https://www.rbth.com/history/332396-...inst-americans
Liên Xô có ba mục tiêu rơ ràng trong cuộc xung đột ở Việt Nam: duy tŕ lợi thế hợp tác ḥa b́nh với Hoa Kỳ; ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc và vai tṛ của chúng trong thắng lợi cuối cùng cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản; và giảm bớt ảnh hưởng của Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa (PRC) trong phong trào cộng sản thế giới. CHND Trung Hoa là một nhân tố chính từ lập trường của Liên Xô. Bề ngoài, Moscow đang "thúc đẩy" các cuộc đàm phán trong khi chứng kiến cuộc xung đột kéo dài làm suy yếu sức mạnh của kẻ thù quốc tế lớn của ḿnh. Việc Washington lặp đi lặp lại việc ném bom ngay sau khi đề xuất một sáng kiến nhằm giảm bớt sự thù địch đă làm xói ṃn uy tín của Moscow.
Ban đầu, Bắc Việt Nam thừa nhận Liên Xô là lănh đạo của "phe xă hội chủ nghĩa" và dành cho Moscow vị trí đầu tiên trong các bài điếu văn của họ đối với các nước Cộng sản. Nếu không có Cách mạng Tháng Mười Nga th́ đă không có Đảng Cộng sản Đông Dương, tiền thân của ĐCSVN ngày nay. Nếu Hồng quân Liên Xô không đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản th́ không bao giờ có cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam. Nếu Liên Xô không hùng mạnh th́ Việt Nam đă không thể đánh thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bọn phản động quốc tế.
Đồng chí Hồ Chí Minh lúc đó đang ở Pháp, là người Việt Nam đầu tiên sau khi đọc bản thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đă nhận ra chân lư rằng, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác. hơn con đường cách mạng vô sản. (Hồ Chí Minh: “Măi Đi Theo Con Đường Lênin Vĩ Đại,” NXB Sự Thật, Hà Nội, 1970, trang 51) Từ đó, chủ nghĩa Mác-Lênin truyền bá vào Việt Nam.
Hồ Chí Minh viết “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại đă mở ra con đường giải phóng các dân tộc” [1 tháng 11 năm 1967] “Đi theo con đường mà Lê-nin vĩ đại đă vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đă giành được những thắng lợi to lớn V́ vậy, t́nh cảm gắn bó và ḷng biết ơn mà người Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, Lênin vĩ đại và nhân dân Liên Xô là vô cùng sâu sắc”.
Tuy nhiên, kể từ khi Trung Quốc Cộng sản trỗi dậy và quan hệ Trung-Xô xấu đi, Bắc Việt Nam cũng như các quốc gia Cộng sản khác đă duy tŕ quan điểm rằng tất cả các quốc gia "xă hội chủ nghĩa" đều b́nh đẳng và độc lập. Tuy nhiên, nó thừa nhận rằng Liên Xô đă đóng góp quan trọng trong viện trợ kinh tế và quân sự, đặc biệt là từ đầu năm 1965 khi Mátxcơva khởi xướng các biện pháp nhằm cải thiện "tiềm năng quốc pḥng" của Hà Nội.
Sự nhấn mạnh của Liên Xô về can thiệp quân sự bắt đầu với viện trợ của Liên Xô cho Cuba và Việt Nam. Cả hai nước đều phải đối đầu với Hoa Kỳ. Viện trợ quân sự cho Ai Cập, Syria và Iraq là nhằm vào Israel, được coi là tiền đồn của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam bắt đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai để hỗ trợ Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh chống lại sự cai trị của Pháp. Viện trợ này tiếp tục sau khi Việt Nam bị chia cắt. Quân du kích do Bắc Việt hậu thuẫn đă cố gắng lật đổ chính phủ Nam Việt Nam bằng cách sử dụng viện trợ này. Ước tính tổng chi phí hỗ trợ của Liên Xô cho chính phủ Bắc Việt Nam dao động từ 3,6 tỷ đến 8 tỷ đô la [bằng đô la Mỹ năm đó].
Các nhà lănh đạo cấp cao và các quan chức khác của hai chính phủ cũng đă tham khảo ư kiến trong các chuyến thăm thủ đô của nhau: Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1955 và 1957; Phó Thủ tướng Liên Xô Anastas Mikoyan năm 1956 và Tổng thống Kliment Y. Voroshilov năm 1957. Tại Đại hội Đảng Lao Động năm 1960, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ủng hộ luận điểm của Liên Xô về khả năng tránh chiến tranh công khai với các cường quốc đế quốc và về tầm quan trọng chiến thuật của ḥa b́nh. chung sống với phương Tây. Về phần ḿnh, đại diện Đảng Cộng sản Liên Xô tuyên bố chính phủ của ông có ư định mở rộng hợp tác với Bắc Việt Nam.
