Cứ ngỡ thời xa xưa không có chuyện vợ được phép bỏ chồng, nhưng t́m hiểu th́ hoàn toàn ngược lại. Chúng ta sẽ thấy những điều thú vị xung quanh việc ly hôn dưới thời Nhà Đường mà không thể ngờ tới. C̣n chần chừ ǵ nữa, cùng t́m hiểu nào!
Vợ chồng có thể thỏa thuận ly hôn và phải có chứng nhận từ người thân hai bên, nhà trai cũng phải bồi thường cho nhà gái.
Theo People Daily, vào thời cổ đại, việc ly hôn ở Trung Quốc c̣n khá tự do. Phải đến đầu thời Chu (1046-256 TCN), chế độ gia đ́nh phụ quyền mới dần thiết lập. Từ thời kỳ Tây Chu (1046-771 TCN) đến Xuân Thu Chiến quốc (770-221 TCN), chế độ gia đ́nh phụ quyền vẫn chưa được củng cố, trong Kinh Dịch thậm chí c̣n ghi lại chuyện vợ bỏ nhà đi.
Đến triều đại của Tần Thủy Hoàng (259-210 TCN), chế độ gia đ́nh mà người đàn ông làm chủ mới vững chắc hơn. Tới thời Đường - Tống (618-1279), ư thức phụ quyền trở nên mạnh mẽ, thân phận người phụ nữ trở nên thấp hèn. Phụ nữ thời này không được tự ư lấy chồng khác, chỉ khi chồng bỏ trốn mới được phép xin quan phủ cho ly hôn.
Việc ly hôn của giới quư tộc cổ đại có những thủ tục nhất định. Theo "Lễ kư", hay c̣n gọi là "Kinh Lễ", một quyển trong bộ Ngũ Kinh của Khổng Tử, ngoài nghi thức cho chồng bỏ vợ c̣n có nghi thức cho vợ bỏ chồng, cả bên bỏ và bên bị bỏ đều phải nhẹ nhàng tự kiểm điểm.
Phóng thê thư (giấy bỏ vợ), tức văn bản chứng thực ly hôn của tầng lớp quư tộc vào thời Đường. Ảnh: People’s Daily.
Luật hôn nhân triều Hán soạn
Cửu chương luật (Luật 9 chương) do Tiêu Hà triều Hán soạn, trong chương Hộ luật bao gồm nội dung về hôn nhân, quy định nam lấy vợ lẽ là hợp pháp, “7 điều bác bỏ” nói lư do chồng bỏ vợ, c̣n người vợ tự ư cải giá hoặc chồng chết chưa chôn mà cải giá đều bị “bỏ chợ” (chém đầu phơi thây giữa chợ). Cũng là hành vi thông dâm, cách xử phạt đối với nam và nữ rất không công bằng. Chồng thông dâm với vợ người khác th́ chỉ bị đánh đ̣n, c̣n vợ thông dâm với người khác th́ bị xử chém. Theo nhà nghiên cứu Đàm Đại Chính (Trung Quốc), thời Tam Quốc, Lưỡng Tấn, Nam Bắc Triều cơ bản thừa kế luật nhà Hán, có tăng giảm đôi chút.
Phóng thê thư - chứng nhận ly hôn
Vĩnh Huy pháp sơ (Luật Đường) do Đường Cao Tông Vĩnh Huy ban bố năm 651 là một bộ luật hoàn chỉnh nhất của thời phong kiến Trung Quốc c̣n giữ được. Nó bảo vệ toàn diện loại hôn nhân mua bán, bao biện phong kiến (do cha mẹ làm chủ). Nam nữ thành hôn phải có thủ tục “giấy kết hôn”, và lấy “thất xuất” và “nghĩa tuyệt” làm điều kiện ly hôn. “Thất xuất” là bảy loại lư do nhà chồng thời xưa nêu ra để bỏ vợ, bắt nguồn từ thời Xuân Thu, xă hội phong kiến tiếp tục vận dụng. Bảy lư do là: Không con, dâm dật, không thờ cha mẹ chồng, lắm lời, trộm cắp, ghen tỵ, bệnh hiểm nghèo. “Nghĩa tuyệt” ư nói vợ chồng hai bên đánh lộn nhau, giết chóc nhau, không c̣n t́nh nghĩa, nên phải ly hôn.
Phụ nữ TQ xưa được quyền ly hôn với chồng
Trong Luật Đường, địa vị vợ chồng không b́nh đẳng. “Sống chung tất có tôn trưởng”, gia trưởng trong gia đ́nh có quyền chi phối rất lớn. Chồng lấy vợ lẽ là hợp pháp, nhưng thê thiếp phân biệt nghiêm ngặt. Người lấy thê (vợ) làm thiếp (vợ lẽ), lấy t́ (đầy tớ) làm thê (vợ), lấy thiếp (vợ lẽ) làm thê (vợ), lấy t́ (đầy tớ) làm thê (vợ lẽ) đều bị đánh đ̣n.
Từ bản "Phóng thê thư" của một quư tộc thời Đường (618-907), có thể thấy địa vị nam nữ tương đối b́nh đẳng. Tờ giấy này có vai tṛ như đơn ly hôn thời nay nhưng có chút khác biệt. Nội dung của Phóng thê thư thường được chia làm ba đoạn.
Đoạn đầu nhắc lại về duyên phận vợ chồng đồng cam cộng khổ, như cá với nước, vui vẻ bên nhau tới khi bạc đầu. Đoạn thứ hai miêu tả t́nh trạng hôn nhân hiện tại, hai người tính cách không ḥa hợp, thường xảy ra căi vă khiến họ hàng hai bên trách móc, nay không thể tiếp tục bên nhau. Đoạn cuối cùng là lời chúc phúc sau ly hôn.
Nếu hai người đă không thể chung sống, chẳng thà vui vẻ nói lời từ biệt và chúc nhau hạnh phúc. Phía cuối đơn ly hôn ghi rơ, nhà trai phải gửi phí bồi thường cho nhà gái. Hơn nữa, đơn ly hôn cần được hai bên gia đ́nh, họ hàng thân thích làm chứng.
Vietbf @ sưu tầm.