tư pháp liên bang, tức là sụt giảm 20 điểm so với hai năm trước đây. Phán quyết mới của Tối Cao Pháp Viện về chính sách Affirmative Action lại càng làm tăng tâm lư bất tín nhiệm của dân Mỹ vào Tối Cao Pháp Viện, với những lư do chính đáng. Hai thập niên sau khi Chánh Án Sandra O’Connor tiên đoán về sự tồn vong của chính sách Affirmative Action, chẳng ngờ chuyến xe lửa đă tới nhà ga sớm hơn dự định. Phán quyết mới đây của Tối Cao Pháp Viện báo trước một sự khởi hành mới, chúng ta đang bắt đầu đi sang một chiều hướng trái ngược với xu hướng cấp tiến.
|
|