WASHINGTON, D.C.
Nước Mỹ sản xuất 18.8 triệu thùng dầu thô/ngày, đứng đầu thế giới. Hạng nh́ là Saudi Arabia, 10.8 triệu thùng, và hạng ba là Nga, 10.7 triệu thùng, theo con số thống kê của Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ.
Mỗi ngày nước Mỹ sản xuất nhiều hơn Saudi Arabia 8 triệu thùng, nhưng vẫn bị vương quốc này "bắt chẹt" khi họ cùng với khối OPEC Plus thông qua quyết định cắt giảm sản xuất 2 triệu thùng/ngày hôm 5 tháng Mười vừa qua và có hiệu lực từ ngày 1/11 tới đây.
V́ sao?
Câu trả lời thật không đơn giản v́ sự vận hành sản xuất của kỹ nghệ dầu và giá cả thị trường thế giới rất phức tạp.
Nước Mỹ là quốc gia tiêu thụ dầu nhiều hơn sản xuất, thể chế chính trị của Hoa Kỳ không cho phép kiểm soát chuyện làm ăn kinh doanh của các công ty tư nhân, và nhiều người dân Mỹ chưa nhận ra rằng, sự mong ước có
"giá xăng rẻ" của họ luôn đối nghịch với quyền lợi của giới kỹ nghệ dầu mỏ. Đó là vài nguyên nhân chính khiến cho giá xăng luôn luôn bất ổn.
"Con nghiện Mỹ" tiêu thụ dầu nhiều hơn mức sản xuất
Trên toàn thế giới, mỗi ngày cần sử dụng đến khoảng 100 triệu thùng dầu, riêng nước Mỹ là nơi tiêu thụ nhiều nhất, trên 20 triệu thùng/ngày, chiếm đến 1/5 mức tiêu thụ trên toàn cầu.
Tuy nhiên, sản lượng của Mỹ, chỉ khoảng 18 triệu thùng, ít hơn nhiều so với lượng tiêu thụ là 20 triệu thùng, và đương nhiên, sự thiếu hụt này phải được bù đắp từ nguồn dầu của ngoại quốc.
Khi vẫn thiếu khoảng 2 triệu thùng dầu/ngày, chỉ cần nguồn cung trên thị trường giảm nhẹ, giống như theo quyết định của khối OPEC Plus vừa qua, giá cả nhiên liệu ở Mỹ sẽ bị ảnh hưởng nhanh chóng.
Quốc gia tiêu thụ dầu nhiều đứng hàng thứ nh́ thế giới là TQ với mức 15.4 triệu thùng/ngày, ít hơn mức 20 triệu thùng của Mỹ. Như vậy, mức tiêu thụ của TQ chỉ bằng 3/4 của Mỹ, dù dân số TQ, đông đến 1.4 tỷ người, gần gấp năm lần dân số Mỹ, mới có 330 triệu người.
Nh́n con số tỷ lệ tiêu thụ dầu giữa Mỹ và TQ như trên cho thấy chính v́ căn nguyên
"nghiện dầu" nên chỉ cần một thay đổi bất thường trên thị trường dầu toàn cầu là dân Mỹ cảm thấy bị
"hụt hơi" liền.
Do đó, không ccó ǵ khó hiểu để nhận thấy rằng, mỗi khi có biến động ở eo biển Hormuz là giá xăng thị trường Mỹ tăng lên dù cho Hoa Kỳ không có nhập cảng dầu của Iran. Hay như trong việc cấm vận sự giao thương với Nga, v́ Tổng thống Vladimir Putin xâm lăng Ukraine, làm chao đảo giá nhiên liệu tại Hoa Kỳ, dù phía Mỹ có nhập dầu mỏ từ Siberia, nhưng không đáng kể.
Sản xuất nhiều nhất không đồng nghĩa kiểm soát được giá cả ổn định
Ngay cả khi sản lượng đáp ứng chính xác được nhu cầu nội địa, Hoa Kỳ vẫn cần nhập cảng và xuất cảng dầu liên tục. Bởi v́, chất lượng dầu thô không đồng nhất, có thể
"nặng" hoặc
"nhẹ", "ngọt" hoặc
"chua", và những phẩm chất đó có ảnh hưởng ít nhiều đến mức độ cần phải được tinh chế cho phù hợp với mục đích sử dụng. Do đó, kỹ nghệ dầu mỏ của Mỹ vẫn cần liên tục xuất cảng dầu thô và nhập cảng dầu đă tinh luyện, hoặc ngược lại.
Như vậy, việc sản xuất dầu hoả lớn nhất không phải là yếu tố chính trong việc kiểm soát giá dầu thế giới.
