Bát quái có liên quan đến triết học thái cực và ngũ hành. Thời cổ đại, nó được ứng dụng rộng rãi trong thiên văn học, chiêm tinh học, phong thủy và y học cổ truyền và rất nhiều lĩnh vực khác.
Bát quái (8 quẻ) bao gồm: Quẻ Càn (hình bát quái ☰), quẻ Khôn (hình bát quái ☷), quẻ Đoài (hình bát quái ☱), quẻ Ly (hình bát quái ☲), quẻ Chấn (hình bát quái ☳), quẻ Tốn (hình bát quái ☴), quẻ Khảm (hình bát quái ☵), quẻ Cấn (hình bát quái ☶). Bát quái không chỉ đại biểu cho thời gian và phương vị mà còn đại biểu cho các bộ phận trên thân thể người. Tám bộ phận của thân thể con người đối ứng với từng quẻ trong Bát Quái và được xem là một “Bát quái đồ”.
Quẻ càn là đầu
Lấy thân thể con người mà nói, quẻ càn (☰) là đại biểu cho đầu. Bởi vì càn là trời, là bên trên, là vua, là đại biểu cho sự tôn quý, đại biểu cho người đứng đầu. Mà đầu của con người cũng là ở nơi cao nhất trong thân thể, là bộ phận tôn quý nhất. Những từ như thủ lĩnh, đầu não… đều là được dẫn dắt từ bộ phận đầu mà nói lên ý nghĩa. Cho nên, quẻ càn là đại biểu cho bộ phận đầu trong thân thể con người.
Đầu là tương ứng với càn, là bộ phận quan trọng nhất. Đặc tính của quẻ càn là sáng tạo, cho nên con người phải luôn giữ cho đầu não thanh tỉnh, thì mới dẫn dắt được suy nghĩ của mình đi theo con đường đúng đắn.
Quẻ khôn là bụng
Khôn (hình bát quái ☷) là đại biểu cho bụng. Bụng của con người là nơi chứa đựng rất nhiều bộ phận, “lục phủ ngũ tạng”. Khôn trong Bát quái là đại biểu cho mặt đất, nơi có diện tích rộng lớn, có thể nâng đỡ được vạn vật.
Đặc tính của quẻ khôn là sự tiếp nhận, dung nạp. Bụng của con người tương ứng với quẻ khôn, là có ý nhắc nhở con người chúng ta rằng, làm người phải có tấm lòng rộng lớn, bao la như mặt đất. Phải bao dung mới có thể nuôi dưỡng, nâng đỡ được vạn vật, phải có thể dung nạp được trăm sông.
Quẻ chấn là chân
Quẻ chấn có đặc tính là động, là di chuyển, mà chân là để vận động, đi lại. Nét liền (dương hào) là thể hiện cho động, nét đứt (âm hào) là thể hiện cho tĩnh.
Hình bát quái của quẻ chấn là (☳), từ trong ra ngoài, nét đầu tiên là nét liền, nét hai và ba là nét đứt, ý nói mọi người muốn đi phải dùng hai chân bên dưới để bước đi qua lại. Do đó, dùng đặc tính của quẻ chấn để đại biểu cho chân.
Quẻ tốn là bắp đùi
Bắp đùi là bộ phận từ đầu gối trở lên, là chỗ có lực nhất của cơ thể con người. Trong Bát quái, trạng thái của quẻ tốn là “thuận” và “nhập” (tham gia, gia nhập, len vào).
Chúng ta muốn đi đến một cảnh giới cao thâm, đi vào một khu vực nào đó thì nhất định phải đầu tư nhiều năng lượng, tinh lực, thể lực. Cho nên dùng đặc tính của quẻ tốn đại biểu cho bắp đùi.
Quẻ khảm là tai
Trong thiên nhiên, khảm là nước. Nước ở bên trong thân thể người là đại biểu cho thận mà thận lại khai khiếu (thông suốt) ra tai, cho nên khảm là tai.
Hình bát quái của quẻ khảm là “☵”, ở giữa là nét liền (hào dương), bên trên và bên dưới là nét đứt (hào âm), thể hiện ánh sáng trong bóng đêm. Cho nên, khảm cũng là đại biểu cho trí huệ, sự thông minh.
Cổ nhân thường nói “tai thính, mắt tinh”, ý nói rằng một người có tai minh mẫn, nghe được hiểu rõ, nghe được minh bạch. Người mà thận tốt thì sẽ “tai thính, mắt tinh”.
Quẻ ly là mắt
Quẻ ly đại biểu cho thái dương, ánh mặt trời, có đặc tính soi sáng cho vạn vật ở thế gian con người. Mà mắt người là có thể nhìn được trời đất, vạn vật có hình dạng cho nên quẻ ly là đại biểu cho mắt.
Dùng quẻ ly đại biểu cho mắt người cũng là có ý nhắc nhở con người rằng, dùng đôi mắt của mình để nhìn thật thấu, thật rõ mỗi sự vật sự việc trong thế gian.
Quẻ cấn là tay
Quẻ cấn là đại biểu cho tay. Từ hình bát quái của quẻ cấn là (☶) phân tích, thấy rằng nét trên cùng là nét liền (hào dương), phía dưới là hai nét đứt (hào âm). Hình dạng của nó giống như một người đang dùng hai tay. Vì thế, quẻ cấn đại biểu cho tay.
Quẻ đoái là miệng
Trong thiên nhiên, quẻ đoái là đại biểu cho biển, hồ, là một lỗ hổng của mặt đất bằng phẳng. Lỗ hổng lớn nhất của con người chính là cái miệng.
Đặc tính của quẻ đoái là vui sướng, dễ chịu. Con người trong lúc vui sướng sẽ thường thường nói không có kiểm soát, nói quá, nói lời khoa trương. Cho nên, dùng quẻ đoái để đại biểu cho miệng. Điều này cũng là có ý nhắc nhở con người rằng “miệng” có thể đem đến tai họa, cần phải lý trí để biết lời nào nên nói, lời nào không nên nói.
VietBF©sưu tập