GỌI "KỲ" LÀ ... "CHIA ĐỂ TRỊ"? GẮP LỬA BỎ TAY NGƯỜI ! - VietBF
 
 
 

HOME

NEWS 24h

DEM

GOP

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Breaking
News Library Technology Giải Trí Portals Tin Sốt Home

Go Back   VietBF > USA NEWS > Republican Party


Reply
 
Thread Tools
Old 07-21-2020   #1
luyenchuong3000
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
luyenchuong3000's Avatar
 
Join Date: Mar 2008
Posts: 14,316
Thanks: 19,153
Thanked 40,453 Times in 11,538 Posts
Mentioned: 159 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1870 Post(s)
Rep Power: 70
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
vnch GỌI "KỲ" LÀ ... "CHIA ĐỂ TRỊ"? GẮP LỬA BỎ TAY NGƯỜI !

Cho đến giờ này vẫn c̣n nhiều người bị nhồi nhét cái giống ǵ không biết nữa mà cứ khăng khăng nói danh xưng 3 Kỳ (Bắc / Trung / Nam Kỳ) là do Pháp đặt ra nhằm "chia để trị". Cái này tiền nhân người Việt chúng ta (đời nhà Nguyễn) bị cướp mất bản quyền, và chịu oan c̣n hơn oan Thị Kính!
&1&
Vào năm 1834, Hoàng đế Minh Mạng đặt ra tên gọi phân chia địa giới hành chánh cả nước thành 3 KỲ (圻), nằm trong một lănh thổ HỢP NHỨT là nước Đại Nam (được triều Nguyễn giải thích là "Đại Việt Nam" gọi rút gọn mà thành).
* BẮC KỲ 北 圻, có 13 tỉnh: Hà Nội, Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định, Ninh B́nh, Thái Nguyên.
* TRUNG KỲ 中 圻 (gồm Trực Kỳ, Hữu Kỳ, Tả Kỳ), có 12 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng B́nh, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên, Khánh Ḥa, B́nh Thuận.
• NAM KỲ 南 圻, có 6 tỉnh: Gia Định), Biên Ḥa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
&2&
"Chia để trị" là chính sách của Pháp sau năm 1884, nghĩa là măi hơn nửa thế kỷ sau khi đă có danh xưng Bắc/ Trung / Nam Kỳ từ đời tám hoánh rồi đa!
Mà Pháp họ đặt tên bằng tiếng Pháp, không miếng tiếng Việt nào ở trỏng, và họ bèn dựa trên địa giới hành chánh "KỲ" - nhắc lại: đă có sẵn do người Việt đặt ra.
Dựa theo địa giới Bắc Kỳ có sẵn, Pháp đổi tên đặt là: TONKIN
("Tonkin": đọc trại âm từ tên gọi "Đông Kinh" (東京) đă từng xuất hiện trong thời Hậu Lê. "Đông Kinh", mà trước đó nữa gọi là Thăng Long, v́ đây là thủ phủ toàn khu vực miền Bắc nên người Pháp lấy tên "Tonkin" đặt chung.
Ở đây, xin quí bạn CHÚ Ư: Người Pháp họ không dựa theo tên gọi "Hà Nội" - đây là tên do vua Minh Mạng đặt ra vào năm 1832, mà họ lại dựa theo cách gọi "Đông Kinh" trước đó lâu lắc)
Dựa theo địa giới Trung Kỳ có sẵn, Pháp gọi thành: ANNAM
Cách gọi này mới thiệt mắc dịch hết sức! Theo Hiệp ước 1884, toàn khu vực Trung Kỳ do nhà Nguyễn cai quản (với sự bảo hộ của người Pháp). Nhà Nguyễn gọi tên nước là ĐẠI NAM, nhưng Pháp không gọi theo đó "Dainam" mà họ mượn cách gọi của Tàu vẫn ưng gọi là "An Nam" - tức "an định cơi Nam", theo một hệ qui chiếu trịch thượng lấy Tàu làm...trung tâm (!) th́ nước ta nằm về phía Nam của Tàu.
Dựa theo địa giới Nam Kỳ có sẵn, Pháp đổi tên và gọi là: COCHINCHINE.
"Cochin" có nguồn gốc từ tên gọi sông Koh Chin của Thủy Chân Lạp thuộc hệ thống sông Mekong (sông Cửu Long). Và do sợ nhầm lẫn với thành phố cảng Cochin bên Ấn, nên người Pháp thêm "chine" vào thành "Cochinchine" (Cochin nằm ở mé phía Trung Hoa - chine - chớ không phải Cochin nằm ở mé Ấn Độ).
Tóm lại, danh xưng KỲ (Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ) là danh xưng ĐĂ xuất hiện vào đời vua Minh Mạng lận! Lúc này Pháp chưa tḥ tay vào chiếm đoạt, "chia để trị" ǵ ráo.
Vậy, bắt tên gọi "KỲ" 圻 phải mang tiếng xấu là sao?
Cái đó là do người đời nay đọc sử vội vội vàng vàng, hoặc mắc bệnh mất trí nhớ rồi ... râu ông đem cắm lộn cằm bà, đổ oan cho tên gọi Bắc Kỳ / Trung Kỳ / Nam Kỳ do chính tiền nhân người VN chúng ta xướng danh!
&3&
Bây giờ đang thấy có "hiện tượng" là nếu nói Nam Kỳ th́ nhiều người trong Nam thấy b́nh thường hết sức; nhưng lại có không ít người ngoài Bắc khi nghe gọi ḿnh là "Bắc Kỳ" th́ nổi giận cho là "phân biệt vùng miền", là di chứng của thời Pháp chia để trị!
"Hiện tượng" vừa nêu có nhiều lư do để giải thích, trong đó có lư do thuộc về ngôn ngữ mà bài này đề cập.
Là do lối "giáo dục tuyên truyền" bừa phứa, sái lịch sử mà vẫn cứ nói cho bằng được! Thành thử nhắc tới chữ "KỲ" th́ nhiều người, do bị "nhồi nặn" như rứa, đùng đùng cho đó là do thực dân Pháp bày ra.
Tiền nhân người VN chúng ta (đời nhà Nguyễn) phân địa giới hành chánh cả nước thành 3 Kỳ (vào năm 1834) - xin nhấn mạnh - là trong một đất nước HỢP NHỨT & ĐỘC LẬP chớ "chia để trị" ǵ ở đây?
Nhiều bạn trẻ bị nhồi nặn mà hiểu sai, lỗi này không thuộc về các bạn học sinh, sinh viên.
Mà nằm ở cách "soạn sách", nói luôn, là "GẮP LỬA BỎ TAY NGƯỜI", XÚC XIỂM TIỀN NHÂN!
-----------------------------------------------------------------------------
Lăng Hoàng đế Minh Mạng (Huế), vị vua đă định danh Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ vào năm 1834.

Last edited by luyenchuong3000; 07-21-2020 at 18:31.
luyenchuong3000_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	109354042_986853341748646_4041992115560821797_n.jpg
Views:	0
Size:	36.4 KB
ID:	1622848 Click image for larger version

Name:	107998651_986845961749384_7461539464362579338_n.jpg
Views:	0
Size:	121.0 KB
ID:	1622849
The Following 5 Users Say Thank You to luyenchuong3000 For This Useful Post:
anhhaila (07-21-2020), lavu (07-21-2020), phokhuya (07-21-2020), thanhmaster (07-21-2020), trungthu (07-23-2020)
Old 07-21-2020   #2
luyenchuong3000
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
luyenchuong3000's Avatar
 
Join Date: Mar 2008
Posts: 14,316
Thanks: 19,153
Thanked 40,453 Times in 11,538 Posts
Mentioned: 159 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1870 Post(s)
Rep Power: 70
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
vnch CON ĐẺ RA CHA, CHÁU ĐẺ RA ÔNG!

Cụ đồ Nguyễn Đ́nh Chiểu sống khôn thác thiêng, cụ thử ghé về dương gian đọc người ta bây giờ viết về cụ: "Nhà văn nổi tiếng tại Nam Bộ", ắt cụ phải giật ḿnh. "Bây viết Nam Bộ là cái giống ǵ? Thuở sanh tiền, ta chớ hề nghe nói tới chữ đó. Nó ... nằm ở đâu?".
&1&
Phải nói về danh xưng "ba miền" cho có đầu có đũa cái đă. Gọi ba miền Bắc, Trung, Nam là từ hồi nào? Th́ từ lúc có ... ba miền chớ chi!
Có nghĩa là hồi thời vua Lê Thánh Tôn nước Việt mới tới đèo Cả (giữa Phú Yên với Khánh Ḥa) nên không có "ba miền". Đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh, tuy Đàng Trong mở rộng đến Cà Mau nhưng hùng cứ một cơi, không ăn nhập với Đàng Ngoài, thành thử cũng không thành "ba miền".
Chỉ sau khi vua Gia Long thống nhứt sơn hà th́ lănh thổ chữ S mới xôm tụ, đề huề bắc / trung / nam.
1808, vua Gia Long định lại bờ cơi mà phân địa giới khu vực: ngoài khu vực kinh thành ở miền trung, chia làm hai miền bắc nam: khu vực phía bắc gọi là "Bắc Thành", khu vực phía Nam gọi là "Gia Định Thành" (không gọi Nam thành) bao trùm toàn miền nam gồm 5 trấn (Biên Ḥa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh, An Giang).
2/ Đến cột mốc "1832" mới thực đáng chú ư hơn.
* Chú ư thứ nhứt: Vua Minh Mạng phân ranh địa giới thành các TỈNH, và khái niệm "tỉnh" được xài cho đến hiện nay (không c̣n xài cách gọi "đạo", "dinh", "trấn"... của bao nhiêu đời xửa xưa ǵ ráo trọi)! Suốt 188 năm (tính cho đến năm 2020), địa giới mỗi tỉnh mỗi thời - dĩ nhiên - có thay đổi (nhập vào, tách ra, đổi tên gọi búa xua).
* Chú ư thứ nh́: Dưới thời vua Minh Mạng xuất hiện cách gọi ba miền là Bắc Kỳ, Trung Kỳ (hồi đó gọi tỉ mỉ hơn: Hữu Kỳ, Trực Kỳ nằm nơi kinh đô, và Tả Kỳ - gộp chung là "Trung Kỳ"), và Nam Kỳ (toàn miền nam gồm 6 tỉnh, nên bà con quen gọi "Nam Kỳ Lục tỉnh": Biên Ḥa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên).
3/ Sử sách rơ rành như vậy, nhưng chẳng hiểu từ đâu nảy ṇi lối viết bừa phứa. Tỉ như: "cách gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ xuất hiện dưới thời Pháp thuộc", "cách gọi này mang dấu ấn thuộc địa"... nhằm gây ngộ nhận & ác cảm xung quanh cách gọi "ba Kỳ".
Tây vào VN, họ định danh ba miền bằng tiếng Tây "Tonkin", "Annam", "Cochinchine", làm ǵ có miếng tiếng Việt nào ở trỏng, hả?
Trong khi đó, người Việt vẫn thủy chung mà giữ cách gọi chính thức của tiền nhân - bằng tiếng Việt rành rành là "Bắc Kỳ", "Trung Kỳ", "Nam Kỳ".
Viết sử sai bét như trên, của ông bà ḿnh đem gán cho tây, cầm bằng giết sử! Giết kiểu sau đây c̣n ghê hơn nữa: "vua Bảo Đại vào tháng 3/1945 đổi sang gọi Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ v́ gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ mang tính chất kỳ thị vùng miền" (?).
4/ Cách gọi Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ là do tiền nhân triều Nguyễn đặt ra, nói vua Bảo Đại "bỏ đi v́ nó mang tính kỳ thị vùng miền" có khác nào vua Bảo Đại chửi tông tổ? Cái này gọi là "gắp lửa bỏ tay người"!
Theo hồi kư của cụ Trần Trọng Kim, vua Bảo Đại vào tháng 3/1945 có đổi sang gọi "Bộ" thay v́ "Kỳ", nhưng không phải với lư do của giới "giết sử" bịa ra.
Nhựt Bổn sau khi đảo chính Pháp, cầm trịch, và nghe nói thống sứ Nhựt Nashimura là người đổi CÁCH GỌI TRUYỀN THỐNG "Kỳ (Bắc, Trung, Nam)" của người Việt sang cách gọi "Bộ (Bắc, Trung, Nam)" hết ráo.
Người Nhựt, về sau, chấp thuận cho vua Bảo Đại lập chánh phủ riêng của người VN (tức chánh phủ Trần Trọng Kim). Chánh phủ của vua Bảo Đại vuốt mặt cũng phải nể mũi, không đổi "Bộ" trở lại thành "Kỳ", trong khi đó dồn công sức thực hiện một số cải cách, chẳng hạn, trong giáo dục...
Chánh phủ này chỉ hiện hữu mấy tháng ngắn ngủi, rồi dứt.
Nhà nước VNDCCH, sau đó, sử dụng cách gọi "Bộ", nghe riết tới nay.
5/ Nghe riết đến mức nhiều người tưởng "Nam Bộ" là cách gọi ... có từ thuở mở cơi miền Nam. Tưởng vậy là tưởng bở.
Hai chữ "Nam Bộ" - nhắc cho nhớ - chỉ xuất hiện được vài chục năm thôi giữa ḍng lịch sử hơn ba trăm năm của đất phương Nam (với nhiều tên gọi về vùng đất này, trong đó danh xưng "Nam Kỳ lục tỉnh" có tuổi đời cách đây 188 năm, gần hai thế kỷ).
Bởi vậy, không thể viết: "Nguyễn Đ́nh Chiểu là nhà văn nổi tiếng tại Nam Bộ". Viết cho đàng hoàng, cho tử tế, nên là: "NĐC là nhà văn nổi tiếng tại Nam Kỳ lục tỉnh" (rồi chú thích "nay gọi là Nam Bộ"). Bởi cụ đồ Chiểu tạ thế năm 1888, bấy giờ là Nam Kỳ, măi 57 năm sau mới nảy ṇi ra cái tên gọi "Nam Bộ"!
Lấy cách gọi của giới cầm quyền đời sau trùm lên đầu cách gọi của tiền nhân, có khác nào "con đẻ ra cha, cháu đẻ ra ông"!