"Nói đến bảo vệ nền kinh tế quốc gia khỏi các tác động của những biến động giá dầu toàn cầu, nếu chỉ là một công ty sản xuất dầu lớn nhất, đơn thuần chẳng có ư nghĩa ǵ cả", lời b́nh luận của ông Bob McNally, người sáng lập viên và chủ tịch tổ chức
Rapidan Energy Group, chuyên gia cố vấn về thị trường năng lượng.
"Quyền lực thực sự trong thị trường dầu hoả là tùy thuộc phần lớn ở người có khả năng ổn định giá cả", ông McNally nhận định.
Để tạo được t́nh trạng ổn định giá cả phải có
"đủ năng lực sản xuất dự pḥng" (spare production capacity) theo đánh giá của vị chủ tịch tổ chức
Rapidan Energy Group này.
Chỉ cần một biến động trên thị trường dầu thế giới, người dân Mỹ bị "nhức đầu" với giá xăng ngay. (H́nh: OLIVIER DOULIERY/AFP via Getty Images)
Khả năng ổn định giá cả tuỳ thuộc "năng lực sản xuất dự pḥng"
Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ giải thích,
"công suất dự pḥng" là mức sản lượng có thể thay đổi được trong 30 ngày và duy tŕ t́nh trạng đó trong ít nhất 90 ngày.
Để tạo được "
công suất dự pḥng", quốc gia đó phải có
"đủ năng lực sản xuất dự pḥng".
Điều này có nghĩa là quốc gia sản xuất dầu đó phải có năng lực để có thể bơm thêm hoặc giảm thiểu sản lượng của ḿnh, một cách bất chợt, để đối phó với t́nh h́nh biến động nào đó trong thời gian vài ba tháng.
Khi giá dầu bị biến động trên toàn thế giới, các quốc gia sản xuất dầu lớn như Saudi Arabia và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất có thể bảo vệ thần dân của họ khỏi
"cú sốc" về giá cả nhờ tạo được
"năng lực sản xuất dự pḥng".
Năng lực này có được nhờ các lư do địa lư và chính trị khiến cho các quốc gia Vùng Vịnh Ả Rập xem việc sản xuất dầu mỏ là một vấn đề an ninh quốc gia quan trọng và có khung luật pháp để bảo đảm việc duy tŕ
"công suất dự pḥng", theo giải thích của nhật báo
The Atlantic.
Đây chính là vũ khí kiểm soát giá cả trên thị trường một cách hữu hiệu của các quốc gia đặt nền an ninh quốc gia triệt để nói trên trong việc xuất cảng dầu.
Saudi Arabia có thể gia tăng sản lượng tối đa để giá dầu thô sụt giảm liên tục khiến cho những mỏ dầu mới không sinh đủ lợi nhuận để những công ty khai thác rơi vào t́nh trạng èo uột tài chánh, và ngược lại, vương quốc này có thể cắt giảm sản lượng tối đa để nâng lại giá dầu theo ư họ muốn.
Nước Mỹ không có "đủ năng lực sản xuất dự pḥng"
Nền tảng kinh tế của nước Mỹ là tư bản. Chính phủ Liên bang không quyền hành ǵ trên các mỏ khí đốt hay dầu hoả trên mảnh đất tư nhân.
Chính phủ Mỹ cũng không có biện pháp nào để buộc các công ty tư nhân phải gia tăng hay giảm thiểu sản lượng dầu.
Sự tồn tại và phát triển kỹ nghệ dầu mỏ tư nhân đă khiến cho nước Mỹ không thể nào có được
"năng lực sản xuất dự pḥng" để biến ước mơ
"năng lượng độc lập" của các đời Tổng thống Mỹ, Cộng Hoà lẫn Dân Chủ, trở thành hiện thực.
Năm 1973, Tổng thống Richard Nixon công bố
Kế Hoạch Độc Lập Năng Lượng, một chiến dịch đến năm 1980 sẽ loại bỏ nhập cảng dầu mỏ ngoại quốc nhập cảng vào Mỹ.
Kế hoạch trên đă thất bại, nhưng kể từ đó mọi đời Tổng thống kể từ ông Ronald Reagan đến Barack Obama đều hướng tới ước muốn tạo ra sự
"độc lập về năng lượng" cho Hoa Kỳ.
Chỉ có ông Donald Trump, với cách tuyên truyền cường điệu, bất chấp thực tế cơ chế chính trị và hoạt động của kỹ nghệ dầu, khi cố thổi phồng h́nh ảnh cá nhân khi
"nổ" rằng nước Mỹ "thống trị nguồn năng lượng thế giới"!.
Đương nhiên, người Mỹ sẽ hưởng lợi nhiều nếu
Kế Hoạch Độc Lập Năng Lượng thành công, nước Mỹ sẽ không bị vướng vào những khủng hoảng và chiến tranh, thậm chí, không cần phải chi trả tốn kém cho việc duy tŕ những căn cứ quân sự ở Trung Đông.
Nhưng, thể chế nước Mỹ không cho phép can thiệp vào hay định đoạt về các hoạt động kinh doanh của các công ty tư nhân.