Một thỏa thuận được kư kết với Moscow vào tháng 12 năm 1960 đảm bảo với Hà Nội về sự hỗ trợ kinh tế và kỹ thuật của Liên Xô; một cam kết tương tự của Liên Xô đă được đưa ra trong một thỏa thuận được kư vào tháng 9 năm 1962. Từ năm 1961 đến cuối năm 1964, quan hệ của Hà Nội với Mátxcơva nói chung là thân thiện, mặc dù có những dấu hiệu, đặc biệt là sau tháng 3 năm 1963, rằng Hà Nội có khuynh hướng đồng ư với quan điểm quân sự của Bắc Kinh trong các tranh chấp ư thức hệ giữa Trung Quốc Cộng sản và Liên Xô.
Tại kỳ họp thứ 16 của Đại hội đồng Liên hợp quốc (1961), Liên Xô đề nghị tuyên bố năm 1962 là năm xóa bỏ hoàn toàn chủ nghĩa thực dân và yêu cầu chấm dứt chiến tranh xâm lược, xóa bỏ căn cứ quân sự ở nước ngoài. Trong thời kỳ này, các quốc gia khác nhau đă giành được những thắng lợi to lớn và liên tục trong cuộc đấu tranh dũng cảm của họ.
Bắt đầu từ tháng 11 năm 1964, quan hệ với Liên Xô chuyển sang một bước ngoặt mới, rơ ràng là do ư định rơ ràng của Mátxcơva là hỗ trợ tích cực cho Hà Nội trong cuộc đối đầu chính trị và quân sự với Hoa Kỳ. Ngày 17 tháng 11 năm 1964, Bộ Chính trị Liên Xô quyết định tăng viện trợ cho Bắc Việt Nam. Viện trợ này bao gồm máy bay, radar, pháo binh, hệ thống pḥng không, vũ khí nhỏ, đạn dược, thực phẩm và vật tư y tế. Họ cũng gửi nhân viên quân sự Liên Xô đến Bắc Việt Nam-Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa (DRVN). Khoảng 15.000 nhân viên Liên Xô đă phục vụ ở Đông Dương với tư cách là cố vấn và đôi khi là chiến binh. Phần lớn nhất của các nhân viên cố vấn Liên Xô là các sĩ quan pḥng không.
Vào tháng 2 năm 1965, Thủ tướng Liên Xô Aleksei N. Kosygin đến thăm Hà Nội, cùng với Nguyên soái Không quân Konstantin Vershinin, người từng là Tổng tư lệnh Lực lượng Không quân Liên Xô và Thứ trưởng Bộ Quốc pḥng. Một thông cáo chung được đưa ra khi kết thúc chuyến thăm của ông vào ngày 10 tháng 2 đă thông báo rằng hai bên. các chính phủ đă kư một thỏa thuận về các biện pháp tăng cường “tiềm năng quốc pḥng” của Hà Nội. Sau khi trở về Moscow, Thủ tướng Kosygin nói rằng chính phủ của ông đă thực hiện các bước cần thiết để thực hiện thỏa thuận. Có vẻ như viện trợ quân sự của Liên Xô chủ yếu bao gồm tên lửa đất đối không (SAM), máy bay chiến đấu phản lực và cố vấn kỹ thuật. Vào cuối tháng 3 năm 1965, Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô, Leonid I. Brezhnev, thông báo rằng chính phủ của ông đă nhận được "nhiều đơn" từ các công dân Liên Xô đề nghị làm t́nh nguyện viên tại Việt Nam.
Kể từ năm 1965, Liên Xô và Trung Quốc Cộng sản đă mặc cả về viện trợ quân sự mà mỗi bên đang cung cấp cho Bắc Việt Nam và về cơ chế vận chuyển viện trợ của Liên Xô cho Bắc Việt Nam. Tranh chấp là một khía cạnh của cuộc xung đột Trung-Xô rộng lớn hơn và đan xen với các vấn đề phát sinh từ các cuộc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt. Các phần của cuộc tranh luận tiếp tục nổi lên, định kỳ trong các cuộc trao đổi luận chiến giữa Moscow và Bắc Kinh.