Last edited by luyenchuong3000; 07-21-2020 at 18:31.
luyenchuong3000_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	109536043_985936635173650_178656236718693219_n.jpg
Views:	0
Size:	67.6 KB
ID:	1622850 Click image for larger version

Name:	29432467_120372658802985_7432375716714381312_n.jpg
Views:	0
Size:	73.8 KB
ID:	1622851
The Following 6 Users Say Thank You to luyenchuong3000 For This Useful Post:
Old 07-21-2020   #3
luyenchuong3000
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
luyenchuong3000's Avatar
 
Join Date: Mar 2008
Posts: 14,316
Thanks: 19,153
Thanked 40,453 Times in 11,538 Posts
Mentioned: 159 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1870 Post(s)
Rep Power: 70
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
vnch HÀ NỘI: THỦ ĐÔ CẢ NƯỚC VN H̀NH CHỮ S, THỰC RA, MỚI ĐƯỢC 45 NĂM

THĂNG LONG: KINH ĐÔ CẢ NƯỚC ĐẠI VIỆT, THỰC RA, CHƯA ĐẦY 600 NĂM
Đây không phải rảnh hơi đi so đo ít nhiều năm. Mà lịch sử nếu nh́n cho kỹ, kỹ được chút nào tốt chút đó, lại giúp rút ra nhận định hữu ích cho sự đầu tư "trúng khía" khi nh́n về tương lai chung của quê hương chúng ta...
&1&
Quí bạn chú ư: (a) đây đề cập thủ đô của CẢ NƯỚC - tức thủ đô của một nước Việt toàn vẹn (không đề cập những lúc là thủ đô của một phần nước Việt); và (b) phải thủ đắc được chủ quyền thực tế ("de facto")!
HÀ NỘI:
Vào năm 1832 đời vua Minh Mạng, nơi từng là kinh kỳ ở ngoài Bắc được đổi tên mới, gọi là "Hà Nội" 河內. Quí bạn chú ư, với danh xưng mới "Hà Nội", ngay từ đầu Hà Nội đă KHÔNG c̣n là kinh đô mà chỉ là trung tâm của phía Bắc thôi.
Kinh đô của cả nước Việt là Huế.
(Huế là kinh đô ĐẦU TIÊN của một nước Việt trải dài từ Móng Cái cho đến Cà Mau theo đường cong chữ S; và là kinh đô cả nước trong 82 năm, 1802-1884.
Sau năm 1884 th́ không c̣n thủ đắc chủ quyền lănh thổ toàn vẹn v́ Pháp đă xâm chiếm...)
* Trong giai đoạn ngắn, từ tháng 9/1945 đến cuối tháng 12/1946, thực thể chánh trị VNDCCH (VN dân chủ cộng ḥa) tuy có mặt tại Hà Nội NHƯNG thực tế là không thủ đắc được chủ quyền toàn vẹn!
Là bởi v́, theo Hiệp ước Postdam, khối Đồng Minh (Mỹ, Anh, Soviet, Pháp, Trung Hoa...) được quyền cai quản ủy nhiệm đối với những quốc gia là thuộc địa của quân phiệt Nhựt Bổn, và phân công cai quản ủy nhiệm trong một thời gian để dàn xếp với giới chính khách bản địa trong tiến tŕnh đi tới trao trả độc lập...
Nói cách khác, Đồng Minh được phép thủ đắc CHỦ QUYỀN (tạm thời) trên lănh thổ quốc gia mà họ vào tiếp quản.
(vào cuối năm 1946, thực thể VNDCCH phải rời khỏi Hà Nội, rút vào căn cứ địa để thực hiện giải pháp vơ trang quân sự)
* Từ năm 1954 đến 1975, Hà Nội là thủ đô trên thực tế của phân nửa nước VN thôi (là thủ đô của miền Bắc trong thể chế VNDCCH; c̣n ở miền Nam theo thể chế VN Cộng ḥa).
* Chỉ từ sau năm 1975 cho tới nay (2020), Hà Nội mới trở thành thủ đô trên thực tế (de facto) của cả nước VN.
(Như vậy, Huế trở thành kinh đô cả nước VN được 82 năm; c̣n Hà Nội trở thành thủ đô chung của nước VN đang ở "cột mốc" 45 năm)
&2&
THĂNG LONG / ĐÔNG KINH:
2a) Vào năm 1010, vua Lư Thái Tổ định đô & đặt tên cho chốn kinh đô là "Thăng Long" 昇龍. Đến năm 1400, khi nhà Hồ chấp chánh, kinh đô dời vào Thanh Hóa (sau đó, từ 1407 nước ta rơi vào ách đô hộ của giặc Minh phương Bắc).
Tính ra, từ 1010 đến 1400, Thăng Long là kinh đô nước Đại Việt được 390 năm.
2b) Lê Thái Tổ giành được chủ quyền đất nước sau khi đánh đuổi giặc Minh, và lập ra nhà Hậu Lê - từ năm 1428 (kinh đô Thăng Long được đổi tên là "Đông Kinh" 東京).
Và rồi xảy ra phân tranh Đàng Trong - Đàng Ngoài, khi Chúa Tiên Nguyễn Hoàng với mưu định tách khỏi sự khống chế của triều đ́nh nhà Lê đóng ở Thăng Long (Đông Kinh). Thực sự hùng cứ một phương, là vào năm 1627 dưới đời Chúa Nguyễn Phước Nguyên (con của Chúa Tiên) khi nổ ra chiến tranh giữa hai Đàng, dứt dạt đường ai nấy đi.
Đàng Trong của Chúa Nguyễn đặt kinh đô tại Phú Xuân, định cơi ḿnh ên.
Thành thử Thăng Long (Đông Kinh) từ năm 1627 trở đi chỉ c̣n là kinh đô Đàng Ngoài của vua Lê (chúa Trịnh).
Tính ra, từ năm 1428 (bắt đầu nhà Hậu Lê) cho đến năm 1627, Thăng Long (Đông Kinh) là kinh đô trên thực tế (de facto) của cả nước Việt được 199 năm.
Cả thảy, 2a+2b = 589 năm là thời gian mà Thăng Long thủ đắc vai tṛ kinh đô của toàn nước Đại Việt.
Cũng cần ghi chú: Đại Việt chỉ gồm miền Bắc và một phần miền Trung (nhỏ hơn nước Việt Nam sau này, gồm miền Bắc, toàn bộ miền Trung, và miền Nam).
&3&
Tôi nhớ hồi năm 2010, lúc đó chào mừng "Thăng Long (Hà Nội) 1000 năm kinh đô/thủ đô" (capital). Ghi vậy là ghi cho có "số đẹp" thôi, ghi đúng phải là "Cách đây 1000 năm Thăng Long được chọn làm kinh đô".
Thêm hai chữ "cách đây", chớ tổng toàn bộ thời gian nơi đây trở thành capital trong THỰC TẾ (de facto) CỦA CẢ NƯỚC th́, thực ra, không tới ngàn năm.
Như diễn giải ở phần trên, Thăng Long được 589 năm + Hà Nội đang là 45 năm.
* Có một dữ kiện lịch sử sau, để phải chú ư: Thăng Long đă đánh mất vai tṛ kinh đô thực tế CỦA CẢ NƯỚC từ năm 1627 cho đến lúc trở lại vai tṛ này (với tên gọi Hà Nội) vào năm 1975, khoảng cách lên đến 348 năm là rất dài, dài thăm thẳm!
Ta nói, kinh đô (thủ đô) theo lẽ thường là nơi thu hút tinh hoa cả nước, đủ các lănh vực đổ về. Nhưng, Thăng Long (Hà Nội) suốt gần ba thế kỷ rưỡi không c̣n thủ đắc vai tṛ kinh đô (thủ đô) của cả nước; thành thử ưu thế thu hút tinh hoa đă bị phai lợt, bị mài ṃn, bị đánh mất nhiều, rất nhiều.
Phải chăng do thời gian "ngủ đông" quá dài những ba thế kỷ rưỡi, mà Hà Nội trong 45 năm qua dù trở lại làm thủ đô, vẫn không tạo lập nổi sự thu hút tinh hoa (khi so với tpHCM)?
Hà Nội, dĩ nhiên, là trung tâm quyền lực chánh trị nhưng vai tṛ trung tâm về kinh tế, công nghệ giải trí, văn hóa... vẫn đang phải xếp sau tpHCM (tên gọi trước 1975 là "Sài G̣n") ./.
luyenchuong3000_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	108215267_987089328391714_7233935788290221199_n.jpg
Views:	0
Size:	74.9 KB
ID:	1622942
The Following 6 Users Say Thank You to luyenchuong3000 For This Useful Post:
Old 07-21-2020   #4
luyenchuong3000
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
luyenchuong3000's Avatar
 
Join Date: Mar 2008
Posts: 14,316
Thanks: 19,153
Thanked 40,453 Times in 11,538 Posts
Mentioned: 159 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1870 Post(s)
Rep Power: 70
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
Supseries Resize "GHI ƠN" MỚI ĐÚNG ĐẠO LƯ CỦA NGƯỜI VIỆT

"GHI ƠN" MỚI ĐÚNG ĐẠO LƯ CỦA NGƯỜI VIỆT
Giữa "ghi công" hoặc "ghi ơn", có giống nhau không? Không. ƠN th́ sâu nặng hơn nhiều, trọng đạo nghĩa hơn nhiều!
Chúng ta nói: "anh đă làm ơn cho tôi việc này, tôi không bao giờ quên", thử đem so với câu: "anh đă làm công cho tôi việc này, tôi không bao giờ quên". Đó, giữa "ơn" với "công" khác nhau xa lắc!
"Ơn" và "công" khác nhau, thành thử phải nói "cảm ơn" chớ không ai đi nói... "cảm công". Chỉ nói và phải nói "cảm ơn", mới đúng là cách nói của người Việt!
Bởi vậy, đối với những người đă hi sinh v́ quê hương, ta nói "GHI ƠN" th́ mới đúng cốt cách của người Việt biết trọng đạo nghĩa! (c̣n gọi "ghi công", nhiễm kiểu nói từ xứ nào vậy?).
Đẹp hơn nữa, gọi là TRI ÂN.

KHI TÔI KHÓC
Thánh nhạc Bahnar. Mỗi lần nghe nhạc khúc này, giai điệu tuyệt diệu lại đưa tôi trở về miền cao nguyên.
Tâm hồn của đá. Tâm hồn của núi.
Trái tim tôi luôn ở miền cao nguyên. My heart in Highlands. Các bạn Bahnar, Rhade, J'rai ơi.
Ngài đến bên tôi...Mà vơi đi bao nỗi nặng trĩu giữa trần thếNguyễn- Chương Mt

KHI TÔI KHÓC
Thánh nhạc Bahnar. Mỗi lần nghe nhạc khúc này, giai điệu tuyệt diệu lại đưa tôi trở về miền cao nguyên. Tâm hồn của đá. Trái tim tôi luôn ở miền cao nguyên. My heart in Highlands. Các bạn Bahnar, Rhade, J'rai ơi.
Ngài đến bên tôi...Mà vơi đi bao nỗi nặng trĩu giữa trần thế.
(Y-dương Bya
biết tiếng Bahnar không, hoặc nhờ bạn Bahnar nào, giúp giải nghĩa, cảm ơn)
luyenchuong3000_is_offline   Reply With Quote
The Following 5 Users Say Thank You to luyenchuong3000 For This Useful Post:
anhhaila (07-21-2020), lavu (07-21-2020), phokhuya (07-21-2020), thanhmaster (07-21-2020), trungthu (07-23-2020)
Old 07-21-2020   #5
luyenchuong3000
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
luyenchuong3000's Avatar
 
Join Date: Mar 2008
Posts: 14,316
Thanks: 19,153
Thanked 40,453 Times in 11,538 Posts
Mentioned: 159 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1870 Post(s)
Rep Power: 70
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
vnch VĂN TỰ BIỂU ÂM LATIN Ở CHÂU Á: CHỮ QUỐC NGỮ ĐI TIÊN PHONG

Những ai đầu óc lành mạnh ắt sẽ cười té ghế khi nghe một số kẻ nói như ri: "VN cần phải trở lại, giữ lại văn tự xưa kia, đoạn tuyệt với chữ Latin của phương Tây". Sao nói cười té ghế?
Bởi v́ cái gọi là "văn tự truyền thống" là chữ của đại Hán chớ có phải chữ của ông bà ḿnh tạo ra đâu, mà nói là "văn tự truyền thống"? (*). Ông bà ḿnh ngày xưa chưa có chữ Quốc ngữ th́ đành mượn chữ Hán mà ghi thôi, chớ không lẽ truyền khẩu, ra chiếu chỉ, "viết" sách bằng miệng?
Nữa, những kẻ đánh rơi năo hăy chịu khó nh́n quanh đây để biết sự tiến hóa văn tự (chữ viết) ra sao. Không nói đâu xa, ngay khu vực Đông Nam Á: trong 11 quốc gia th́ đă có tới 7 quốc gia đang dùng văn tự biểu âm Latin!
* ĐÔNG NAM Á:
1/ VIỆT NAM: văn tự biểu âm Latin được bản địa hóa, gọi là "chữ Quốc ngữ".
Bạn viết ḍng chữ sau: "Tôi là người Việt". Đúng là bảng chữ cái Latin abc đó đa; nhưng có người Bồ, người Anh, người Pháp nào tuy cũng dùng văn tự Latin mà nh́n vô ḍng chữ đó đọc được không? Không. Muốn đọc / hiểu, họ phải học. V́ đây đă hẳn ḥi là chữ viết của TIẾNG VIỆT!
2/ MĂ LAI (MALAYSIA)
Ngôn ngữ chính thức là tiếng Malay, và được viết bằng bộ chữ cái Latin (họ gọi là chữ "Rumi")!
Quí bạn chú ư: tiếng Malay trước kia được viết bằng văn tự biểu âm Ả Rập (chữ "Jawi"), nay vẫn c̣n tồn tại; nhưng văn tự chính thức ở cấp quốc gia liên bang th́ không dùng "văn tự truyền thống" nữa mà dùng văn tự Latin (có tính khoa học ngữ âm cao hơn).
"Tôi là người Mă Lai", viết bằng chữ Mă Lai là: "Saya orang Malaysia".
3/ NAM DƯƠNG (INDONESIA)
Ngôn ngữ chính thức được gọi là "Bahasa Indonesia", và được viết bằng văn tự Latin. Giữa tiếng Mă và tiếng Indonesia khá là tương đồng.
Tỉ dụ, "Tôi là người Nam Dương", viết bằng tiếng Bahasa là: "Saya orang Indonesia".
4/ BRUNEI:
Ngôn ngữ là tiếng Malay. Ngoài chữ cái Latin ("Rumi") là văn tự chính thức, ở Brunei c̣n dùng văn tự chính thức thứ hai là chữ cái Ả Rập ("Jawi").
5/ TÂN GIA BA (SINGAPORE)
Tiếng Anh được làm ngôn ngữ chính thức, tiếng Anh rơ rành thuộc văn tự Latin rồi. Bên cạnh đó, cũng được chọn làm ngôn ngữ chính thức, là tiếng Malaya, viết bằng văn tự Latin ("Rumi").
[ngoài ra c̣n hai thứ văn tự nữa ở Tân Gia Ba cũng được xếp vào văn tự chính thức: văn tự biểu ư Hoa ngữ, văn tự biểu âm Tamil]
6/ PHI LUẬT TÂN (PHILIPPINES)
Hai hệ thống văn tự được dùng chính thức là tiếng Anh và tiếng Fillipino (Tagalog).
Cả hai đều dùng bộ chữ cái Latin abc.
Tỉ dụ, "Tôi là người Phi Luật Tân", viết bằng tiếng Tagalog là: "Isa akong Fillipino".
7/ ĐÔNG TIMOR:
Dùng hai hệ thống văn tự chính thức là tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Tetum.
Cả hai cũng nằm trong hệ thống chữ viết biểu âm Latin.
Lúc Nam Dương (Indonesia) c̣n cai trị Đông Timor th́ họ cấm dùng tiếng Bồ lẫn tiếng Tetum, phải dùng tiếng Indonesia. Tuy nhiên, Giáo hội Công giáo tại đây đă nhứt quyết ǵn giữ tiếng Tetum trong các thánh lễ, trở thành tiêu điểm của bản sắc văn hóa dân tộc.
Năm 2002, khi Đông Timor độc lập, tiếng Tetum được tuyên bố là ngôn ngữ chính thức (cùng với tiếng Bồ Đào Nha).
* Tóm lại, hiện nay khu vực ASEAN đa số đều dùng bảng chữ cái abc Latin (7/11 nước; chỉ c̣n 4 nước là Thái, Lào, Cambodia, Myanmar không chung hệ chữ viết Latin mà thôi).
NH̀N SANG NƠI KHÁC CŨNG THUỘC CHÂU Á:
THỔ NHĨ KỲ: năm 1928 họ từ bỏ hệ thống chữ viết Ả Rập xa xưa, chuyển sang chữ viết Latin đến nay cũng đă gần được một thế kỷ;
Rồi các nước ở vùng Trung Á - KAZAKHSTAN, UZBEKISTAN, TURKMENISTAN, AZERBAJAN cũng lần lượt giă từ bộ chữ cái biểu âm Cyrillic (dùng trong thời Nga c̣n thống trị trong hệ thống Soviet), để chuyển sang dùng bộ chữ cái abc Latin.
* Trên hết thảy, hệ thống chữ viết abc Latin đang chiếm ưu thế nổi trội nhứt trên toàn cầu - xem bản đồ: màu xanh lá cây đậm là những vùng / quốc gia dùng văn tự Latin làm văn tự chính thức duy nhứt;
c̣n màu xanh lá cây lợt th́ bên cạnh văn tự Latin c̣n sử dụng thêm một hệ văn tự khác (như Kazakhstan c̣n dùng văn tự Cyrillic, nhưng họ đang cố gắng để đi tới dùng duy nhứt văn tự Latin thôi; như Ấn Độ bên cạnh văn tự chính thức là tiếng Anh thuộc văn tự Latin, c̣n văn tự chính thức thứ hai ở cấp quốc gia liên bang là chữ viết cũng biểu âm gọi là "Devanagari").
Ta nói, hệ thống chữ viết abc Latin - như vậy - có mặt đều trời luôn, khắp địa cầu này!
Trong đó, chữ Quốc ngữ mà người VN chúng ta sử dụng được xếp hạng tiên phong ở châu Á.
-------------------------------------------------------------------------
(*) Có luận điểm cho rằng chữ Hán là của người Việt xa lắc xa lơ. Đây, thực ra, có sự huyễn tưởng không nhỏ chút nào. Xin giải ảo trong một bài khác.
luyenchuong3000_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	107667458_981709452263035_1568490693921608049_n.jpg
Views:	0
Size:	56.3 KB
ID:	1622946 Click image for larger version