Ngược lại, dựa vào quyền tự do thương mại và sở hữu theo hiến định,
các công ty dầu mỏ Mỹ lại có khuynh hướng chống lại sự độc lập về năng lượng cho đất nước.
Bà Ann-Louis Hittle, phó chủ tịch công ty cố vấn và đầu tư
Wood Mackenzie, nhận định rằng,
"sẽ rất tốn kém để có được và duy tŕ 'năng lực sản xuất dự pḥng'. Giới đầu tư không bao giờ muốn bỏ tiền để 'ngồi không', rồi chờ thời điểm thuận lợi", bà Hittle nhận định.
V́ vậy, hiện nay
"năng lực sản xuất dự pḥng" của Mỹ là một con số O to tướng!
Hoa Kỳ sản xuất nhiều dầu nhất thế giới, nhưng không kiểm soát được giá dầu. (H́nh minh họa: Joe Raedle/Getty Images)
Ước mơ "giá xăng rẻ" trái ngược với kỹ nghệ dầu mỏ
Chân lư hiển nhiên là:
Quyền lợi các công ty khai thác và lọc dầu tỷ lệ nghịch với ước muốn giá xăng rẻ của người dân Mỹ.
Điều này có nghĩa rất đơn giản là nếu giá xăng rẻ hơn, lợi nhuận của các công ty cũng sẽ tụt giảm. Và nếu, giá xăng rẻ mạt theo mơ ước của dân chúng, các công ty dầu sẽ đứng trên bờ vực phá sản v́ không c̣n kiếm ra lợi nhuận.
Đứng trước viễn ảnh khối OPEC Plus sẽ giảm sản lượng dầu, trước đó, hai "
ông lớn" kỹ nghệ khai thác dầu Mỹ, công ty
American Petroleum Instute và
American Fuel and Petrochemical Manufacturer, đă vội vă gửi một lá thư đến bà Jennifer Granholm, Bộ trưởng Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ.
Hai
"ông lớn" này tỏ ư quan tâm đến việc chính phủ của ông Biden cân nhắc đến chuyện giới hạn số lượng dầu xuất cảng để giảm áp lực giá xăng bán lẻ trong nước.
Giới kỹ nghệ dầu muốn các giới chức liên bang ngừng bàn thảo giải pháp này và cũng không muốn khai thác thêm dầu nội địa, dù ngay trong năm đầu tiên chấp chánh, tức là năm 2021, Tổng thống Biden đă kư hơn 3,500 giấy phép khai thác dầu và khí đốt, nhiều hơn gần 900 giấy phép so với năm đầu tiên của chính phủ của ông Trump.
Những công ty có được số giấy phép
"hùng hậu" (được gia hạn mỗi 10 năm) nêu trên không muốn khai thác ngay lập tức để giải quyết t́nh trạng thiếu thốn năng lượng hiện nay, mà họ sẽ chờ vào thời điểm mang đến lợi nhuận cao nhất.
Kinh tế gia Douglas Holtz-Eakin, chủ tịch tổ chức cố vấn chính trị trung hữu,
American Action Forum, có nhận định trên
PolitiFact rằng:
"Các công ty, sau khi có giấy phép khai thác, chờ đợi để bảo đảm thu được lợi nhuận từ các giếng dầu xứng đáng với mức đầu tư to lớn mà họ đă bỏ ra".
Những người cả tin trút hết bất măn vào ông Biden và không hề nghĩ đến hậu quả đại dịch COVID-19 đă khiến cho thế giới bị tê liệt năm 2020-2021 và cuộc chiến Nga-Ukraine càng lúc càng tàn bạo đă gây ảnh hưởng tiêu cực trên thị trường dầu thế giới.
Họ cũng không nghiệm ra được niềm ao ước giá xăng rẻ của ḿnh lại mâu thuẫn hoàn toàn với lợi nhuận của kỹ nghệ khai thác dầu cùng các chính trị gia được giới tài phiệt năng lượng hóa thạch hậu thuẫn.
Để chấm dứt bị ngoại quốc
"bắt chẹt" giá dầu, người dân Mỹ cần đoạn tuyệt với căn bệnh
"nghiện dầu" bằng cách chuyển sang năng lượng xanh cũng như cần sáng suốt trong quyết định chính trị, thông qua lá phiếu bầu của ḿnh.
Dù cho giới chính trị gia được kỹ nghệ dầu tài trợ có khéo tuyên truyền đến đâu, dân chúng cần nhớ rằng v́ nền tảng thể chế kinh tế chính trị, kỹ nghệ dầu Mỹ sẽ không bao giờ đạt được mức độ "
năng lực sản xuất dự pḥng" để thật có được sự độc lập về năng lượng.
C̣n xài xăng là c̣n bị ngoại quốc bắt chẹt, đó là chuyện khó tránh khỏi!