10 năm qua, Trung Quốc ngày càng bành trướng thế lực ở Biển Đông. Sự kiện băi Tư Chính mới đây đánh dấu một bước leo thang mới của Trung Quốc trong chiến lược “tằm thực” mà nước này áp dụng suốt thập niên qua.
Ḥa b́nh ở biển Đông cần sự vào cuộc của cộng đồng quốc tế. Ảnh: REUTERS
Chuyên gia Gregory Poling, Giám đốc Tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI), nhận định Trung Quốc (TQ) cử tàu tiến hành khảo sát trái phép trong vùng biển gần băi Tư Chính - Vũng Mây nhằm bày tỏ thái độ không hài ḷng của Bắc Kinh trước quyết tâm thực hiện hoạt động kinh tế (phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, UNCLOS 1982 - PV) của Việt Nam (VN).
Vụ Tư Chính là bước đi ngắn…
“Dường như việc khảo sát của tàu khảo sát địa chất Hải Dương 9 là một phản ứng của TQ đối với hoạt động khai thác dầu khí của VN gần băi Tư Chính. Cho đến lúc này, lực lượng cảnh sát biển TQ đă cố gắng và đồng thời cũng thất bại trong việc ngăn cản hoạt động khai thác dầu khí (hợp pháp) của VN, tương tự như thất bại trong việc ngăn cản hoạt động khai thác dầu khí của Malaysia vào cuối tháng 5-2019. Việc thực hiện chương tŕnh khảo sát (gần băi Tư Chính) lần này là cách TQ gia tăng áp lực và chuyển tải thông điệp không hài ḷng đối với VN” - ông Gregory Poling trả lời Pháp Luật TP.HCM.
Đây không phải là lần đầu TQ tiến hành một bước leo thang gây ra phản ứng mạnh của các quốc gia ở biển Đông nói riêng và cộng đồng quốc tế nói chung. TS Ngô Hữu Phước, Phó Trưởng khoa Luật quốc tế, Trưởng bộ môn Công pháp quốc tế, ĐH Luật TP.HCM, nhận định “trong 10 năm qua, TQ đă nhiều lần xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền trên biển Đông của VN”. Cụ thể, TQ đă tuyên bố yêu sách đường chín đoạn “nuốt” gần trọn biển Đông, xây dựng cái mà TQ gọi là “thành phố Tam Sa”, hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, chiếm và cải tạo trái phép các thực thể ở Trường Sa và Hoàng Sa...
“Tâm điểm để TQ thị uy sức mạnh ở biển Đông chính là nhằm thực hiện mưu đồ “độc chiếm biển Đông”. Để đạt được tham vọng phi lư đó, TQ đă bất chấp luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS; sẵn sàng phá bỏ các cam kết chính trị với ASEAN và VN, trong đó có Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC)” - ông Phước nói.
Tuy nhiên, tất cả hoạt động gây hấn của Bắc Kinh đều có tính toán cường độ và thời điểm nhằm đảm bảo “chiến lược vùng xám” của họ đạt hiệu quả. Hiểu nôm na, Bắc Kinh dùng các biện pháp ngoại giao, quân sự, bán quân sự trên biển Đông nhằm o ép, cưỡng bức các quốc gia khác nhưng không để t́nh h́nh nghiêm trọng đến mức xung đột lớn.
“Từ vụ băi Tư Chính có thể thấy TQ thích sử dụng chiến thuật đe dọa, bắt nạt chứ không động đến lực lượng quân đội thật sự của nước này để bảo vệ yêu sách của ḿnh” - ông Gregory Poling nhận định. Chính v́ vậy, ông Gregory Poling cho rằng khi VN và các nước có yêu sách khác ở biển Đông (như Malaysia) phản kháng và quyết tâm khẳng định chủ quyền của ḿnh bất chấp lực lượng cảnh sát biển và dân quân biển TQ dọa nạt th́ Bắc Kinh sẽ xuống thang chứ không dùng đến quân đội để đối phó.
