Mới đây, ết quả của một nghiên cứu cho thấy, trẻ em sinh ra từ những trường hợp gặp khó khăn về khả năng sinh sản, có thể có nguy cơ mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ (ASD) cao hơn.
Số trẻ em được chẩn đoán mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ (ASD) tiếp tục gia tăng trên toàn thế giới. Trong đó, tại Hoa Kỳ, dữ liệu giám sát của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) chỉ ra rằng, vào năm 2010, cứ 68 trẻ th́ có 1 trẻ mắc chứng tự kỷ. Tuy nhiên, đến năm 2020, con số đó đă tăng lên 1/36 trẻ.
Mặc dù tỷ lệ mắc bệnh ngày càng gia tăng nhưng các nhà khoa học vẫn chưa xác định được nguyên nhân gây ra bệnh tự kỷ. Nghiên cứu đă tiết lộ rằng di truyền, các yếu tố môi trường như tiếp xúc với thuốc trừ sâu và nhiễm trùng ở trẻ em có thể đóng một vai tṛ nào đó. Ngoài ra, các nhà khoa học đă t́m thấy mối liên hệ giữa bệnh tự kỷ và hệ sinh vật đường ruột.
Nghiên cứu trước đây cũng cho thấy trẻ em được thụ thai bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản có nhiều khả năng mắc ASD hơn.
Nghiên cứu được công bố ngày 20/11/2023 trên tạp chí Nhi khoa cho thấy, trẻ em sinh ra từ những người bị vô sinh có nhiều khả năng mắc chứng tự kỷ hơn, nhưng các phương pháp điều trị sinh sản dường như không phải là một yếu tố.
Nghiên cứu về bệnh vô sinh và tự kỷ
Các nhà nghiên cứu đă quan sát 1,3 triệu trẻ em sinh ra ở Ontario, Canada, từ năm 2006 đến năm 2018. Các nhà khoa học đă so sánh những đứa trẻ được sinh ra từ những người không bị vô sinh và những đứa trẻ được sinh ra nhưng không trải qua các phương pháp điều trị sinh sản. Họ cũng xem xét những đứa trẻ được thụ thai thông qua phương pháp kích thích rụng trứng (OI), thụ tinh trong tử cung (IUI), thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) hoặc tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (ICSI).
Nhóm nghiên cứu đă theo dơi những đứa trẻ này trong thời gian trung b́nh là 8 năm.
Trong thời gian nghiên cứu, 22.409 trẻ em được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ. Sau khi tính toán rủi ro ASD bằng cách sử dụng phép đo người/năm, nhóm nghiên cứu nhận thấy tỷ lệ mắc ASD là 1,9 trên 1.000 người/năm ở trẻ sinh ra từ những người không gặp khó khăn về khả năng sinh sản, 2,5 trên 1.000 người/năm ở trẻ sinh ra từ những người vô sinh, và 2,7 trên 1.000 người/năm ở những người trẻ tuổi được thụ thai thông qua các phương pháp điều trị sinh sản.
Các tác giả của nghiên cứu cho biết, những đứa trẻ sinh ra từ những người bị vô sinh không trải qua điều trị vô sinh cũng có nguy cơ tự kỷ tương tự, nghĩa là bản thân vô sinh chứ không phải phương pháp điều trị có thể làm tăng nguy cơ mắc ASD.
Tuy nhiên, các nhà khoa học cho biết, kết quả bất lợi khi mang thai cũng có thể đóng vai tṛ gây ra nguy cơ tự kỷ. Họ cũng lưu ư rằng những người gặp khó khăn về khả năng sinh sản trong nghiên cứu đều lớn tuổi hơn và có tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường cũng như huyết áp cao hơn trước khi mang thai.
Trưởng nhóm nghiên cứu Maria P. Velez, nhà khoa học lâm sàng tại Đại học Queen, Ontario, Canada, cho biết: "Kết quả của chúng tôi cũng cho thấy một số yếu tố sản khoa, như sinh đôi hoặc sinh ba, hoặc sinh non, làm trung gian cho tỷ lệ lớn về mối liên quan giữa vô sinh của cha mẹ và ASD."
V́ những phát hiện của họ, nhóm nghiên cứu cho biết cần có những chiến lược hiệu quả hơn để giảm bớt kết quả bất lợi khi mang thai ở những người bị vô sinh.
Ngoài ra, cơ chế đằng sau mối liên hệ giữa vô sinh và bệnh tự kỷ cần được nghiên cứu thêm.
Nhà khoa học Velez giải thích thêm: "Chúng tôi cần làm rơ hơn về chẩn đoán vô sinh cơ bản, các yếu tố từ người cha và liệu tế bào trứng (trứng) hay tinh trùng là từ cha mẹ hay người hiến tặng, cùng các yếu tố khác".
VietBF@ sưu tập
|