Name:	29386662_120362505470667_6881282003333808128_n.jpg
Views:	0
Size:	58.4 KB
ID:	1622947
The Following 5 Users Say Thank You to luyenchuong3000 For This Useful Post:
anhhaila (07-21-2020), lavu (07-21-2020), phokhuya (07-21-2020), thanhmaster (07-21-2020), trungthu (07-23-2020)
Old 07-21-2020   #6
luyenchuong3000
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
luyenchuong3000's Avatar
 
Join Date: Mar 2008
Posts: 14,316
Thanks: 19,153
Thanked 40,453 Times in 11,538 Posts
Mentioned: 159 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1870 Post(s)
Rep Power: 70
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
vnch Sống th́ phải có ngọn có nguồn, đừng ăn cháo đá bát.

CÔN ĐẢO CÓ "MA"
Ra Côn Đảo, thể nào các bạn trẻ làm nghề hướng dẫn viên du lịch cũng thuyết minh cho du khách nghe về "địa ngục trần gian", mà toàn kể chuyện giam giữ các đảng viên cộng sản thôi, hoặc bét lắm đi theo cộng sản, như kể chuyện Sáu họ Vơ nhưng không ai biết rơ ḍng họ của Sáu hiện thời, không biết ất giáp ǵ ráo.
Chắc Côn Đảo... có nhiều "ma" lắm à! Ủa, nghĩa là sao?
Để nói cho nghe.
Hồi Pháp thành lập nhà tù Côn Đảo vào năm 1862, cho tới lúc có đợt tù nhân đầu tiên là đảng viên cộng sản vào khoảng những năm 1928-1930, tính ra cũng khoảng 65 năm lận. Không lẽ Pháp dư hơi, đi xây nhà tù rồi... đợi hơn nửa thế kỷ sau có đảng viên cộng sản đặng bắt giam?
Trong hơn nửa thế kỷ đó, nhà tù trống trơn, dùng để nhốt ..."ma", hử?
Có nghĩa là trong hơn nửa thế kỷ dài dằng dặc, thực ra là có NHIỀU, RẤT NHIỀU CHÍ SĨ ÁI QUỐC phi cộng sản đă hy sinh tại Côn Đảo!
Sao lờ tịt, không nhắc đến?
Nữa, ngay cả sau khi đảng cộng sản đă ra đời, những tù nhân ái quốc nhưng phi cộng sản vẫn tiếp tục bị Pháp tống giam hà rầm ngoài Côn Đảo.
*&*
Thành thử tôi hay hỏi nếu định đi tour Côn Đảo: ngoài chuyện ghé mộ Sáu th́ có biết những ngôi mộ của một số chí sĩ ái quốc v́ nước v́ dân nhưng phi cộng sản không? Không biết. Nghe vậy, tôi không đi.
Hoặc nghe trả lời có biết nhưng không nằm trong lịch tŕnh đi tour, tôi cũng hủy, không đi.
V́ quá phiến diện về lịch sử, đơn điệu.
Tôi gọi là những "tour hỗn".
Là hỗn hào, không biết các bậc tiền bối đă ngă xuống, không biết trước sau, không biết trên dưới.
*&*
Côn Đảo giờ đây có nhiều, rất nhiều oan hồn đang nằm trong bóng tối âm u của SỰ QUÊN LĂNG, trong màn đêm dày đặc của sự câm lặng bất công!

Last edited by luyenchuong3000; 07-21-2020 at 23:24.
luyenchuong3000_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	29388432_120369495469968_7926482219168694272_o.jpg
Views:	0
Size:	124.9 KB
ID:	1622948 Click image for larger version

Name:	29425538_120362725470645_3058423035838070784_n.jpg
Views:	0
Size:	40.2 KB
ID:	1622949
The Following 5 Users Say Thank You to luyenchuong3000 For This Useful Post:
anhhaila (07-21-2020), lavu (07-21-2020), phokhuya (07-21-2020), thanhmaster (07-21-2020), trungthu (07-23-2020)
Old 07-21-2020   #7
luyenchuong3000
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
luyenchuong3000's Avatar
 
Join Date: Mar 2008
Posts: 14,316
Thanks: 19,153
Thanked 40,453 Times in 11,538 Posts
Mentioned: 159 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1870 Post(s)
Rep Power: 70
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
Supseries Resize "Cụ Phan Châu Trinh

DẶN NHAU NẰM L̉NG: Dùng chữ nghĩa cho khớp với giai đoạn lịch sử
* Tỉ như ai đó viết như ri: "Cụ Phan Châu Trinh qua đời vào tháng 3/1926, linh cữu quàn nơi Bá Huê Lầu, thuộc thành phố HCM", có ổn không? KHÔNG. Hồi đó làm ǵ đă có tên "tpHCM" mà ghi, danh xưng này chỉ xuất hiện chính thức vào sau năm 1975 thôi.
Có thể lấy lư do v́ hiện nay đă đổi tên "tpHCM" nên áp danh xưng này vào hồi năm 1926 cho tiện lợi? HOÀN TOÀN KHÔNG. Viết như vậy là hết sức NGU NGƠ về lịch sử!
Phải viết, và chỉ có thể viết: "Cụ Phan Châu Trinh (...), thuộc Sài G̣n".
Rồi... chú thích thêm: nay gọi là "tpHCM" - ghi chú vậy để dành cho những ai chỉ biết có mỗi hiện tại, dốt đặc về lịch sử của một vùng đất.
* Cũng vậy, sách ghi "Nam Kỳ khởi nghĩa (hồi năm 1940)". Có thể nào lấy lư do hiện nay v́ đă gọi Nam Bộ nên..."Nam Kỳ" sửa thành "Nam Bộ" th́ đâu có sai? HOÀN TOÀN TRẬT LẤT! Không thể sửa thành "Nam Bộ khởi nghĩa", viết như vậy là NGU NGƠ về lịch sử.
V́ danh xưng "Nam Bộ" chỉ xuất hiện kể từ tháng 3/1945 trở đi mà thôi.
luyenchuong3000_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	36421886_206949193478664_1967892850397937664_o.jpg
Views:	0
Size:	250.1 KB
ID:	1623034
The Following 3 Users Say Thank You to luyenchuong3000 For This Useful Post:
phokhuya (07-21-2020), thanhmaster (07-21-2020), trungthu (07-23-2020)
Old 07-22-2020   #8
luyenchuong3000
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
luyenchuong3000's Avatar
 
Join Date: Mar 2008
Posts: 14,316
Thanks: 19,153
Thanked 40,453 Times in 11,538 Posts
Mentioned: 159 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1870 Post(s)
Rep Power: 70
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
vnch ĐÔI ĐIỀU SUY NIỆM... HĂY TẬP CÁCH ... BIẾT ƠN!!

ĐÔI ĐIỀU SUY NIỆM...
HĂY TẬP CÁCH ... BIẾT ƠN!!
Trong cuộc sống thực tại, chúng ta thường hay không để mắt đến những điều ḿnh đă có, cho rằng chúng là lẽ đương nhiên, không có ǵ quan trọng với ḿnh, mà lại đi phàn nàn số phận bất công, như thể là thế giới này thiếu nợ chúng ta rất nhiều thứ vậy.
Kỳ thực, biết ơn cũng là một loại thái độ tích cực của cuộc sống, đúng như một số người đă nói: *“Hăy cảm ơn người đă làm bạn tổn thương bởi v́ họ là người đă tôi luyện ư chí của bạn, hăy cảm ơn người đă lừa dối bạn bởi v́ họ đă làm phong phú thêm kinh nghiệm của bạn, hăy cảm ơn người đă coi thường bạn bởi v́ họ đă làm thức tỉnh ḷng tự tôn của bạn…”*.
Cần phải mang một tấm ḷng biết ơn, biết ơn số phận, biết ơn hết thảy những người đă giúp bạn trưởng thành, biết ơn hết thảy những ǵ ở xung quanh ḿnh.
Để có một tấm ḷng biết ơn, yêu cầu chúng ta cần phải để tâm quan sát, dụng tâm cảm ngộ, càng cần chúng ta phải biết yêu thương. Cỏ cây sinh trưởng phát triển mạnh mẽ là để báo đáp ân huệ của mặt trời mùa xuân, chim chóc liều ḿnh kiếm ăn là để báo đáp ân huệ được nuôi nấng, cây mạ phát triển khỏe mạnh là để báo đáp ân huệ của ḍng nước mát, con cái cố gắng học tập là để báo đáp công ơn sinh thành và dạy dỗ của cha mẹ...
Hăy học cách biết ơn đi! Khi bạn cảm ơn cuộc đời, cuộc đời sẽ ban thưởng cho bạn ánh nắng mặt trời rực rỡ. Bạn oán trách trời đất, khả năng cuối cùng chỉ có hai bàn tay trắng mà thôi! Không phải vậy sao? Mây cuốn mây bay, hoa nở hoa tàn đều đáng để chúng ta quư trọng, cảm ơn mặt trăng, càng cần phải cảm ơn mặt trời!
Biết Ơn những ǵ ta đă có hiện tại là cả một quá khứ chung quanh đă hy sinh cho ta được ngày hôm nay và tương lai...
(source from philosophy of life)
luyenchuong3000_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	115951713_2598081573764646_1200455949255486144_n.jpg
Views:	0
Size:	61.3 KB
ID:	1623444
Old 07-22-2020   #9
luyenchuong3000
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
luyenchuong3000's Avatar
 
Join Date: Mar 2008
Posts: 14,316
Thanks: 19,153
Thanked 40,453 Times in 11,538 Posts
Mentioned: 159 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1870 Post(s)
Rep Power: 70
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
vnch "VIỆT NAM" NGHĨA LÀ G̀?