“TQ đă không dùng lực lượng quân sự để tấn công hoạt động kinh tế của VN với nước khác, bởi lẽ việc làm đó sẽ đẩy t́nh h́nh khu vực leo thang nhanh chóng và làm tổn hại nghiêm trọng h́nh ảnh của TQ đang muốn xây dựng - “lănh đạo toàn cầu”” - ông Gregory Poling khẳng định.
Trong một kế hoạch thập niên của Trung Quốc
TQ rơ ràng đă có tính toán “thập niên” hoặc thậm chí dài hơi hơn khi họ “gặm nhấm” từng phần biển Đông (hay c̣n gọi là chiến lược “tằm thực”). Chiến lược “vùng xám” là giải pháp để Bắc Kinh từng bước chinh phục biển Đông mà không dùng đến quân đội.
“Chiến lược của TQ là rất rơ ràng: Họ muốn dùng các chiêu bài bắt nạt, đe dọa để từng bước đẩy tất cả quốc gia láng giềng ra khỏi biển Đông, từ đó thiết lập sự thống trị với vùng trời và vùng biển tại khu vực này” - theo chuyên gia Gregory Poling.
Cùng quan điểm trên, TS Ngô Hữu Phước cho rằng đây chính là chiến lược “xâm lược mềm” của TQ. Các hành vi này được Bắc Kinh thực hiện một cách bài bản, có hệ thống nhằm từng bước thay đổi hiện trạng ở biển Đông, cụ thể hóa âm mưu và tham vọng độc chiếm biển Đông. “Thiết lập vành đai liên hoàn với ba điểm tiền tiêu chiến lược từ bắc xuống nam gồm: Đảo Hải Nam, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa để từ đó kiểm soát, khống chế toàn bộ tuyến đường hàng hải, hàng không và mọi hoạt động trên biển Đông, biến biển Đông thành “ao nhà” của TQ” - ông Phước nhận định.
TQ “ném đá ḍ đường”, thăm ḍ phản ứng của các nước và dư luận quốc tế để có thể chọn thời điểm, địa điểm tiến hành các hoạt động gây hấn, lấn lướt ở biển Đông. Việc Bắc Kinh gia tăng cải tạo các thực thể, không ngại các va chạm nhỏ với tàu đánh cá, hay dọa nạt các hoạt động khai thác kinh tế,... rơi vào thời điểm (i) kinh tế TQ phát triển hùng mạnh, quân đội và dân quân biển được tăng cường; (ii) vai tṛ của Mỹ tại khu vực suy yếu và thiếu vắng thể chế pháp lư giữa TQ-ASEAN tại biển Đông.
Chuyên gia Gregory Poling cho rằng “cả chính quyền Tổng thống Donald Trump và người tiền nhiệm Barack Obama đều không có giải pháp đối phó chiến lược lấn biển của TQ một cách hiệu quả”. Cả hai tổng thống Mỹ đă phụ thuộc quá nhiều vào Bộ Quốc pḥng. Trong khi đó, vấn đề cốt lơi tại biển Đông vốn không chỉ là vấn đề quân sự và không thể giải quyết bằng quân đội, khí tài. Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao đang thiếu những nỗ lực cấp cao, đó mới chính là giải pháp cần thiết cho biển Đông.
Biển Đông thuộc chủ quyền của từng quốc gia đơn lẻ, trong đó có Malaysia, Philippines, Việt Nam,.... nhưng lại chứa đựng quyền lợi to lớn của phần đông thế giới, không loại trừ Mỹ, châu Âu, Úc, Nhật, Hàn Quốc,... Các nước này cần có một chiến lược ngoại giao tổng thể nhằm thúc đẩy các chương tŕnh pháp lư, kinh tế lẫn quân sự để ngăn cản TQ thực hiện chiến lược “vùng xám”, từng bước “gặm nhấm” biển Đông.