Cả Mátxcơva và Bắc Kinh, trong suốt cuộc tranh chấp, đều có những cân nhắc khác ngoài nhu cầu chiến tranh của Bắc Việt Nam. Mục đích quan trọng nhất của Liên Xô là sử dụng viện trợ cho Việt Nam như một phương tiện để tăng cường ảnh hưởng của Mátxcơva đối với Hà Nội và các nơi khác với cái giá phải trả là Bắc Kinh. Sự thù địch chính trị giữa Trung Quốc và Liên Xô và sự cạnh tranh quân sự đă làm hạn chế ở một mức độ nào đó những viện trợ mà Bắc Việt nhận được và cách họ nhận được. Do Trung Quốc khăng khăng đ̣i quyền kiểm tra các chuyến hàng của Liên Xô quá cảnh đến Bắc Việt Nam, Liên Xô dường như đă giữ lại hoặc tŕ hoăn việc vận chuyển một số thiết bị quân sự tinh vi. Thứ ba, cả Moscow và Bắc Kinh đều bị hạn chế trong việc viện trợ cho Bắc Việt Nam v́ mong muốn tránh xung đột trực tiếp với Hoa Kỳ.
Liên Xô nhiều lần gợi ư rằng họ tin rằng Trung Quốc muốn kích động xung đột giữa Liên Xô và Hoa Kỳ ở Vịnh Bắc Bộ. Một lá thư của CPSU được phổ biến rộng răi cho các bên khác vào tháng 2 năm 1966 tuyên bố rằng người Trung Quốc t́m kiếm một cuộc xung đột như vậy "để có thể, như chính họ nói, 'quan sát trận chiến của những con hổ khi ngồi trên đồi'." Vào tháng 4 Năm 1966, các nhà lănh đạo Liên Xô lưu hành một tài liệu tại Đại hội CPSU lần thứ 23 cáo buộc Trung Quốc cố gắng buộc Liên Xô vận chuyển viện trợ quân sự bằng đường biển và mạo hiểm đụng độ với Hạm đội 7, và do đó buộc Liên Xô phải đối đầu.
Chính phủ Hà Nội tiếp tục nhận được sự hỗ trợ từ Moscow trên các mặt trận chính trị, quân sự và kinh tế. Moscow tán thành các đề xuất ḥa b́nh của cả Hà Nội và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Liên Xô, trong các thỏa thuận được kư lần lượt vào tháng 7 năm 1965 và tháng 12 năm 1965, cũng cam kết tăng cường viện trợ quân sự và kinh tế.
Đầu tháng 3 năm 1965 (có lẽ theo những hiểu biết mà Kosygin đă đạt được với người Việt Nam tại Hà Nội vào tháng 2), Liên Xô đề xuất gửi tới VNDCCH bằng đường sắt qua Trung Quốc tám tiểu đoàn SAM và bốn ngh́n cố vấn và kỹ thuật viên Liên Xô. Trung Quốc phản đối mạnh mẽ, nhưng họ đă nhiều lần tuyên bố vào tháng 4 và tháng 5 rằng chính sự miễn cưỡng của Bắc Việt Nam trong việc chấp nhận nhân viên Liên Xô đă khiến lời đề nghị bị từ chối. Mặt khác, Liên Xô tuyên bố rằng Trung Quốc đang đặt giới hạn cho quá cảnh. của nhân viên Liên Xô. Dưới ảnh hưởng của cuộc ném bom ngày càng tăng của Hoa Kỳ, VNDCCH đă thuyết phục Trung Quốc cho phép một số lượng hạn chế nhân viên SAM của Liên Xô đi qua. Măi đến ngày 24 tháng 7 năm 1965, SAM mới được khai hỏa lần đầu tiên bởi các kíp lái Liên Xô.
Vào tháng 12 năm 1965, tờ báo quân đội Liên Xô, Red Star, lần đầu tiên đưa tin rằng các tên lửa pḥng không của Liên Xô đă được cung cấp cho miền Bắc Việt Nam. Vẫn c̣n một cam kết hỗ trợ kinh tế và quân sự khác của Moscow được đưa ra trong một thỏa thuận được kư kết vào tháng 1 năm 1966, khi Aleksandr N. Shelepin, một thành viên của Đoàn Chủ tịch và Ban Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, đến thăm Hà Nội.