"VIỆT NAM" NGHĨA LÀ G̀?
Câu sấm của trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm “ VIỆT NAM KHỞI TỔ XÂY NỀN “ sau đúng 300 năm đă ứng nghiệm vào năm 1802 Vua Gia Long đặt quốc hiệu nước ta là NAM VIỆT để sau hai năm 1804 đă đổi là VIỆT NAM
1/ Không ít người bây giờ vẫn tưởng "Việt Nam" nghĩa là "nước Nam của người Việt". Hoặc là, qua một số em sinh viên trẻ cho tôi biết ở trường giải thích: "Việt Nam" nghĩa là nước Việt nằm về phương Nam (so với Trung Quốc). Mắc giống ǵ mà danh xưng một quốc gia lại đi lấy một quốc gia khác làm "hệ qui chiếu"? Coi đi, quốc gia của người Hàn nằm về phía đông nước Trung Hoa, họ đâu giải thích nước họ là ... "Hàn Đông".
Ư nghĩa của hai chữ "Việt Nam" bấy lâu nay thường được diễn giải theo chủ quan của hậu thế, NHƯNG cho dù diễn giải vi diệu/hay ho/cao siêu tới đâu đi nữa th́ - xin nhấn mạnh - hăy nhớ rằng tên nước VIỆT NAM 越 南 là do nhà Nguyễn đặt ra. Thành thử phải t́m hiểu nhà Nguyễn gọi vậy với ư nghĩa ǵ (chớ đừng nhét cách diễn giải của đời sau vào miệng tiền nhân)!
... Hệt như có một làn gió mát mẻ, hết sức khỏe khoắn sau khi tôi may mắn biết được ư nghĩa đích xác của tên nước "VIỆT NAM" khi Gia Long định danh.
"Việt" trong quốc danh "Việt Nam" 越 南, té ra không phải làm một với "Việt" trong quốc danh "Đại Việt" 大 越 (mặc dù nh́n vô mặt chữ hệt nhau)!
Nói nào ngay, "Việt" đàng nào cũng có cái hay, nhưng lại không giống nhau.
2/ VIỆT NAM trở thành quốc danh chính thức, lần đầu tiên, là vào đời vua Gia Long, năm 1804.
2a) Ban đầu, năm 1802, vua Gia Long đặt tên nước là "Nam Việt" 南 越.
Nhưng nhà Thanh e ngại hai chữ 南 越 (Nam Việt) lặp lại quốc danh "Nam Việt" mà Triệu Vơ Đế (Triệu Đà, năm 204 trước công nguyên - năm 137 trước công nguyên) đặt ra, bấy giờ lănh thổ không chỉ có Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (đồng bằng sông Hồng cho tới Hà Tĩnh) mà bao trùm luôn Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây).
2b) Để tránh sự e ngại từ nhà Thanh, vua Gia Long đă đổi "Nam Việt" thành VIỆT NAM (越 南).
Dầu "Nam Việt" hoặc "Việt Nam" cũng đều chung ư nghĩa. Trịnh Hoài Đức (1765-1825), sử gia nổi tiếng sống dưới thời vua Gia Long, có mặt trong đoàn xứ qua Trung Quốc đàm phán với nhà Thanh, cho biết:
"Việt Nam là quốc danh thích hợp để chỉ một lănh thổ hợp nhứt giữa Đàng Trong với Đàng Ngoài”, "chúng ta (nhà Nguyễn) sở hữu đất của Việt Thường trước, và vùng An Nam được thêm vào sau đó".
Hai chữ VIỆT NAM là sự kết hợp giữa VIỆT (THƯỜNG) với (AN) NAM.
3/ Việt Thường là xứ mô?
Theo những sách cổ xưa như "Hậu Hán thư", "Thượng thư đại truyện", "Tư trị thông giám cương mục" th́ nước Việt Thường 越 裳 nằm về phía nam Giao Chỉ.
Trong cuốn "Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập" th́ xác định tên gọi VIỆT THƯỜNG "là tên cổ của xứ Champa"!
Một nguồn khác cho biết cách gọi "Việt Thường" là để chỉ lănh thổ về phía nam của Giao Chỉ, bao gồm cả Phù Nam (sau này trở thành vùng Thủy Chân Lạp).
Khi Trịnh Hoài Đức viết "chúng ta sở hữu đất của Việt Thường 越 裳 trước", là nhằm ghi nhận các bậc tiền nhân của vua Gia Long (là các Chúa Nguyễn) đă hùng cứ tại Đàng Trong (Champa, Thủy Chân Lạp). Sau đó Nguyễn Phước Ánh (vua Gia Long) đă "thêm vào vùng An Nam 安 南 " là xứ lấy Thăng Long làm kinh đô (tức Đàng Ngoài).
4/ HĂNH DIỆN HAI CHỮ "VIỆT NAM"!
Trước đó, theo ḍng lịch sử qua các đời Lư, Trần, Lê... cho dù tự xưng quốc danh "Đại Việt" đi nữa, tuy nhiên nước Trung Hoa không tôn trọng mà họ cứ gọi xứ sở (lấy Thăng Long làm kinh đô) là "An Nam" miết (và gọi các đời vua Lư, Trần, Hậu Lê đều là "An Nam quốc vương")!
Đến đời Hoàng đế Gia Long, ban đầu triều đ́nh bên Trung Hoa ép vẫn phải dùng quốc danh "An Nam". Nhưng sứ giả của vua Gia Long không đồng ư.
Với quốc danh VIỆT NAM, quí bạn chú ư: Đây là LẦN ĐẦU TIÊN trong suốt lịch sử cả ngàn năm, Tàu đă phải từ bỏ cách gọi truyền kiếp "An Nam" đối với nước Việt chúng ta!
Đời nay chúng ta mỗi khi hănh diện về hai chữ "Việt Nam" th́ nên nhớ tới cái danh xưng đó do Hoàng đế Gia Long đặt ra. Đừng uống nước mà quên luôn cái nguồn quốc danh đó từ đâu, đừng bị nhiễm thói ăn cháo đá bát.
5/ THAY LỜI KẾT
"Việt" (trong "Đại Việt" 大 越 ) dùng để chỉ Việt tộc.
C̣n "Việt" (trong "Việt Nam" 越 南 ) tuy cùng mặt chữ nhưng được lấy từ trong danh từ kép "Việt Thường" 越 裳 (định danh về địa lư).
Ghép chữ "Việt" (trong "Việt Thường") với "Nam" (trong "An Nam") thành quốc danh VIỆT NAM, là sự ghi nhận đàng hoàng về nguồn gốc của từng vùng lănh thổ!
Qua đó, vua Gia Long cho thấy niềm hănh diện trước việc hợp nhứt Đàng Trong với Đàng Ngoài. Lănh thổ nước ta LẦN ĐẦU TIÊN trải rộng từ bắc chí nam, theo đường cái quan đi từ Quảng Ninh cho tới mũi Cà Mau thành đường cong chữ S.
Tắt một lời, VIỆT NAM là quốc danh mang ư nghĩa về SỰ HỢP NHỨT LĂNH THỔ.
Ư nghĩa nêu trên của hai chữ VIỆT NAM, thiệt hay hết sức, độc đáo hết sức trong tinh thần đoàn kết các cộng đồng dân tộc ./.
* Mời đọc bài: Thiếu lương thiện trong nh́n nhận tên Việt Nam
THIẾU LƯƠNG THIỆN trong nh́n nhận tên nước "VIỆT NAM"!
&1&
Nhằm hất đổ vai tṛ của vua Gia Long trong việc đặt quốc danh (tên quốc gia), có mấy người mệnh danh là nhà nghiên cứu sử nhấn mạnh: "Hai chữ VIỆT NAM là do nhà Thanh bên Trung quốc ban cho". Lại thêm một nhà sư b́nh luận: "Việt Nam là tên do người Trung Quốc đặt, không phải Gia Long".
Mỉa mai thay, trong khi t́m cách phủ nhận vai tṛ của vua Gia Long, họ đang tự bày ra căn bịnh "Hán hóa" đă ăn sâu vô năo. Hai chữ VIỆT NAM mà chúng ta yêu quư, theo sự chỉ bảo của những chuyên gia "Hán hóa" là hăy nhớ do Trung Quốc "ban cho", vậy nên... phải nhớ ơn Trung Quốc nhứt hạng chớ c̣n ǵ nữa!
Tôi không khỏi nhớ đến video ghi lại buổi thuyết pháp của một nhà sư nói rằng: "Lư Thường Kiệt đem quân đánh Tống là hỗn, v́ Việt Nam là em, Trung quốc là anh".
Tôi đâm lo. Đâu phải người dân ḿnh ai cũng hiểu sử, nghe mấy vị xuống tóc này kia thuyết pháp, rồi những kẻ khốn nạn manh danh giới nghiên cứu sử kiểu "Hán hóa", đất nước này sẽ trôi về đâu?
Thành thử tôi viết bài này, những mong được chia sẻ cho nhiều người cùng đọc để cùng nhau giải trừ ngộ nhận.
&2&
Hiểu về cái sự "ban cho" quốc danh cách nào cho đúng?
Quí bạn có biết, vào đời vua Lư Nhân Tông (đời vua thứ tư của nhà Lư), nhà Tống bên Tàu vẫn c̣n gọi nước ta là ... Giao Chỉ quận (nghe mắc dịch không!), và ban cho vua Lư Nhân Tông chức "Giao Chỉ quận vương" - bất chấp trước đó, vào năm 1054 vua Lư Thánh Tông (đời vua thứ ba) đă đặt quốc danh nước ta là "Đại Việt".
Măi đến năm 1164 nhà Tống bên Tàu ban cho cái lệnh đổi tên "Giao Chỉ" thành "An Nam" 安 南 , nâng cấp từ "quận" thành "quốc", và ban cho vua Lư Anh Tông (đời vua thứ sáu của nhà Lư) làm "An Nam quốc vương". Từ đó trở đi, Tàu gọi nước ta là "An Nam" bất chấp nước ta tự gọi là "Đại Việt"!
Cái tên gọi "An Nam" đầy sự trịch thượng của Tàu đă đeo đẳng cho hết đời nhà Lư, qua nhà Trần, rồi nhà Hậu Lê của nước ta. Và nước Tàu chỉ chấm dứt cái tên gọi "An Nam" ba trợn sau khi Hoàng đế Gia Long sai sứ sang đàm phán, đấu trí mấy phen!
&3&
Bên cạnh cái sự "ban cho" tên nước, phong vương, nước Tàu c̣n đ̣i nước ta triều cống sản vật.
Triều cống, ban cho tên nước, xin phong vương... có làm nước ta mất độc lập hay không? Hoàn toàn KHÔNG!
Bởi v́ tính chất độc lập thể hiện ít nhứt ở hai điều hệ trọng:
a/ Trung Quốc không có quyền nhúng tay vô sắp xếp nhân sự đầu năo triều đ́nh nước ta (chú ư: nếu Trung Quốc nhúng tay sắp xếp nhân sự, "độc lập" chỉ c̣n là cái vỏ h́nh thức không hơn không kém!);
Nước ta thời xưa chỉ có mỗi việc "xin phong vương" làm màu, cho đúng lễ tắc nước nhỏ với nước lớn, đúng phép ngoại giao ḥa hiếu mà thôi.
b/ Ḥa hiếu, đúng vậy, nhưng hễ Trung Quốc giở ṃi cất quân xâm lược là đập lại ngay lập tức, đập không c̣n manh giáp.
Trong khoảng gần ngàn năm tự chủ (kể từ đời Ngô Quyền trở đi), mỗi lần Trung Quốc kéo binh qua nước ta, hùng hổ ban đầu nhưng sau đó bỏ chạy mất dép (tiền nhân chúng ta đánh thắng hết Tống tới Nguyên rồi Thanh, chỉ có quăng thời gian nước ta bị MINH tặc cai trị th́ mất tiêu nền độc lập trong ṿng 21 năm 1407-1428).
&4&
Tôi lấy làm lạ, lẽ nào một số người mệnh danh nhà nghiên cứu sử mà họ không biết ǵ ráo về cái vụ nước Trung Hoa "ban cho" chỉ là lễ thức ngoại giao hay sao?
Ngay dưới thời Lư, Trần hiển hách chiến công đánh giặc phương Bắc tới cỡ đó, nhưng nước ta cũng vẫn xài cái mửng sai sứ qua Trung Quốc để xin "ban cho".
Chuyện nhà Thanh "ban cho", cũng vậy, chỉ là lễ thức ngoại giao cho có.
Vậy, mắc giống ǵ lấy cái thủ tục "ban cho" của nhà Thanh để khỏa lấp vai tṛ của Hoàng đế Gia Long trong việc đặt ra quốc danh VIỆT NAM?
Những kẻ nhấn mạnh vào thủ tục nhà Thanh "ban quốc danh", đă và đang cho thấy họ thiếu lương thiện trong tri thức không hơn không kém!
Không lẽ họ muốn đội lên đầu vĩnh viễn hai chữ "An Nam" mà người Trung Quốc suốt nhiều thế kỷ trước đây gọi nước ta?
&5&
Xin mọi người chú ư: ngay trong thủ tục "ban quốc danh" của nhà Thanh, lại minh chứng THẮNG LỢI cho nhà Nguyễn!
Thứ nhứt, nhà Nguyễn không chấp nhận cái tṛ ầu ơ ví dầu của Tàu kéo dài hàng bao nhiêu thế kỷ gọi nước ta là 安 南 "An Nam". Hoàng đế Gia Long sai sứ qua Trung Quốc đàm phán bỏ tên gọi "An Nam" đó đi.
Thứ hai, sứ nhà Nguyễn đưa quốc danh mới của nước ta là "Nam Việt" 南 越. Nhưng nhà Thanh e ngại quốc danh này nhắc nhớ tới nước Nam Việt vào thời Triệu Đà mà lănh thổ nước Việt bao trùm luôn Quảng Tây, Quảng Đông.
Nhà Thanh muốn ép dùng lại tên gọi "An Nam". Bấy giờ vua Gia Long đă đánh tiếng nếu dùng dằng th́ sẽ chấm dứt việc "xin phong vương" luôn. LẦN ĐẦU TIÊN trong suốt ngàn năm, nước Tàu buộc phải chấm dứt không c̣n gọi "An Nam" (mà chỉ yêu cầu đảo quốc danh "Nam Việt" thành "Việt Nam")!
Nhà Thanh sau đó được rửa mặt bằng thủ tục gọi là "ban cho quốc danh", theo đúng lễ thức ngoại giao bao đời trước kia giữa nước Tàu với nước ta.
Bất luận "Nam Việt" hay "Việt Nam" th́ đây cũng là thắng lợi ngoại giao của sứ giả nhà Nguyễn - bởi, nên nhớ, Trung Quốc muôn đời họ quen thói trịch thượng, chỉ ưng gọi nước ta bằng cái tên "An Nam" mà thôi!
"Nam Việt", hoặc VIỆT NAM 越 南, thảy đều nằm trong mục tiêu của Hoàng đế Gia Long đặt quốc danh mới cho nước ta. Trong "Quốc sử quán nhà Nguyễn" đă giải thích: VIỆT NAM là quốc danh thích hợp với ư nghĩa đây là sự hợp nhứt lănh thổ giữa Đàng Trong với Đàng Ngoài.
------------------------------------------------------------------------------
(*) Một số nguồn tài liệu cho rằng hai chữ "Việt Nam" đă từng xuất hiện trong thư tịch xưa kia... XIN CHÚ Ư: "VIỆT NAM" trở thành QUỐC DANH (tên nước) th́ chỉ bắt đầu vào đời Hoàng đế Gia Long mà thôi.
luyenchuong3000_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	109526066_155102642853617_1956499001153708939_n.jpg
Views:	0
Size:	120.4 KB
ID:	1623657 Click image for larger version

Name:	107910385_155102699520278_1499502887431128049_n.jpg
Views:	0
Size:	65.4 KB
ID:	1623658
The Following User Says Thank You to luyenchuong3000 For This Useful Post:
phokhuya (07-24-2020)
Old 07-22-2020   #10
luyenchuong3000
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
luyenchuong3000's Avatar
 
Join Date: Mar 2008
Posts: 14,316
Thanks: 19,153
Thanked 40,453 Times in 11,538 Posts
Mentioned: 159 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1870 Post(s)
Rep Power: 70
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
vnch SỰ HỢP NHỨT LĂNH THỔ.hai chữ VIỆT NAM,

1/ Không ít người bây giờ vẫn tưởng "Việt Nam" nghĩa là "nước Nam của người Việt". Hoặc là, qua một số em sinh viên trẻ cho tôi biết ở trường giải thích: "Việt Nam" nghĩa là nước Việt nằm về phương Nam (so với Tàu). Mắc giống ǵ mà danh xưng một quốc gia lại đi lấy một quốc gia khác làm "hệ qui chiếu"? Coi đi, quốc gia của người Hàn nằm về phía đông nước Tàu, họ đâu giải thích nước họ là ... "Hàn Đông".
Ư nghĩa của hai chữ "Việt Nam" bấy lâu nay thường được diễn giải theo chủ quan của hậu thế, NHƯNG cho dù diễn giải vi diệu/hay ho/cao siêu tới đâu đi nữa th́ - xin nhấn mạnh - hăy nhớ rằng tên nước VIỆT NAM 越 南 là do nhà Nguyễn đặt ra. Thành thử phải t́m hiểu nhà Nguyễn gọi vậy với ư nghĩa ǵ (chớ đừng nhét cách diễn giải của đời sau vào miệng tiền nhân)!
... Hệt như có một làn gió mát mẻ, hết sức khỏe khoắn sau khi tôi may mắn biết được ư nghĩa đích xác của tên nước "VIỆT NAM" khi Gia Long định danh.
"Việt" trong quốc danh "Việt Nam" 越 南, té ra không phải làm một với "Việt" trong quốc danh "Đại Việt" 大 越 (mặc dù nh́n vô mặt chữ hệt nhau)!
Nói nào ngay, "Việt" đàng nào cũng có cái hay, nhưng lại không giống nhau.
2/ VIỆT NAM trở thành quốc danh chính thức, lần đầu tiên, là vào đời vua Gia Long, năm 1804.
2a) Ban đầu, năm 1802, vua Gia Long đặt tên nước là "Nam Việt" 南 越.
Nhưng nhà Thanh e ngại hai chữ 南 越 (Nam Việt) lặp lại quốc danh "Nam Việt" mà Triệu Vơ Đế (Triệu Đà, năm 204 TCN - năm 137 TCN) đặt ra, bấy giờ lănh thổ không chỉ có Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (đồng bằng sông Hồng cho tới Hà Tĩnh) mà bao trùm luôn Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây).
2b) Để tránh sự e ngại từ nhà Thanh, vua Gia Long đă đổi "Nam Việt" thành VIỆT NAM (越 南).
Dầu "Nam Việt" hoặc "Việt Nam" cũng đều chung ư nghĩa. Trịnh Hoài Đức (1765-1825), sử gia nổi tiếng sống dưới thời vua Gia Long, có mặt trong đoàn sứ qua Tàu đàm phán với nhà Thanh, cho biết:
"Việt Nam là quốc danh thích hợp để chỉ một lănh thổ hợp nhứt giữa Đàng Trong với Đàng Ngoài”, "chúng ta (nhà Nguyễn) sở hữu đất của Việt Thường trước, và vùng An Nam được thêm vào sau đó".
Hai chữ VIỆT NAM là sự kết hợp giữa VIỆT (THƯỜNG) với (AN) NAM.
3/ Việt Thường là xứ mô?
Theo những sách cổ xưa như "Hậu Hán thư", "Thượng thư đại truyện", "Tư trị thông giám cương mục" th́ nước Việt Thường 越 裳 nằm về phía nam Giao Chỉ.
Trong cuốn "Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập" th́ xác định tên gọi VIỆT THƯỜNG "là tên cổ của xứ Champa"!
Một nguồn khác cho biết cách gọi "Việt Thường" là để chỉ lănh thổ về phía nam của Giao Chỉ, bao gồm cả Phù Nam (sau này trở thành vùng Thủy Chân Lạp).
Khi Trịnh Hoài Đức viết "chúng ta sở hữu đất của Việt Thường 越 裳 trước", là nhằm ghi nhận các bậc tiền nhân của vua Gia Long (là các Chúa Nguyễn) đă hùng cứ tại Đàng Trong (Champa, Thủy Chân Lạp). Sau đó Nguyễn Phước Ánh (vua Gia Long) đă "thêm vào vùng An Nam 安 南 " là xứ lấy Thăng Long làm kinh đô (tức Đàng Ngoài).
4/ HĂNH DIỆN HAI CHỮ "VIỆT NAM"!
Trước đó, theo ḍng lịch sử qua các đời Lư, Trần, Lê... cho dù tự xưng quốc danh "Đại Việt" đi nữa, tuy nhiên nước Tàu không tôn trọng mà họ cứ gọi xứ sở (lấy Thăng Long làm kinh đô) là "An Nam" miết (và gọi các đời vua Lư, Trần, Hậu Lê đều là "An Nam quốc vương")!
Đến đời Hoàng đế Gia Long, ban đầu triều đ́nh bên Tàu ép vẫn phải dùng quốc danh "An Nam". Nhưng sứ giả của vua Gia Long không đồng ư.
Với quốc danh VIỆT NAM, quí bạn chú ư: Đây là LẦN ĐẦU TIÊN trong suốt lịch sử cả ngàn năm, Tàu đă phải từ bỏ cách gọi truyền kiếp "An Nam" đối với nước Việt chúng ta!
Đời nay chúng ta mỗi khi hănh diện về hai chữ "Việt Nam" th́ nên nhớ tới cái danh xưng đó do Hoàng đế Gia Long đặt ra. Đừng uống nước mà quên luôn cái nguồn quốc danh đó từ đâu, đừng bị nhiễm thói ăn cháo đá bát.
5/ THAY LỜI KẾT
"Việt" (trong "Đại Việt" 大 越 ) dùng để chỉ Việt tộc.
C̣n "Việt" (trong "Việt Nam" 越 南 ) tuy cùng mặt chữ nhưng được lấy từ trong danh từ kép "Việt Thường" 越 裳 (định danh về địa lư).
Ghép chữ "Việt" (trong "Việt Thường") với "Nam" (trong "An Nam") thành quốc danh VIỆT NAM, là sự ghi nhận đàng hoàng về nguồn gốc của từng vùng lănh thổ!
Qua đó, vua Gia Long cho thấy niềm hănh diện trước việc hợp nhứt Đàng Trong với Đàng Ngoài. Lănh thổ nước ta LẦN ĐẦU TIÊN trải rộng từ bắc chí nam, theo đường cái quan đi từ Quảng Ninh cho tới mũi Cà Mau thành đường cong chữ S.
Tắt một lời, VIỆT NAM là quốc danh mang ư nghĩa về SỰ HỢP NHỨT LĂNH THỔ.
Ư nghĩa nêu trên của hai chữ VIỆT NAM, thiệt hay hết sức, độc đáo hết sức trong tinh thần đoàn kết các cộng đồng dân tộc ./.
luyenchuong3000_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	115931859_10215875349868916_8325431117507239236_n.jpg
Views:	0
Size:	54.3 KB
ID:	1623662 Click image for larger version

