Ung thư xương là tổn thương ác tính (ung thư) xương, gây phá hủy mô xương bình thường. Không phải tất cả các khối u xương đều ác tính. Trong thực tế, u xương lành tính (không phải ung thư) phổ biến hơn so với những u xương ác tính. Cả hai khối u xương ác tính và lành tính có thể phát triển từ mô xương khỏe mạnh, nhưng khối u lành tính không lây lan, không phá hủy mô xương và hiếm khi trở thành mối đe dọa cho cuộc sống. Các khối u ác tính bắt đầu trong mô xương được gọi là ung thư xương nguyên phát. Ung thư di căn (lan) đến xương từ các bộ phận khác của cơ thể, chẳng hạn như: vú, phối, hoặc tuyến tiền liệt được gọi là ung thư thứ phát và được đặt tên theo cơ quan hoặc mô.
Ung thư xương nguyên phát là ít phổ biến hơn so với ung thư xương thứ phát.
Nguyên nhân gây ung thư xương
Ung thư xương không có nguyên nhân rõ ràng, các nhà nghiên cứu đã xác định được một số yếu tố làm tăng khả năng phát triển các khối u.
- Bệnh lành tính của xương: có thể chuyển hóa thành ung thư - u tế bào khổng lồ, các chồi xương.
- Chấn thương mãn tính: tỷ lệ ung thư xương cao hơn ở những bệnh nhân có chấn thương tại đầu dưới xương đùi, đầu trên xương chày do tai nạn. Những chấn thương mãn tính có thể kích thích tạo nên ung thư.
U xương ác tính xảy ra thường xuyên hơn ở những người đã có liều bức xạ cao bên ngoài điều trị hoặc điều trị bằng thuốc chống ung thư nhất định; trẻ em rất nhạy cảm.
Một số ít bệnh ung thư xương là do di truyền. Ví dụ, trẻ bị retinoblastoma di truyền (bệnh ung thư phổ biến của mắt) có nguy cơ cao phát triển ung thư xương, đặc biệt nếu họ được điều trị bằng bức xạ.
Ngoài ra, người có khuyết tật di truyền của xương và những người có cấy ghép kim loại, mà các bác sĩ đôi khi sử dụng để sửa chữa gãy xương, có nhiều khả năng phát triển u xương ác tính.
Riêng Ewing sarcoma không liên quan chặt chẽ với các hội chứng ung thư di truyền nào, bệnh trẻ em bẩm sinh hoặc tiếp xúc với bức xạ trước đó.
Các triệu chứng thường gặp
- Những cơn đau hoặc mềm ở khu vực khối u: bắt đầu bằng những cơn đau kéo dài và đau nhiều vào ban đêm khí cơ bắp thư giãn.
Đối với trẻ em, triệu chứng này có thể bị nhầm thành bong gân hoặc sự phát triển của xương lúc dậy thì. Nếu trẻ có các triệu chứng đau xương nhiều vào đêm thì tốt nhất bạn nên đưa trẻ đi khám bác sĩ.
- Sưng vù xung quanh vùng xương bị ảnh hưởng: biểu hiện sẽ không rõ cho đến khi khối u phát triển tương đối to. Không phải lúc nào cũng nhìn thấy hoặc cảm nhận thấy khối u nếu phần xương bị ảnh hưởng nằm sâu trong các mô thịt.
- Giảm khả năng cử động: nếu ung thư nằm ở gần khớp khối u có thể làm khớp đó cử động khó khăn và do vậy ảnh hưởng đến sự di chuyển của toàn bộ chi này. Nếu ung thư nằm ở xương sống, nó sẽ tạo sức ép lên các dây chằng trong xương sống và làm các chi yếu đi, tê liệt hoặc đau nhói.
- Gãy xương: Trong một số trường hợp, ung thư xương đôi khi được phát hiện ra khi một xương nào đó bị yếu đi do ung thư và gãy khi bạn bị ngã nhẹ hoặc bị tai nạn.
- Các triệu chứng trên toàn cơ thể: mệt mỏi, sốt cao hoặc ra mồ hôi, giảm cân và triệu chứng của ổ tổn thương nguyên phát di căn tới xương như: phổi, vú, tuyến thượng thận.
Có những xét nghiệm có thể được sử dụng để phát hiện sớm một số bệnh ung thư (chẳng hạn như ung thư vú, cổ tử cung, đại trực tràng và da), trước khi chúng gây ra các triệu chứng. Tuy nhiên, đến nay không có xét nghiệm đặc biệt nào giúp phát hiện sớm ung thư xương. Cách tốt nhất để phát hiện sớm bệnh ung thư này là đi khám ngay nếu bạn có các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh này.
|