Mức độ viện trợ của Liên Xô, mặc dù chưa bao giờ được công bố chính thức, đă được báo cáo bởi nhiều nguồn khác nhau. Vào tháng 2 năm 1966, Chủ tịch Đảng Cộng sản Canada, Tim Buck, được Đài phát thanh Djakarta dẫn lời nói rằng khoảng 5.000 người Bắc Việt Nam đang được đào tạo tại Liên Xô để trở thành phi công chiến đấu. Thông tin này được cho là đă nhận được từ Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Đảng Cộng sản Canada đến thăm Hà Nội vào cuối năm 1965. Mức độ viện trợ của Liên Xô dành cho Hà Nội được ước tính trong một số quư là "trị giá khoảng nửa tỷ rúp", từ lắp đặt tên lửa cho máy bay, xe tăng và tàu chiến.
Tháng 3 năm 1966, Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Đảng Lao Động, làm trưởng đoàn sang Mátxcơva dự Đại hội lần thứ XXIII Đảng Cộng sản Liên Xô. Cộng sản Trung Quốc đă tẩy chay Đại hội này. Trong bài phát biểu trước Đại hội, Lê Duẩn tuyên bố rằng ông ta có hai tổ quốc, Bắc Việt Nam và Liên Xô, và cảm ơn Moscow v́ "sự viện trợ to lớn và nhiều mặt".
Vào tháng 8 năm 1966, chính quyền Liên Xô xác nhận rằng một số phi công chiến đấu Bắc Việt Nam không được tiết lộ đang được đào tạo tại Liên Xô. Ngoài ra, Đài phát thanh Mátxcơva ngày 2 tháng 10 năm 1966 lần đầu tiên thông báo rằng các sĩ quan và chuyên gia Liên Xô đă được cử đến miền Bắc Việt Nam để huấn luyện các đơn vị pḥng không sử dụng tên lửa đất đối không do Liên Xô sản xuất. Nhân Dân công bố vào tháng 10 rằng Hà Nội đă kư tại Moscow một thỏa thuận về khoản viện trợ "không hoàn lại" mới của Liên Xô cho Việt Nam và một thỏa thuận về các khoản vay bổ sung của Liên Xô cho Việt Nam trong năm 1967.
Liên Xô rơ ràng đă rất lo lắng về tuyến đường biển tiếp tế cho Bắc Việt Nam - kênh chính cho các chuyến hàng hỗ trợ kinh tế và quân sự của Liên Xô cho VNDCCH. Liên Xô lo ngại về việc Hoa Kỳ ném bom các cảng VNDCCH và về khả năng Hoa Kỳ có thể thực hiện các bước để đóng các cảng VNDCCH bằng cách khai thác hoặc phong tỏa. Thông qua các cuộc phản đối mạnh mẽ lặp đi lặp lại, Liên Xô đă t́m cách truyền đạt ấn tượng rằng Liên Xô coi việc tiếp cận các cảng VNDCCH là quan trọng đối với lợi ích của Liên Xô.
Điều mà Liên Xô rơ ràng muốn là một cách để vận chuyển vũ khí bằng đường biển đến Viễn Đông, nhưng lại có người khác đảm nhận gánh nặng vận chuyển thực tế cho VNDCCH. Một giải pháp như vậy sẽ khả dụng nếu Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận các chuyến hàng của Liên Xô tại các cảng Trung Quốc - chẳng hạn như Canton - để trung chuyển đến VNDCCH bằng đường sắt hoặc bằng tàu Trung Quốc.
Sau sự cố đi ngang ngày 02 tháng 6 năm 1967 tại cảng Campha của VNDCCH, một công hàm của Bộ Ngoại giao Liên Xô đe dọa "sẽ thực hiện các biện pháp thích hợp để đảm bảo an toàn cho các tàu của Liên Xô" nếu sự cố được báo cáo. Vào ngày 05 tháng 1 năm 1968, sau khi hai sự cố nữa đă thực sự xảy ra, một công hàm phản đối của Liên Xô nói rằng "các bộ phận tương ứng của Liên Xô sẽ buộc phải thực hiện các biện pháp để đảm bảo an toàn cho các tàu của Liên Xô đi đến các cảng VNDCCH."