Name:	115929406_10215875350308927_392781517124484214_n.jpg
Views:	0
Size:	79.1 KB
ID:	1623663 Click image for larger version

Name:	116040382_10215875352028970_6486866168562700432_n.jpg
Views:	0
Size:	71.2 KB
ID:	1623664 Click image for larger version

Name:	116010467_10215875353909017_4802138227901743720_n.jpg
Views:	0
Size:	112.9 KB
ID:	1623665 Click image for larger version

Name:	116204295_10215875354469031_7632465662537706796_n.jpg
Views:	0
Size:	19.1 KB
ID:	1623666
The Following User Says Thank You to luyenchuong3000 For This Useful Post:
phokhuya (07-24-2020)
Old 07-22-2020   #11
Lang Que
R2 Kiếm Khách
 
Join Date: May 2020
Location: Virginia, USA
Posts: 67
Thanks: 72
Thanked 77 Times in 34 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 15 Post(s)
Rep Power: 5
Lang Que Reputation Uy Tín Level 2Lang Que Reputation Uy Tín Level 2Lang Que Reputation Uy Tín Level 2Lang Que Reputation Uy Tín Level 2Lang Que Reputation Uy Tín Level 2Lang Que Reputation Uy Tín Level 2Lang Que Reputation Uy Tín Level 2Lang Que Reputation Uy Tín Level 2Lang Que Reputation Uy Tín Level 2Lang Que Reputation Uy Tín Level 2
Default

C̣n Cao Kỳ gồm những tỉnh Mất Liêm Sỉ
Lang Que_is_offline   Reply With Quote
The Following 3 Users Say Thank You to Lang Que For This Useful Post:
luyenchuong3000 (07-24-2020), phokhuya (07-24-2020), trungthu (07-24-2020)
Old 07-23-2020   #12
luyenchuong3000
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
luyenchuong3000's Avatar
 
Join Date: Mar 2008
Posts: 14,316
Thanks: 19,153
Thanked 40,453 Times in 11,538 Posts
Mentioned: 159 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1870 Post(s)
Rep Power: 70
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
vnch Các giai thoại về danh nhân miền Nam thời mở cơi

Với 9 đời Chúa 13 đời vua trải dài từ năm 1558 đến 1945, có thể coi Nhà Nguyễn là một triều đại dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Triều đại này nổi tiếng nhất với công trạng mở rộng quốc gia và khai phá thành công miền Nam, cũng là triều đại sở hữu lănh thổ rộng lớn nhất trong lịch sử. Có thể nói không ngoa, lịch sử miền Nam cũng chính là lịch sử nhà Nguyễn vậy. Trải qua gần 400 năm đầy biến động thăng trầm, dưới sự lănh đạo của nhà Nguyễn, ngoài mảnh đất Nam Bộ trù phú này, các bậc tiền nhân đă để lại vô số những công tích lẫy lừng truyền lưu cho con cháu qua những giai thoại, sự nghiệp thể hiện tài năng và đạo đức sáng ngời của một thời mở cơi oai hùng, uy chấn lân bang.
Phần 1 - Kỳ 2: Vị quân vương sùng Phật và yêu vợ bậc nhất lịch sử Việt Nam
Nhân duyên tiền kiếp, Hộ Pháp Minh Vương

Không chỉ là một quân vương tài năng, Minh Vương Nguyễn Phúc Chu c̣n nổi tiếng trong sử sách như một trong những Phật tử sùng đạo bậc nhất. Ông là người có công chấn hưng và phát triển cho Phật giáo miền Nam. Trên đời không có sự ngẫu nhiên, người đời gọi ông là chúa Minh Vương, phải chăng đời này của ông là một lần chuyển sinh của Hộ pháp Minh vương nhà Phật chăng?

Bản thân ông đă hỏi câu này khi gặp thiền sư Thạch Liêm (Thích Đại Sán) năm 1694.
“Ngồi nói chuyện đến quá ngọ, muốn ở lại xem truyền giới, quốc cữu giục hai ba lần, mới đứng dậy, dậy lại bảo rằng: “Đệ tử từ bé nghe hai chữ Phật pháp đă sinh ḷng kính ngưỡng, mỗi lúc gặp tu sĩ áo lam, tức th́ hoan hỷ. Chẳng biết kiếp trước là ai? Làm phúc nghiệp ǵ? Mà ngày nay sinh ra làm vua ở đây? Xin tôn sư chỉ điểm cho biết, hầu chẳng quên nghiệp trước, đội đức từ bi vô lượng”. Nói rồi từ giă ra về.” (trích “Hải ngoại kỷ sự”-Thích Đại Sán)

Thiền sư Thạch Liêm vốn là một cao tăng đắc Đạo, v́ ḷng thành của Vương đă chẳng nề hà ǵ tiết lộ chút thiên cơ, đồng thời c̣n nhận Ngài là đệ tử, ban cho Pháp danh là Hưng Long.



“Ôi! Ta nói thật với đây, xưa kia vốn cùng ta đồng đi, chẳng ngờ đó bước lầm đường, chạy qua ngả khác, bèn chuyển thân về làm quốc vương ở đây. Nay trở lại hỏi chẳng biết tu hành mấy kiếp, lên đến v́ vua. Quên rằng, nếu chẳng tu hành một Phật, hai Phật, ba bốn năm Phật, làm sao trồng được gốc lành. Đến đây vui th́ vui thật, chỉn e gió đời tám hướng, thổi vào trong muôn trượng bùn lầy, lỡ một sa chân, không sao vực được. Cũng may chưa té sâu vào trong hang thất t́nh ngũ dục, c̣n ghi nhớ bóng vang thời cũ, tưởng đến Quảng Đông t́m rước lăo tăng, khác nào Đông Pha công: “Mường tượng c̣n nhớ Diệu Cao Đài” vậy. Ngày nay gặp nhau giáp mặt, c̣n nh́n đặng chăng? Nếu nh́n đặng tự khắc biết mặt mũi xưa kia của ḿnh, chẳng đợi chỉ trăng mà tự sáng.

Ôi! Thần long sở dĩ làm thần long, v́ có tài hay duỗi hay co, hay phi đằng biến hóa, chẳng khá lường được. Sau này nhà vua phi đằng biến hóa phản bản quy nguyên, há chịu nhượng thần long hay sao? V́ thế lăo tăng đặc biệt tặng nhà vua pháp danh Hưng Long, biệt hiệu Thiên Túng đạo nhơn. Từ nay về sau, mong rằng trước chưa rơ th́ sau sẽ rơ. Sau này đại chuyển pháp cơ, theo Phật Tổ về nơi hằng sáng.” (trích “Hải ngoại kỷ sự”-Thích Đại Sán)

V́ thế lăo tăng đặc biệt tặng nhà vua pháp danh Hưng Long, biệt hiệu Thiên Túng đạo nhơn. Từ nay về sau, mong rằng trước chưa rơ th́ sau sẽ rơ.
Chân dung Thiền sư Thạch Liêm. (Ảnh: Wikipedia - CC BY-SA 4.0)

Nho Phật nhất trí, cai trị theo Chính Pháp

1694, thiền sư Thạch Liêm nhận lời của Minh Vương đến Đàng Trong thuyết Pháp. 1695, sau khi đến nơi, Ḥa thượng đă tổ chức giới đàn để truyền giới Bồ tát cho Chúa và quyến thuộc, quan lại và 1400 tăng ni ở Phú Xuân. Đồng thời cũng trao cho Chúa một bản điều trần về việc dùng Chính Pháp cai trị quốc gia.

“Ngày sau cáo từ lui về, Vương lại cầu khẩn. Ta bèn đem những việc chính trị bàn luận mấy ngày nay, chép ra từng điều một, nhân điều trần “Lập quốc chánh ước” 18 điều, đều là những việc thương lính, yêu dân, thông thương, lợi quốc, kỷ cương pháp độ, chép từng chi tiết rơ ràng. Vương đọc xem rất mừng, bảo nội quan Chưởng sự rằng: “Nước ta pháp độ dân t́nh đều chưa được đúng đắn, nay nhờ lăo ḥa thượng đem lễ phép Trung Quốc chỉ dạy, liệt trần 18 điều; nên khắc bảng yết lên cửa phủ, hiểu dụ văn vơ quan dân đều biết, và khắc 24 thẻ bài, chia loại nêu rơ. Nếu ai trái điều lệ, phạm phép, cho kẻ bị thiệt hại, cầm thẻ bài đến kêu. Vô luận văn vơ quân dân vương thân quốc thích đều cứ pháp luật trị tội. Vĩnh viễn lấy đó làm quốc chánh vậy”.” (trích “Hải ngoại kỷ sự”-Thích Đại Sán)
Đóng góp của thiền sư Thạch Liêm là vô cùng cần thiết trong quá tŕnh phát triển đường lối trị quốc của chúa Nguyễn. Nên biết rằng Đàng Trong thời đó là nơi cư ngụ của rất nhiều dân tộc, nhiều tôn giáo, kết cấu xă hội phức tạp và không có nền tảng trị quốc lâu năm như Đàng Ngoài. Muốn quốc gia phát triển, ắt phải t́m ra một phương pháp trị quốc khả dĩ có thể quy kết ḷng dân, giáo hóa văn minh và cai trị hiệu quả. Đạo Phật có ảnh hưởng lớn ở Đàng Trong, nhưng tầng lớp tăng chúng lại không đủ uyên thâm giáo lư Phật Pháp để có thể giúp vua trị quốc. Nho giáo th́ dùng trị quốc rất tốt nhưng lại chỉ phù hợp quan lại và trí thức. Nho giáo không thể quy kết ḷng dân cả xă hội như Phật giáo. Trong giáo lư phổ truyền của Nho và Phật lại có chỗ mâu thuẫn với nhau, nếu không phải bậc chân tu hiểu đạo ắt không dễ mà kết hợp để trị quốc được.

V́ thế khi thiền sư Thạch Liêm đến Phú Xuân, cảm tấm ḷng thành và nhân duyên đời trước của Minh Vương, ông đă đem sở đắc cả đời của ḿnh truyền cho chúa Nguyễn, vừa hay lại phù hợp với t́nh h́nh chính trị Đàng Trong thời đó. Sở đắc của thiền sư chính là Nho Phật nhất trí, sư đă dùng Phật pháp để lư giải và dung hợp những chỗ mâu thuẫn của Phật và Nho giáo, khả dĩ có thể dùng cả hai để cai trị thiên hạ theo Chính Pháp. Bởi v́ thiền sư Thạch Liêm hiểu đến chỗ cốt tủy trị quốc nằm ở Đạo Đức của nhà vua và cả hai giáo lư đều nhắm vào việc tu thân dưỡng tính, thuận theo ḷng Trời. Nay Minh Vương đă nhất tâm hướng Phật, thể hiện đạo đức cao vời th́ việc dung ḥa pháp độ Nho gia và Pháp lư nhà Phật sẽ vô cùng dễ dàng.

khi thiền sư Thạch Liêm đến Phú Xuân, cảm tấm ḷng thành và nhân duyên đời trước của Minh Vương, ông đă đem sở đắc cả đời của ḿnh truyền cho chúa Nguyễn
khi thiền sư Thạch Liêm đến Phú Xuân, cảm tấm ḷng thành và nhân duyên đời trước của Minh Vương, ông đă đem sở đắc cả đời của ḿnh truyền cho chúa Nguyễn (Ảnh minh hoạ)

Điều này thể hiện rơ trong hai câu đối treo tại giới đàn ở Phú Xuân năm 1695:

“Thích thị tŕ luật, nho giả lư trung, tổng yếu tu thân thành ư, tự nhiên kính trực hồ nội, nghĩa phương hồ ngoại.

Quân tử sắc cơ, thiền nhân tập định, đồng quy kiến tính minh tâm, đoan do giới thận bất đổ, khủng cụ bất văn.”

Tạm dịch nghĩa :

Cửa Phật giới luật, nhà nho trung dung, chỉ cốt thành ư chính tâm, tự nhiên ngoài có nghĩa phương, trong có kính trực,
Quân tử cơ vi, thầy chùa nhập định, đều để minh tâm kiến tính, bởi v́ răn chỗ chẳng thấy, sợ chỗ chẳng nghe.
T́nh yêu sâu đậm bậc nhất cổ kim

Là một vị minh quân hàng đầu trong lịch sử, nổi tiếng về tài thao lược và ḷng nhân từ. Nhưng chúa Minh Vương lại là một h́nh mẫu có một không hai về t́nh yêu chân thành đối với vợ. Thân là một vị vua với nhiều thê thiếp, nhưng t́nh cảm của Ngài dành cho vợ có lẽ sẽ khiến cho hậu nhân tâm phục khẩu phục. Người phụ nữ may mắn hiếm có này gọi là Nguyễn Kính Phi.

