Trà xanh, vối, hoa cúc, atiso không chỉ giải khát ngày hè mà c̣n nhiều công dụng chữa bệnh, lợi tiêu hóa, làm đẹp.
Ngày 6/6, bác sĩ Huỳnh Tấn Vũ, khoa Y học cổ truyền, Đại học Y Dược TP HCM, cho biết uống trà là một nét văn hóa ẩm thực của người Việt. Một số loại trà thường dùng, có đặc tính và tác dụng đối với sức khỏe, như sau:
Trà xanh
Trà xanh chứa hợp chất polyphenol - tanin, có khả năng ức chế các gốc tự do oxy, tác dụng chống ung thư, làm chậm quá tŕnh lăo hóa, kích thích nhẹ thần kinh trung ương, hệ hô hấp và tim mạch, tạo cảm giác sảng khoái, dễ chịu, tăng cường lưu thông máu.
Nhóm enzym thủy phân gồm amilaza, invectaza, glucozidata, proteaza, tác dụng làm tăng hàm lượng chất ḥa tan, h́nh thành nên các chất có hương vị và màu sắc đặc trưng cho trà. Nhóm sắc tố chlorophyll làm cho lá có màu xanh, khó tan trong nước nóng.
Theo y học cổ truyền, trà xanh có tác dụng thanh nhiệt, giải khát, tiêu hóa tốt, lợi tiểu, định thần; dùng ngoài nấu nước ngâm rửa vết bỏng hay lở loét có tác dụng sát khuẩn, chóng lên da non.
Trà vối
Cây vối có tên khoa học là cleistocalyx operculatus, cả lá, cành non và nụ đều có mùi thơm dễ chịu. Từ lâu, cây vối được người dân dùng làm trà uống giải khát. Lá vối giúp ăn ngon, tiêu hóa tốt; chất đắng, chát trong vối sẽ kích thích tiết nhiều dịch tiêu hóa, chất tanin bảo vệ niêm mạc ruột. Bên cạnh đó, tinh dầu vối có tính kháng khuẩn nhưng đặc biệt không hại vi khuẩn có ích trong ruột.
Theo các nghiên cứu, lá và nụ vối có chất kháng sinh thực vật, diệt được nhiều mầm vi khuẩn gây bệnh, kể cả vi trùng gram- và gram+. Theo đông y, vối có vị hơi chát, tính mát, không độc, tác dụng thanh nhiệt, sát khuẩn. Dân gian thường dùng lá, vỏ, thân, hoa làm thuốc chữa đầy bụng, khó tiêu, tiêu chảy, mụn nhọt, viêm đại tràng mạn tính.
Trà hoa cúc
Cúc hoa c̣n gọi là cam cúc hoa, bạch cúc hoa, cúc hoa trắng, cúc điểm vàng, tên khoa học chrysanthemum sinense sabine. Thành phần chủ yếu có trong tinh dầu hoa cúc là bisabolol (levomenol), là hoạt chất có rất nhiều công dụng tốt cho sức khỏe.
Bisabolol có tác dụng chống kích ứng, chống viêm và chống vi khuẩn, đẹp da. Chúng được dùng như thành phần dưỡng da, giúp giảm bong tróc và kích thích quá tŕnh tự phục hồi của da.
Nhiều nghiên cứu chứng minh trong hoa cúc chứa apigenin, một chất có tác dụng ngăn ngừa tế bào ung thư lan rộng. Cây hoa cúc được trồng nhiều ở ta để lấy hoa làm thuốc hay ướp chè, nấu rượu.
Theo tài liệu cổ, hoa cúc trắng có vị ngọt, đắng, tính hơi hàn, cúc hoa vàng có vị đắng cay, tính ôn vào 3 kinh phế, can và thận, tác dụng giải độc, dùng chữa hoa mắt, nhức đầu, mắt đỏ đau, mụn nhọt.
Trà atiso
Atiso là cây thuốc nam quư, cao khoảng 1-2 m, thân và lá có lông trắng như bông. Hoạt chất chính của atiso là cynarine, ngoài ra c̣n có inulin, inulinaza, tanin, các muối hữu cơ của các kim loại kali, canxi, magie, natri, tác dụng hạ cholesterol và urê trong máu, tạo mật, tăng tiết mật, lợi tiểu.
Atiso được sử dụng trong y học cổ truyền nhằm khắc phục các vấn đề của lá gan và túi mật. Tại châu Âu, cây cũng được làm nguyên liệu sản xuất các loại thuốc thảo dược chữa rối loạn tiêu hóa và gan, cholesterol cao.
Bác sĩ Vũ nhận định, trà vừa là thức uống (ẩm thực) vừa là thuốc (dược phẩm), khi dùng cần chú ư, tùy thể trạng, điều kiện địa lư và môi trường sống để lựa chọn và sử dụng sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Bác sĩ lưu ư tránh uống trà khi đói, bởi trà sẽ xâm nhập phế phù làm cho tỳ vị bị lạnh, người uống dễ rơi vào t́nh trạng cồn cào, nôn nao, khó chịu, hoa mắt, chóng mặt. Tránh uống trà lạnh, có thể gây đ́nh trệ khí, khiến bạn phát sinh nhiều đờm tiết. Ngoài ra, trà để lâu dễ bị ôxy hóa, nhiễm vi khuẩn có hại; trà pha lại nhiều lần th́ các nguyên tố vi lượng không c̣n.
Tránh uống trà ngay sau bữa ăn bởi axit tannic sẽ làm cho protein trong thức ăn trở nên cứng. Hơn nữa, nước chè cũng ức chế sự hấp thụ chất sắt. Thời điểm tốt nhất là uống trà sau ăn 30 phút.
|
|