Có thể là hải quân Liên Xô, vào mùa xuân năm 1967, đă được chỉ thị chuẩn bị các kế hoạch dự pḥng cho một nỗ lực có thể xảy ra của Liên Xô nhằm phá vỡ một cuộc phong tỏa giả định của Hoa Kỳ đối với Hải Pḥng - để ngỏ việc thực hiện như một vấn đề cho quyết định của bộ chính trị. Bộ trưởng Quốc pḥng Tiệp Khắc Lomsky đă báo cáo với đại học của Bộ rằng Liên Xô đă ra lệnh cho hải quân Liên Xô hộ tống các tàu buôn Liên Xô trong trường hợp Hải Pḥng bị phong tỏa hoặc tàu Liên Xô bị đánh bom ở cảng Hải Pḥng. Lệnh này cũng được cho là kêu gọi các nỗ lực phá vỡ bất kỳ sự phong tỏa nào, bao gồm cả các bước để quét sạch các băi ḿn. Lomsky, người vừa trở về từ Moscow, nói rằng Liên Xô đă nói với ông rằng họ sẽ chống lại bất kỳ động thái nào của Hoa Kỳ nhằm ngăn cản các tàu Liên Xô đến Hải Pḥng. Lệnh của Liên Xô được cho là đă ban hành vào thời điểm khi các tuyên bố của Hoa Kỳ chỉ ra khả năng phong tỏa Hải Pḥng. Tuy nhiên, trên thực tế không có tàu hộ tống của hải quân Liên Xô nào được cung cấp.
Liên Xô chỉ ra rằng một số vũ khí do VNDCCH yêu cầu đă bị từ chối. Tài liệu của CPSU về viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam được lưu hành giữa những người Cộng sản nước ngoài đến thăm Moscow vào tháng 11 năm 1967, nói rằng "Liên Xô đă nhanh chóng đáp ứng trên thực tế tất cả các yêu cầu của VNDCCH về việc cung cấp thiết bị quân sự." VNDCCH đă không nhận được các tàu tuần tra bắn tên lửa dẫn đường lớp KOMAR hoặc OSA mà họ muốn và dường như đă có lúc nghĩ rằng họ sẽ nhận được. Việc không nhận được những chiếc thuyền như vậy hẳn khiến VNDCCH đặc biệt khó chịu v́ trong thập kỷ trước, Liên Xô đă phân phát KOMAR và OSA cho khoảng một chục quốc gia trên thế giới, bao gồm cả một số quốc gia mà VNDCCH phải coi là kém xứng đáng hơn nhiều so với chính họ.
Các con số viện trợ quân sự phản ánh mức độ và cường độ của các hoạt động chiến đấu ở Đông Dương. Mức cao năm 1968 là kết quả của cả hai yêu cầu thay thế thiết bị của lực lượng mặt đất sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 và việc chuyển giao một lượng đáng kể thiết bị pḥng không của Liên Xô trước khi ngừng ném bom vào năm đó. Mức độ chiến đấu thấp hơn trong hai năm tiếp theo và viện trợ quân sự giảm. Xu hướng này đă bị đảo ngược vào năm 1971 khi Hà Nội bắt đầu chuẩn bị cho cuộc tấn công mùa xuân năm 1972. Hỗ trợ quân sự lại tăng mạnh vào năm 1972, phản ánh sự gia tăng trong việc cung cấp thiết bị cho lực lượng mặt đất và thiết bị pḥng không. Các lô hàng rơ ràng đă bị từ chối vào năm 1973 sau thỏa thuận ngừng bắn.
Viện trợ kinh tế từ Liên Xô vượt quá 300 triệu đô la hàng năm trong giai đoạn tái thiết năm 1968~71 và có thể cao hơn nếu khả năng hấp thụ của Bắc Việt Nam không bị hạn chế như vậy. Tuy nhiên, viện trợ của Liên Xô đă giảm mạnh vào năm 1972 do việc khai thác các cảng của Bắc Việt Nam và ngừng hoạt động tái thiết trong cuộc ném bom năm 1972.
Sau khi thành công chiếm miền Nam Việt Nam vào năm 1975, Hà Nội đă t́m cách duy tŕ trạng thái cân bằng trong quan hệ thời chiến với cả Trung Quốc và Liên Xô, nhưng căng thẳng gia tăng với Bắc Kinh, lên đến đỉnh điểm là mất viện trợ của Trung Quốc vào năm 1978, buộc Hà Nội ngày càng hướng về Moscow. để được giúp đỡ về kinh tế và quân sự. Bắt đầu từ cuối năm 1975, một số hiệp định quan trọng đă được kư kết giữa hai nước. Một bên điều phối các kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia của hai nước, và một bên kêu gọi Liên Xô tài trợ cho Kế hoạch 5 năm đầu tiên sau thống nhất của Việt Nam. Liên minh chính thức đầu tiên đạt được vào tháng 6 năm 1978 khi Việt Nam gia nhập Comecon.