Đại Nam liệt truyện chép về bà như sau: “Bà là con gái quan Tham chính Nguyễn Hữu Hiệp. Năm Hiển Tông mới làm chúa, bà vào hầu ở nội đ́nh, được cất nhắc làm Hữu Cung tần thứ 3, rồi thăng Chánh Nội phủ. Năm Giáp Ngọ (1714, Lê Vĩnh Thịnh thứ 10) mùa thu, bà mất, được tặng là Kính Phi, tôn bằng hàng phu nhân, thụy là Từ Đức, táng ở xă Trúc Lâm, lập đền thờ ở Hà Khê.

Bà là con nhà ḍng vào hầu chúa được yêu chiều (tương truyền: bà sinh 11 con, nay
c̣n một ngành, ngoài ra không rơ)."

Những bài thơ của Ngài dành tặng người vợ quá cố c̣n lưu lại trong lịch sử vô cùng chân thành với tứ thơ rất đẹp.

“Bà mất được một năm, chúa thương không thôi, làm đàn chay trọng thể ở chùa Thiên Mụ, chúa (Hiển Tông Nguyễn Phước Chu) làm 4 bài thơ; thương nhớ viết vào tường chùa.

“Bà mất được một năm, chúa thương không thôi, làm đàn chay trọng thể ở chùa Thiên Mụ, chúa (Hiển Tông Nguyễn Phước Chu) làm 4 bài thơ; thương nhớ viết vào tường chùa.
Chù Thiên Mụ ở Huế. (Ảnh: Wikipedia - CC BY-SA 3.0)

Bài 1
Vấn thiên hà sự thiết ngô phi !
Hoa tạ, tam cung nguyệt yếm huy !
Bất đạc nữ trung vong khổn phạm !
Hoàn tri kỳ nội thất dung nghi.
Thời đương thất tịch Ngân hà ám
Sầu kư thiên niên giới lộ hi !
Mạn đạo tiếu nhân nhi phụ thái.
Cổ kim thùy cánh thử t́nh vi.

Dịch nghĩa:

Cớ chi trời lại cướp phi ta !
Hoa rụng, ba cung bóng nguyệt tà.
Chẳng những gương treo trong bạn gái,
Lại đầy năm chẵn vắng người hoa !
Đêm vừa mồng bảy sông Ngân tối !
Sầu để ngàn năm móc hẹ pha !
Đừng có cười tṛ nhi nữ nhé !
T́nh nay ai để tránh từ xưa

Bài 2
Khứ niên Chức nữ nhập song minh.
Khước bị trùng vân tựu địa sinh.
Chế cẩm vị hoàn, ty tại trục !
Xuyên châm tài băi, tuyên phiêu doanh !
Không hoài ngũ dạ Quỳnh lâu địch,
Khởi vọng song xuy ngọc điện sinh.
Nhất phiến mê ly nghi thử tế.
Uyên ương tú chẩm mộng nan thành.

Dịch nghĩa:
Sao nữ năm qua soi cửa sổ
Làn mây lớp lớp đến che rồi !
Gấm dệt chưa xong tơ lỡ dở !
Kim xâu vừa được, chỉ tơi bời !
Sáo Quỳnh lâu, canh khuya luống nhớ !
Sênh ngọc điện, nay dễ thổi đôi
Mơ hồ tấc dạ ngờ đâu đó,
Giấc mộng uyên ương uổng kiếm hoài !

(Ảnh minh hoạ: Pixabay)

Bài 3
Nội trợ tằng kinh ức ỷ ni,
Duy dư đồng nhữ lưỡng nan kỳ,
Phi nhân mộ sắc tiềm huy lệ,
Chỉ vị tôn hiền tụng phú thi.
Việt hải tuy khoan, nan tải hận,
Tẩm lăng nghi cận, dị quan bi.
Trường đê thả mạc tài dương liễu
Hảo đăi Thanh minh túng mục th́.

Dịch nghĩa:
Dịu dàng nội trợ nghĩ thương âu…
Chỉ chúng ta sao khó hẹn nhau.
Há v́ sắc đẹp rơi hàng lệ,
Chỉ vị người hiền vịnh mấy câu.
Biển Việt dầu to khôn chở hận,
Bia lăng gần đọc để khuây sầu.
Đê dài đừng có trồng dương liễu.
Đợi tiết Thanh minh mắt nhắm lâu

Bài 4
Nhữ thọ tuy vi, Phước tự trường
Nhân truyền Phước trạch Nguyễn cung hương.
Phao tư kim ngọc doanh song níp
Lưu thử nhi tôn măn nhất đường.
Đối cảnh kỷ hồi hàm biệt lệ
Lân tài nhất thế động trung trường.
Kim bằng diệu pháp không vương lực.
Tiến bạt u hồn đạt thượng phương.

Dịch nghĩa:
Tuổi thọ ngắn thôi Phước lại dài.
Phước lưu cung Nguyễn ngát hương trời
Quăng đi vàng ngọc đầy hai tráp,
Để lại cháu con nối vạn đời;
Đối cảnh đ̣i phen cầm giọt lệ,
Thương tài một kiếp động ḷng ai.
Nhờ phép Như Lai mầu nhiệm ấy
U hồn siêu độ thoát luân hồi.

Bấy giờ, trong các cung tần từ trần, không ai được ân sủng lạ lùng như thế. Người đời cho là việc long trọng vậy”

Lời kết:

Thời chúa Minh Vương là giai đoạn cực thịnh của vương quốc Đàng Trong với hàng loạt thành tựu to lớn từ văn hóa cho đến mở rộng lănh thổ. Nước giàu quân mạnh, lân bang đều phục. Những thành tựu này có được đều nhờ vào vị Chúa tài ba, nhân từ, sùng Đạo và sống rất t́nh nghĩa này tạo ra. Nh́n lại trong lịch sử Việt Nam, ta có thể thấy các triều đại trước đó như Lư và Trần cũng có nhiều quân vương có tính cách tương đồng như chúa Minh Vương. Sự cai trị của họ là thành quả và sự kết hợp tuyệt vời giữa một người lănh đạo minh triết Nho giáo với nền đạo đức cao thượng từ Phật pháp. Những thời đại ấy có sự đề cao lễ nghĩa và lối sống coi trọng việc tu thân tích đức từ vua đến dân. Thế mới nói nền đạo đức và tôn giáo truyền thống quả thực là một giải pháp tuyệt vời đem đến sự thịnh vượng bền vững cho tất cả các triều đại vậy. C̣n như những nơi bất kính Thần phật, tôn sùng vật chất, cổ xúy thuyết vô Thần th́ dẫu có thịnh vượng thời gian ngắn nhưng rồi cũng sẽ nhanh chóng suy vong mà thôi.
luyenchuong3000_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	ntdvn_cac-giai-thoai-ve-danh-nhan-mien-nam-thoi-mo-coi-phan-1-ky-2.jpg
Views:	0
Size:	1.02 MB
ID:	1624089 Click image for larger version

Name:	ntdvn_anh-chup-man-hinh-2020-07-17-luc-152023.jpg
Views:	0
Size:	584.2 KB
ID:	1624090 Click image for larger version

Name:	ntdvn_1920px-chua-thien-mu-o-hue.jpg
Views:	0
Size:	1.03 MB
ID:	1624091 Click image for larger version

Name:	ntdvn_thien-su-thach-liem-copy.jpg
Views:	0
Size:	428.0 KB
ID:	1624092
The Following 2 Users Say Thank You to luyenchuong3000 For This Useful Post:
phokhuya (07-24-2020), trungthu (07-24-2020)
Old 07-24-2020   #13
luyenchuong3000
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
luyenchuong3000's Avatar
 
Join Date: Mar 2008
Posts: 14,316
Thanks: 19,153
Thanked 40,453 Times in 11,538 Posts
Mentioned: 159 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1870 Post(s)
Rep Power: 70
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
vnch Ư NGHĨA NIÊN HIỆU CỦA 12 VỊ VUA TRIỀU NGUYỄN VIỆT NAM

Ư NGHĨA NIÊN HIỆU CỦA 12 VỊ VUA TRIỀU NGUYỄN VIỆT NAM [Sưu Tầm Google].
Việt Nam thời các hoàng đế trị vị, việc đặt và ban hành niên hiệu đều có liên quan mật thiết đến ư chí chính trị của hoàng đế. Bằng h́nh thức niên hiệu, hoàng đế đă đưa ư chí chính trị của ḿnh thẩm thấu vào cuộc sống thường nhật của quốc gia.
Trước triều Nguyễn, hoàng đế Việt Nam không chỉ có một niên hiệu, thường có việc đổi niên hiệu. Sau chịu ảnh hưởng của đời Minh – Thanh, mỗi đời vua một niên hiệu. Triều Lê Trung Hưng bắt đầu thực hiện mỗi đời vua một niên hiệu. Đến triều Nguyễn th́ chế độ này đă được cố định.
Triều Nguyễn có tổng cộng 13 vị hoàng đế, trừ vua Cung Tông kế vị ngắn ngủi 3 ngày ra không có niên hiệu, tổng cộng đă đặt ra 12 niên hiệu, trong đó niên hiệu Hiệp Ḥa chưa được sử dụng. Các vua Việt Nam tuy đă nhạt nḥa theo lịch sử nhưng những niên hiệu mà họ để lại làm cho chúng ta sau hàng trăm năm vẫn cảm nhận được ư thức chính trị của họ.
Gia Long – Niên hiệu của vua Nguyễn Thế Tổ (18 năm, 1802 – 1819)
Nguyễn Thế Tổ Nguyễn Phúc Ánh là người sáng lập ra triều Nguyễn. Năm 1802, Nguyễn Thế Tổ đánh bại triều Tây Sơn, thu phục cựu đô Phú Xuân, Quảng Nam và đổi tên là Thuận Hóa. Năm sau, đổi niên hiệu Gia Long, lập ra triều Nguyễn. Đặt quốc hiệu là Nam Việt, về sau, triều Thanh sắc phong ông làm Nam Việt Quốc Vương.
“Đại Nam thực lục – đệ nhất kỷ” có ghi: “Lấy ngày 1 tháng 5 năm nay chiếu cáo thiên hạ, hôm sau chiếu cáo các Thánh, Kỷ Nguyên Gia, lấy kỷ thống nhất để biểu thị mới cái đức”. Ư nghĩa của cái tên Gia Long lấy từ cụm từ “Gia Định Thăng Long”, để bày tỏ ư nghĩa thống nhất thiên hạ (Việt Nam).
Sử Trung Quốc “Thanh sử cảo – Việt Nam truyện” có chép: “Nguyễn Phúc Ánh có được quốc gia nhờ Gia Định, Vĩnh Long binh lực nhiều, nên lấy hai tỉnh làm niên hiệu, gọi là Gia Long”. Nhưng chúng tôi nhận thấy rằng niên hiệu của hoàng đế lấy ư nghĩa trong 2 từ Gia Định, Thăng Long. Bởi lúc đó khi triều Nguyễn vừa thiết lập, niên hiệu này cũng cho thấy hàm ư triều Nguyễn kế thừa triều Lê chính thống trị vị toàn bộ Việt Nam.
Giai đoạn Gia Long tại vị trị v́, t́nh h́nh Việt Nam dần ổn định. Ông đă tiến hành cải cách trên các lĩnh vực quân sự, hành chính, kinh tế, văn hóa, xây dựng lớn nhiều đô thành, đường xá. Tham khảo “Đại Thanh luật” của Trung Quốc, ông đă ban hành “Gia Long luật thư” (sách luật Gia Long), đương thời gọi là “Hoàng triều luật lệ”.
Cuốn “Quốc triều chính biên toát yếu” (bản tóm tắt chính biên triều đ́nh) biên soạn trong những năm Duy Tân triều Nguyễn, đă đánh giá Gia Long Nguyễn Phúc Ánh là:
“Vua đă phục hưng sáng nghiệp, công lao và đức độ đều lớn, tạo phúc cho dân to lớn chưa từng có. Khi bắt đầu lập quốc, vua cho xây dựng thành quách, tu sửa lăng tẩm, dựng đàn Giao Tế, đàn Xă Tắc, ban thưởng tước lộc, mở khoa thi cử chọn nhân tài, chấn hưng lễ nhạc, trường học, định ra pháp luật chế độ, điều luật, bảo tồn ḍng dơi nhà Lê, Trịnh, kéo dài chế độ thế tập cho công thần, ngăn quan tướng Tây Sơn, đề pḥng cẩn mật Xiêm La, bao dung Chân Lạp, vỗ về Vạn Tượng, uy danh chấn động muôn phương, nhân đức bao trùm các nước nhỏ, quy mô che phủ rộng lớn xa xôi“.
Minh Mạng – Niên hiệu của vua Đại Nam Nguyễn Thánh Tổ (21 năm, 1820 – 1840)
Đại Nam Thánh Tổ, tên húy Nguyễn Phúc Đảm, lên ngôi năm Gia Long thứ 18 (1819), đổi niên hiệu Minh Mạng. Trong thời gian ông trị v́, quốc lực cường thịnh nhất. Sau này vào ngày Giáp Tuất tháng 3 mùa xuân năm Minh Mạng thứ 19, đổi tên quốc hiệu là Đại Nam. Niên hiệu Minh Mạng lấy từ sách “Thượng thư – Hàm hữu nhất đức”: “Khắc hưởng thiên tâm, thụ thiên minh mạng” (Được hưởng ḷng trời, th́ được cái mệnh sáng của trời).
Vua Minh Mạng là con thứ 4 của Nguyễn Thế Tổ Gia Long. Sau này, hoàng thái hậu Anh Duệ mất sớm, chuyển kế thừa cho con của hoàng hậu Thiên Cao, và coi ông là “đích tử”. Sau đó Nguyễn Phúc Đảm đổi tên thành Nguyễn Phúc Kiểu, được lập làm hoàng thái tử. Niên hiệu Minh Mạng cũng biểu lộ ngôi vị của ông là chính thống, ông lên ngôi là do thiên mệnh.
Trong thời gian vua Minh Mạng trị v́, ông đă tiến hành rất nhiều cải cách. Minh Mạng đă xây dựng thể chế quan lại hệ thống hóa mô phỏng theo triều Măn Thanh, hoàn thiện chế độ khoa cử, xây dựng chế độ hành tỉnh, đưa triều Nguyễn vào giai đoạn cực thịnh. Một ḷng mong muốn xây dựng Việt Nam thành đại đế quốc như triều Thanh, ông đánh nam dẹp tây, mở rộng cương thổ của Việt Nam lớn nhất, thôn tính sát nhập Cam Pu Chia và Lào.
Nhưng về đối ngoại ông lại thi hành chính sách bế quan tỏa cảng. Trong nước th́ cấm truyền bá Cơ Đốc giáo, bức hại giáo sỹ, làm cho phương Tây ác cảm, bị người phương Tây gọi là “Nero phương Đông”, đă để lại một mối hậu hoạ sau này. Cuốn “Quốc triều chính biên toát yếu” đă đánh giá Minh Mạng:
“Vua với tư cách thánh thượng kế thừa đại đinh, dốc sức trị quốc, tô điểm thái b́nh. Học điển cố xưa, sửa sang lễ nhạc, cẩn trọng quyền lực, rà soát pháp luật chế độ, đặt khoa cử chọn nhân tài. Vua cày ruộng khuyến nông, cử quan tuần các tỉnh, đặt chức kinh sát để kiểm tra quan lại. Cho đến ngăn chặn kẻ thân cận lộng quyền, ngăn ngừa cảnh giới hoạn quan, lệnh hoàng thân quốc thích không được can dự việc bên ngoài, ư vua ngăn chặn tệ nạ từ khi c̣n manh nha ra rất sâu sắc. 21 năm lo nghĩ, cần mẫn, khoan thứ, việc chính sự luôn giữ hàng ngày, phàm tất cả sắc lệnh, phê duyệt, dụ chỉ, bố cáo đều tự vua viết. Bắt đầu dạy chữ giáo hóa các vùng man di, uy danh chấn động Xiêm La, Lào, thánh đức thần công, không thể kể hết“.
Thiệu Trị – Niên hiệu của vua Đại Nam Hiến Tổ (7 năm, 1841 – 1847)
Gia Long – Niên hiệu của vua Nguyễn Thế Tổ (18 năm, 1802 – 1819)
Nguyễn Thế Tổ Nguyễn Phúc Ánh là người sáng lập ra triều Nguyễn. Năm 1802, Nguyễn Thế Tổ đánh bại triều Tây Sơn, thu phục cựu đô Phú Xuân, Quảng Nam và đổi tên là Thuận Hóa. Năm sau, đổi niên hiệu Gia Long, lập ra triều Nguyễn. Đặt quốc hiệu là Nam Việt, về sau, triều Thanh sắc phong ông làm Nam Việt Quốc Vương.
“Đại Nam thực lục – đệ nhất kỷ” có ghi: “Lấy ngày 1 tháng 5 năm nay chiếu cáo thiên hạ, hôm sau chiếu cáo các Thánh, Kỷ Nguyên Gia, lấy kỷ thống nhất để biểu thị mới cái đức”. Ư nghĩa của cái tên Gia Long lấy từ cụm từ “Gia Định Thăng Long”, để bày tỏ ư nghĩa thống nhất thiên hạ (Việt Nam).
Sử Trung Quốc “Thanh sử cảo – Việt Nam truyện” có chép: “Nguyễn Phúc Ánh có được quốc gia nhờ Gia Định, Vĩnh Long binh lực nhiều, nên lấy hai tỉnh làm niên hiệu, gọi là Gia Long”. Nhưng chúng tôi nhận thấy rằng niên hiệu của hoàng đế lấy ư nghĩa trong 2 từ Gia Định, Thăng Long. Bởi lúc đó khi triều Nguyễn vừa thiết lập, niên hiệu này cũng cho thấy hàm ư triều Nguyễn kế thừa triều Lê chính thống trị vị toàn bộ Việt Nam.
Giai đoạn Gia Long tại vị trị v́, t́nh h́nh Việt Nam dần ổn định. Ông đă tiến hành cải cách trên các lĩnh vực quân sự, hành chính, kinh tế, văn hóa, xây dựng lớn nhiều đô thành, đường xá. Tham khảo “Đại Thanh luật” của Trung Quốc, ông đă ban hành “Gia Long luật thư” (sách luật Gia Long), đương thời gọi là “Hoàng triều luật lệ”.
Cuốn “Quốc triều chính biên toát yếu” (bản tóm tắt chính biên triều đ́nh) biên soạn trong những năm Duy Tân triều Nguyễn, đă đánh giá Gia Long Nguyễn Phúc Ánh là:
“Vua đă phục hưng sáng nghiệp, công lao và đức độ đều lớn, tạo phúc cho dân to lớn chưa từng có. Khi bắt đầu lập quốc, vua cho xây dựng thành quách, tu sửa lăng tẩm, dựng đàn Giao Tế, đàn Xă Tắc, ban thưởng tước lộc, mở khoa thi cử chọn nhân tài, chấn hưng lễ nhạc, trường học, định ra pháp luật chế độ, điều luật, bảo tồn ḍng dơi nhà Lê, Trịnh, kéo dài chế độ thế tập cho công thần, ngăn quan tướng Tây Sơn, đề pḥng cẩn mật Xiêm La, bao dung Chân Lạp, vỗ về Vạn Tượng, uy danh chấn động muôn phương, nhân đức bao trùm các nước nhỏ, quy mô che phủ rộng lớn xa xôi“.
Minh Mạng – Niên hiệu của vua Đại Nam Nguyễn Thánh Tổ (21 năm, 1820 – 1840)
Đại Nam Thánh Tổ, tên húy Nguyễn Phúc Đảm, lên ngôi năm Gia Long thứ 18 (1819), đổi niên hiệu Minh Mạng. Trong thời gian ông trị v́, quốc lực cường thịnh nhất. Sau này vào ngày Giáp Tuất tháng 3 mùa xuân năm Minh Mạng thứ 19, đổi tên quốc hiệu là Đại Nam. Niên hiệu Minh Mạng lấy từ sách “Thượng thư – Hàm hữu nhất đức”: “Khắc hưởng thiên tâm, thụ thiên minh mạng” (Được hưởng ḷng trời, th́ được cái mệnh sáng của trời).
Vua Minh Mạng là con thứ 4 của Nguyễn Thế Tổ Gia Long. Sau này, hoàng thái hậu Anh Duệ mất sớm, chuyển kế thừa cho con của hoàng hậu Thiên Cao, và coi ông là “đích tử”. Sau đó Nguyễn Phúc Đảm đổi tên thành Nguyễn Phúc Kiểu, được lập làm hoàng thái tử. Niên hiệu Minh Mạng cũng biểu lộ ngôi vị của ông là chính thống, ông lên ngôi là do thiên mệnh.
Trong thời gian vua Minh Mạng trị v́, ông đă tiến hành rất nhiều cải cách. Minh Mạng đă xây dựng thể chế quan lại hệ thống hóa mô phỏng theo triều Măn Thanh, hoàn thiện chế độ khoa cử, xây dựng chế độ hành tỉnh, đưa triều Nguyễn vào giai đoạn cực thịnh. Một ḷng mong muốn xây dựng Việt Nam thành đại đế quốc như triều Thanh, ông đánh nam dẹp tây, mở rộng cương thổ của Việt Nam lớn nhất, thôn tính sát nhập Cam Pu Chia và Lào.
Nhưng về đối ngoại ông lại thi hành chính sách bế quan tỏa cảng. Trong nước th́ cấm truyền bá Cơ Đốc giáo, bức hại giáo sỹ, làm cho phương Tây ác cảm, bị người phương Tây gọi là “Nero phương Đông”, đă để lại một mối hậu hoạ sau này. Cuốn “Quốc triều chính biên toát yếu” đă đánh giá Minh Mạng:
“Vua với tư cách thánh thượng kế thừa đại đinh, dốc sức trị quốc, tô điểm thái b́nh. Học điển cố xưa, sửa sang lễ nhạc, cẩn trọng quyền lực, rà soát pháp luật chế độ, đặt khoa cử chọn nhân tài. Vua cày ruộng khuyến nông, cử quan tuần các tỉnh, đặt chức kinh sát để kiểm tra quan lại. Cho đến ngăn chặn kẻ thân cận lộng quyền, ngăn ngừa cảnh giới hoạn quan, lệnh hoàng thân quốc thích không được can dự việc bên ngoài, ư vua ngăn chặn tệ nạ từ khi c̣n manh nha ra rất sâu sắc. 21 năm lo nghĩ, cần mẫn, khoan thứ, việc chính sự luôn giữ hàng ngày, phàm tất cả sắc lệnh, phê duyệt, dụ chỉ, bố cáo đều tự vua viết. Bắt đầu dạy chữ giáo hóa các vùng man di, uy danh chấn động Xiêm La, Lào, thánh đức thần công, không thể kể hết“.
Thiệu Trị – Niên hiệu của vua Đại Nam Hiến Tổ (7 năm, 1841 – 1847)
Đại Nam Hiến Tổ Nguyễn Phúc Tuyền tên ban đầu là Nguyễn Phúc Miên Tông, con trai trưởng đích hệ của vua Minh Mạng. Năm Minh Mạng thứ 21 (năm 1840) lên ngôi, niên hiệu Thiệu Trị. Thiệu Trị kế thừa đế quốc Đại Nam hùng mạnh, lănh thổ bao gồm cả Cao Miên (Cam-pu-chia), Vạn Tượng (Lào)… Để bày tỏ kính trọng cha – vua Minh Mạng nên định niên hiệu là Thiệu Trị, với ư nghĩa là “Thiệu tiên hoàng Minh Mạng chi Trị” (Nối nghiệp trị v́ của tiên hoàng Minh Mạng).
Thời gian trị v́ Thiệu Trị tôn trọng không thay đổi cách trị v́ của vua cha, giữ lại các phép cũ. Về thái độ với phương Tây, Thiệu Trị cũng giống y như vua cha Minh Mạng, có thái độ bảo thủ và đối địch với các nước phương Tây, nhưng trong những năm Thiệu Trị cấm thiên chúa giáo có ḥa hoăn hơn thời Minh Mạng. Thiệu Trị tiếp tục các chính sách của vua Minh Mạng, thưởng cho những người bắt các giáo sỹ phương Tây, và đưa các giáo sỹ bị bắt về Thuận Hóa giam giữ, lệnh cho họ dịch các sách phương Tây. Sau này người Pháp bắn pháo đánh Đà Nẵng. Vua Thiệu Trị nổi giận, lại tuyên bố lệnh cấm Thiên Chúa giáo, và tăng cường đàn áp giáo đồ Thiên Chúa giáo trong nước.
Tự Đức – Niên hiệu của vua Đại Nam Dực Tông (36 năm, 1848 – 1883)
Đại Nam Dực Tông Nguyễn Phúc Th́ tên gốc là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, con trai đích hệ của vua Thiệu Trị (con trai thứ 2), năm Thiệu Trị thứ 7 lên ngôi, năm sau đổi niên hiệu là Tự Đức. Trong “Đại Nam thực lục đệ tứ kỷ” viết, nghĩa của Tự Đức là “Tự tiên hoàng Thiệu Trị chi Đức” (kế thừa đức của vua cha Thiệu Trị).
Trong thời gian Tự Đức trị v́, nước Đại Nam dần dần suy yếu, người Pháp xâm nhập, xâm chiếm mấy tỉnh phía nam, kư hiệp ước bất b́nh đẳng, Việt Nam dần dần trở thành thuộc địa Pháp. Về văn hóa, cũng như vua cha coi trọng giáo dục văn hóa là Nho gia, biên soạn nhiều bộ sách sử như “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, và viết “Tự Đức Thánh chế tự học giải nghĩa ca”… Niên hiệu Tự Đức là niên hiệu sử dụng lâu nhất của triều Nguyễn. Các vua kế vị sau là Nguyễn Cung Tông và Hiệp Ḥa cũng dùng niên hiệu này.
Tự Đức qua đời tháng 6 năm Tự Đức thứ 36, con nuôi trưởng của ông là Nguyễn Cung Tông Nguyễn Phúc Ưng Chân kế vị, nhưng kế vị được 3 ngày th́ bị quyền thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết soán cải di chiếu phế bỏ, và cũng chưa đặt niên hiệu. Sau khi Nguyễn Cung Tông bị phế, quyền thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lập con thứ 29 của vua Thiệu Trị là Lang Quốc Công Nguyễn Phúc Hồng Dật lên ngôi, đổi tên là Nguyễn Phúc Thăng, sửa niên hiệu từ năm sau là năm Hiệp Ḥa thứ nhất.
Hiệp Ḥa có xuất xứ từ sách “Thượng thư – Nghiêu điển” là “Hiệp Ḥa vạn bang, lê dân ư biến thời ung” (ḥa hiệp với vạn nước th́ nhân dân thời biến loạn sẽ trở lại yên b́nh hài ḥa). Đại Nam lúc này đă tơi tả thảm hại, vua mới hy vọng dưới sự trị v́ của ḿnh có thể ḥa hiệp với nước Pháp, để nhân dân an định. Nhưng vua Hiệp Ḥa chỉ là bù nh́n, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết chuyên quyền khiến vua hết sức bất măn, muốn tiếp nhận chính sách bảo hộ do người Pháp đưa ra để chống lại đại thần phụ chính cường thịnh.
Sự việc bị Nguyễn Văn Tường biết và tấu bẩm Từ Dụ thái hậu. Ngày 29 tháng 11 năm 1883 đảo chính, Tường giết chết Trần Tiễn Thành và phế truất vua Hiệp Ḥa, sử sách gọi là phế đế. V́ kế vị 4 tháng vẫn trong năm Tự Đức thứ 36, niên hiệu Hiệp Ḥa vẫn chưa chính thức sử dụng.
Kiến Phúc – Niên hiệu của vua Đại Nam Giản Tông (1 năm, 1884).
Đại Nam Hiến Tổ Nguyễn Phúc Tuyền tên ban đầu là Nguyễn Phúc Miên Tông, con trai trưởng đích hệ của vua Minh Mạng. Năm Minh Mạng thứ 21 (năm 1840) lên ngôi, niên hiệu Thiệu Trị. Thiệu Trị kế thừa đế quốc Đại Nam hùng mạnh, lănh thổ bao gồm cả Cao Miên (Cam-pu-chia), Vạn Tượng (Lào)… Để bày tỏ kính trọng cha – vua Minh Mạng nên định niên hiệu là Thiệu Trị, với ư nghĩa là “Thiệu tiên hoàng Minh Mạng chi Trị” (Nối nghiệp trị v́ của tiên hoàng Minh Mạng).
Thời gian trị v́ Thiệu Trị tôn trọng không thay đổi cách trị v́ của vua cha, giữ lại các phép cũ. Về thái độ với phương Tây, Thiệu Trị cũng giống y như vua cha Minh Mạng, có thái độ bảo thủ và đối địch với các nước phương Tây, nhưng trong những năm Thiệu Trị cấm thiên chúa giáo có ḥa hoăn hơn thời Minh Mạng. Thiệu Trị tiếp tục các chính sách của vua Minh Mạng, thưởng cho những người bắt các giáo sỹ phương Tây, và đưa các giáo sỹ bị bắt về Thuận Hóa giam giữ, lệnh cho họ dịch các sách phương Tây. Sau này người Pháp bắn pháo đánh Đà Nẵng. Vua Thiệu Trị nổi giận, lại tuyên bố lệnh cấm Thiên Chúa giáo, và tăng cường đàn áp giáo đồ Thiên Chúa giáo trong nước.
Tự Đức – Niên hiệu của vua Đại Nam Dực Tông (36 năm, 1848 – 1883)
Đại Nam Dực Tông Nguyễn Phúc Th́ tên gốc là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, con trai đích hệ của vua Thiệu Trị (con trai thứ 2), năm Thiệu Trị thứ 7 lên ngôi, năm sau đổi niên hiệu là Tự Đức. Trong “Đại Nam thực lục đệ tứ kỷ” viết, nghĩa của Tự Đức là “Tự tiên hoàng Thiệu Trị chi Đức” (kế thừa đức của vua cha Thiệu Trị).
Trong thời gian Tự Đức trị v́, nước Đại Nam dần dần suy yếu, người Pháp xâm nhập, xâm chiếm mấy tỉnh phía nam, kư hiệp ước bất b́nh đẳng, Việt Nam dần dần trở thành thuộc địa Pháp. Về văn hóa, cũng như vua cha coi trọng giáo dục văn hóa là Nho gia, biên soạn nhiều bộ sách sử như “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, và viết “Tự Đức Thánh chế tự học giải nghĩa ca”… Niên hiệu Tự Đức là niên hiệu sử dụng lâu nhất của triều Nguyễn. Các vua kế vị sau là Nguyễn Cung Tông và Hiệp Ḥa cũng dùng niên hiệu này.
Tự Đức qua đời tháng 6 năm Tự Đức thứ 36, con nuôi trưởng của ông là Nguyễn Cung Tông Nguyễn Phúc Ưng Chân kế vị, nhưng kế vị được 3 ngày th́ bị quyền thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết soán cải di chiếu phế bỏ, và cũng chưa đặt niên hiệu. Sau khi Nguyễn Cung Tông bị phế, quyền thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lập con thứ 29 của vua Thiệu Trị là Lang Quốc Công Nguyễn Phúc Hồng Dật lên ngôi, đổi tên là Nguyễn Phúc Thăng, sửa niên hiệu từ năm sau là năm Hiệp Ḥa thứ nhất.
Hiệp Ḥa có xuất xứ từ sách “Thượng thư – Nghiêu điển” là “Hiệp Ḥa vạn bang, lê dân ư biến thời ung” (ḥa hiệp với vạn nước th́ nhân dân thời biến loạn sẽ trở lại yên b́nh hài ḥa). Đại Nam lúc này đă tơi tả thảm hại, vua mới hy vọng dưới sự trị v́ của ḿnh có thể ḥa hiệp với nước Pháp, để nhân dân an định. Nhưng vua Hiệp Ḥa chỉ là bù nh́n, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết chuyên quyền khiến vua hết sức bất măn, muốn tiếp nhận chính sách bảo hộ do người Pháp đưa ra để chống lại đại thần phụ chính cường thịnh.
Sự việc bị Nguyễn Văn Tường biết và tấu bẩm Từ Dụ thái hậu. Ngày 29 tháng 11 năm 1883 đảo chính, Tường giết chết Trần Tiễn Thành và phế truất vua Hiệp Ḥa, sử sách gọi là phế đế. V́ kế vị 4 tháng vẫn trong năm Tự Đức thứ 36, niên hiệu Hiệp Ḥa vẫn chưa chính thức sử dụng.
Kiến Phúc – Niên hiệu của vua Đại Nam Giản Tông (1 năm, 1884)
Đại Nam Giản Tông tên húy là Nguyễn Phúc Hạo, tên gốc là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, là con nuôi của Tự Đức (con thứ 3). Quyền thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết sau khi phế giết vua Hiệp Ḥa, ngày 30 tháng 11 năm 1883 lập Giản Tông, đổi niên hiệu là Kiến Phúc. Trị v́ 1 năm, thời gian đó Việt Nam và Pháp kư “Hiệp ước Thuận Hóa thứ 2”, Việt Nam trở thành nước bảo hộ của Pháp. Việt Nam đem ấn vàng Việt Nam Quốc Vương do triều Thanh ban nấu chảy, tuyên bố thoát ly quan hệ triều cống với triều Thanh.
Hàm Nghi – Niên hiệu của vua Đại Nam Xuất Đế (năm 1885, phong trào Cần Vương sử dụng đến năm 1889)
Vua Hàm Nghi tên húy là Nguyễn Phúc Minh, tên gốc là Nguyễn Phúc Ưng, con của Kiên Thái Vương. Vua Kiến Phúc mất, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết chuyên quyền không muốn để con nuôi thứ 2 của Tự Đức Nguyễn Phúc Ưng Kỳ lên ngôi, bèn đưa em trai Nguyễn Phúc Ưng Kỳ là Nguyễn Phúc Ưng Ủng lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Hàm Nghi. Hàm Nghi có nguồn gốc từ “Thi Kinh”: “Cảnh viên duy hàn thụ mệnh hàm nghi, bách lộc thị hà” (Núi Cảnh Sơn có sông lớn bao quanh, triều kế thừa triều Thương là thu mệnh trời, tất cả đều thích hợp, trăm lộc đều có cả). Nó phản ánh khát vọng cho nhân dân được yên vui của Hàm Nghi.
Khi vua Hàm Nghi trị v́, Việt Nam đă là thuộc địa của Pháp, người Pháp đối với hoàng thất cũng rất kiêu căng ngỗ ngược. Vua Hàm Nghi được Tôn Thất Thuyết pḥ tá lấy danh nghĩa hoàng đế ban “Cần vương chiếu”, và xin Măn Thanh sắc phong, hiệu triệu nhân dân các địa phương nổi dậy chống sự thống trị của người Pháp. Các nơi khắp Việt Nam ào ào khởi binh hưởng ứng. Phong trào nổi dậy chống sự thống trị của người Pháp này được đời sau gọi là phong trào Cần Vương. Sau đó Hàm Nghi bị phản đồ bán đứng cho Pháp, bị bắt và lưu đày ở Algeria.
Đồng Khánh – Niên hiệu của vua Đại Nam Cảnh Tông (4 năm, 1885 – 1888)
Đại Nam Cảnh Tông tên húy là Nguyễn Phúc Biện, tên gốc là Nguyễn Phúc Ưng Thị, là con nuôi thứ 2 của vua Tự Đức, năm Tự Đức thứ 35 được vua Tự Đức sắc phong làm Kiên Giang Quận Công. Sau khi vua Hàm Nghi ra đi phát động phong trào Cần Vương, chính quyền thuộc địa Pháp để vỗ về dân chúng đă thương lượng cùng Từ Dụ thái hậu lập Kiên Giang Quận Công Nguyễn Phúc Ưng Thị làm hoàng đế.
Thế là ngày 9 tháng 8 năm Hàm Nghi thứ nhất, đổi tên theo tên đế hệ là Nguyễn Phúc Biện và làm lễ tấn quang, ngày 10 lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Đồng Khánh, từ ngày 22 tháng 5 năm Hàm Nghi thứ nhất đổi là năm Ất Dậu Đồng Khánh, năm sau bắt đầu gọi là năm thứ nhất. Đồng Khánh có nghĩa là “Trung hưng đồng khánh” (phục hưng lại, tất cả đều vui mừng).
Lúc này triều Nguyễn hoàn toàn phụ thuộc vào Pháp nên để che giấu màu sắc thuộc địa, nên xưng là vua Đồng Khánh và người Pháp hợp tác khôi phục trung hưng Đại Nam. Vua Đồng Khánh tự nhận là “Quả nhân khôi phục lại hưng thịnh”, Đồng Khánh kế vị dưới sự bảo hộ của người Pháp tuyên bố Đại Nam là “Quốc thái dân an, phổ thiên đồng khánh” (Quốc thái dân an, khắp trời đều vui).
Thành Thái – Niên hiệu của vua Thành Thái
Vua Thành Thái tên húy là Nguyễn Phúc Chiêu, tên gốc là Nguyễn Phúc Bửu Lân, là con của Cung Tông. Năm Đồng Khánh thứ 3 vua Đồng Khánh qua đời, Khâm sứ Trung Kỳ người Pháp Lê-na đưa Nguyễn Phúc Bửu Lân lên ngôi, và đổi tên theo tên đế hệ là Nguyễn Phúc Chiêu, đổi niên hiệu là Thành Thái. Thành Thái có nguồn gốc từ “Dịch Kinh” là “Thái, tiểu văng đại lai, cát hanh. Tắc thị thiên địa giao, nhi vạn vật thông dă” (Thái, đi nhỏ về lớn, tốt lành. Tức là trời đất giao ḥa, vạn vật hanh thông). Có ư nghĩa là quẻ Thái là trời đất giao ḥa mà Thành. Thái có nghĩa là an định.
Vua Thành Thái lên ngôi chú ư đến quốc sự, đi thị sát dân t́nh. Trong thời gian trị v́, thể hiện tương đối thân thiện với xă hội phương Tây, cũng là vị quân vương Việt Nam đầu tiên học lái xe, cắt tóc ngắn theo kiểu phương Tây. Tuy chịu ảnh hưởng của giáo dục nước Pháp sâu sắc, nhưng ông cảm thấy đau buồn v́ quốc gia ḿnh bị người Pháp khống chế. Năm Thành Thái thứ 17 (1907), vua Thành Thái bổ nhiệm một số quan lại mà chưa được sự đồng ư của chính quyền thực dân Pháp, làm cho người Pháp không tín nhiệm ông. Thế là Khâm sứ Trung Kỳ người Pháp phế truất vua Thành Thái.
Duy Tân – Niên hiệu vua kế tiếp Đại Nam (10 năm, 1907 – 1916)
Vua Duy Tân tên húy là Nguyễn Phúc Hoảng, tên gốc là Nguyễn Phúc Vĩnh San, là con trai vua Thành Thái. Năm Thành Thái thứ 17, Nguyễn Phúc Vĩnh San mới 8 tuổi được lập làm hoàng đế, đổi tên là Nguyễn Phúc Hoảng, đổi niên hiệu là Duy Tân, Duy Tân có nguồn gốc từ sách “Thượng Thư” là “Hàm dữ duy tân” (Tất cả đều được đổi mới), với ư nghĩa là Đại Nam dưới sự bảo hộ của người Pháp, đất nước đổi mới, mọi người dân được an lạc.
Trong thời gian vua Duy Tân trị v́, người Pháp kiêu căng ngỗ ngược, vua Duy Tân cực kỳ căm ghét. Cuối tháng 4 năm 1916 (năm Duy Tân thứ 10), vua Duy Tân bí mật gặp các thành viên của Việt Nam Quang Phục Hội, lên kế hoạch đảo chính. Nhưng đảo chính thất bại. Người Pháp dự định đưa vua Duy Tân trở lại hoàng thành làm hoàng đế, nhưng vua không muốn làm bù nh́n. Thế là vua Duy Tân và vua cha bị lưu đày ở đảo Reunion.
Khải Định – Niên hiệu của vua Đại Nam Hoằng Tông (10 năm, 1916 – 1925)
Tên húy là Nguyễn Phúc Tuấn, tên gốc là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, là con của vua Đồng Khánh. Ngày 18 tháng 5 năm 1916 (ngày 27 tháng 4 năm Duy Tân thứ 10) Nguyễn Phúc Bửu Đảo được thực dân Pháp lập làm hoàng đế Việt Nam, đổi niên hiệu là Khải Định. “Khải” là khai mở, “Định” là b́nh an, an định. V́ 2 vua Thành Thái, Duy Tân làm trái ngược ư chí của người Pháp, Khải Định mang ư nghĩa cam chịu làm bù nh́n cho người Pháp nên đặt niên hiệu là Khải Định. Trong thời gian trị v́ ông đă ban bố nhiều pháp lệnh có lợi cho người Pháp. Ông cũng giống cha ông không nhận được nhiều thiện cảm của người dân Việt Nam.
Khi trị v́, Khải Định đă đến Marseille Pháp, tham gia triển lăm các nước thuộc địa Pháp. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, hoàng đế xuất ngoại thăm viếng. Nhưng chuyến đi Pháp này bị mọi người chê trách. Sau khi vua Khải Định lên bờ cảng Marseille, th́ gặp phải sự phản đối của nhóm người Việt lưu vong ở Pháp.
Bảo Đại – Niên hiệu hoàng đế cuối cùng
Vua Bảo Đại, hoàng đế cuối cùng của Việt Nam tên húy là Nguyễn Phúc Thiển, tên gốc là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy. Năm Khải Định thứ 10 (1926), Khải Định tạ thế, ông kế vị làm hoàng đế, đổi niên hiệu là Bảo Đại. Bảo Đại lấy từ “Tả Truyện – kỳ lục nhật” là “Tuy vạn bang, lũ phong niên, bảo đại, định công, an dân, ḥa chúng” (Dẹp yên vạn nước, liên tiếp được mùa, giữ được vị trí nước lớn, lập công đức, làm dân yên ổn, ḥa hợp với tất cả mọi người), ngụ ư là kéo dài phúc tộ nhà Nguyễn, lập công dựng nghiệp. Tiếc rằng Bảo Đại cũng giống như các tiên đế, vai tṛ quá mờ nhạt trong khi nhận sự bảo hộ của người Pháp. Các vua cũng sử dụng niên hiệu này là Tộ Đế nước Liêu, Trung Tông, nước Nam Đường đều giống nhau là phúc lộc quốc tộ hết.
Thời kỳ đầu thân chính, Bảo Đại có hoài băo lớn lao cải cách, hy vọng Việt Nam có thể độc lập phú cường như Nhật Bản. Trong vài tháng, ông nhanh chóng tiến hành một số cải cách bao gồm băi bỏ các tập quán cũ lễ chế phong kiến. Ngày 2 tháng 5 năm 1933, Bảo Đại được Pasquier – bộ trưởng thuộc địa toàn quyền Pháp đồng ư, đă phát động “Đảo chính yên lặng”, giáng chức Nguyễn Hữu Bài và thân tín, đồng thời thăng chức các quan trẻ có tài Phạm Quỳnh, Ngô Đ́nh Diệm, Bùi Bằng Đoàn và đưa vào nội các.
Trong triều đ́nh, lần thay đổi nhân sự này của Bảo Đại không những được ḷng phái bảo hoàng đang muốn tăng quyền lực cho ông ủng hộ, đồng thời cũng nhận được sự ủng hộ của phái cấp tiến đang muốn thay đổi hiện trạng, tiến hành cải cách ủng hộ. Nhưng cải cách của Bảo Đại đă sớm gặp trở ngại, ông phát hiện ra ḿnh chẳng có mấy thực quyền, mất đi sự đồng ư của bộ trưởng thuộc địa toàn quyền, cải cách của Việt Nam bị đ́nh trệ, thế là ông bắt đầu cảm thấy thất vọng về cải cách.
Năm 1945, quan Nhật xâm nhập Đông Dương, Bảo Đại phát động đảo chính, tuyên bố Việt Nam độc lập thoát ly nước Pháp, đổi quốc hiệu là Việt Nam Đế Quốc, xưng là Việt Nam Hoàng Đế. Không lâu sau đó, quân Nhật chiến bại trong chiến tranh thế giới phải đầu hàng. Nhân cơ hội đó, Việt Minh phát động khởi nghĩa giành chính quyền, yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị. Vua Bảo Đại và triều đ́nh nhà Nguyễn chấp nhận yêu cầu, tự nguyện trao lại quốc tỷ và bảo kiếm tượng trưng cho địa vị thiên tử, chuyển giao quyền lực trong ḥa b́nh. Chế độ vua chúa Việt Nam cũng kết thúc từ đó. Những niên hiệu cũng chỉ c̣n lại trong kư ức.
luyenchuong3000_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	110254339_3220256188035158_9042106808932215780_n.jpg
Views:	0
Size:	46.8 KB
ID:	1624750 Click image for larger version

Name:	110313189_3220256191368491_3189537814964967842_n.jpg
Views:	0
Size:	35.6 KB
ID:	1624751
The Following User Says Thank You to luyenchuong3000 For This Useful Post:
phokhuya (07-24-2020)
Reply

User Tag List


Phim Bộ Videos PC2

 
iPad Tablet Menu

HOME

Breaking News

Society News

VietOversea

World News

Business News

Other News

History

Car News

Computer News

Game News

USA News

Mobile News

Music News

Movies News

Sport News

DEM

GOP

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Thơ Ca

Help Me

Sport Live

Stranger Stories

Comedy Stories

Cooking Chat

Nice Pictures

Fashion

School

Travelling

Funny Videos

NEWS 24h

HOT 3 Days

NEWS 3 Days

HOT 7 Days

NEWS 7 Days

HOT 30 Days

NEWS 30 Days

Member News

Tin Sôi Nổi Nhất 24h Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 3 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 7 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 14 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 30 Ngày Qua
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.


All times are GMT. The time now is 23:35.
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2006 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.
Log Out Unregistered

Page generated in 0.16471 seconds with 12 queries