Các biến chứng ở mắt trong giai đoạn đầu của đái tháo đường thường không ảnh hưởng tới thị lực, do đó dễ bị người bệnh bỏ qua, dẫn đến nguy cơ mù ḷa.
Theo thông tin từ Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM mới đây, cơ sở y tế này vừa tiếp nhận bệnh nhân Đ.V.L (56 tuổi, ngụ tại TP.HCM) mắc bệnh đái tháo đường loại 2 hơn 7 năm nay.
Khoảng 2 tháng gần đây, ông L xuất hiện t́nh trạng mắt nh́n mờ, thỉnh thoảng không phân biệt được màu sắc.
Trong quá tŕnh tái khám tại Pḥng khám Nội tiết của Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, ông L được chỉ định tầm soát bệnh vơng mạc đái tháo đường. Lúc này, bác sĩ khoa Mắt chẩn đoán ông bị bệnh vơng mạc đái tháo đường tiền tăng sinh.
Bệnh nhân được kiểm tra mắt tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM. (Ảnh: BVCC)
Từ đây, bệnh nhân được chỉ định điều trị bằng laser quang đông toàn vơng mạc. Đến nay, sức khỏe bệnh nhân hồi phục. Thị lực của ông L đạt 9/10 ở mắt phải và 8/10 mắt trái, bệnh không diễn biến nặng thêm, không xuất hiện tân mạch vơng mạc hoặc xuất huyết vơng mạc tái phát.
Các bác sĩ cũng chỉ định người bệnh tiếp tục tuân thủ điều trị đái tháo đường và tái khám chuyên khoa Nội tiết, chuyên khoa Mắt đúng lịch.
Nguy cơ mù ḷa hàng đầu nhưng ít được phát hiện
TS Trần Quang Nam, Trưởng khoa Nội tiết, cho biết biến chứng của bệnh đái tháo đường thường diễn biến âm thầm và có thể xảy ra đa dạng trên nhiều bộ phận cơ thể như năo, tim mạch, thận, mắt, hệ mạch máu và thần kinh ngoại vi…
“Trong đó, các biến chứng ở mắt tại giai đoạn đầu không ảnh hưởng tới thị lực. Từ đây, biến chứng này thường dễ bị người bệnh bỏ qua, trong đó có bệnh vơng mạc đái tháo đường”, vị chuyên gia nói.
Về vấn đề này, BS Nguyễn Thành Luân, khoa Mắt, cho hay bệnh vơng mạc là một trong những biến chứng phổ biến trên mắt ở người bệnh đái tháo đường. Đáng nói, đây là một trong những nguyên nhân gây mù ḷa hàng đầu trên thế giới.
Các thống kê cho thấy người mắc bệnh đái tháo đường từ sau 10-15 năm có tỷ lệ mắc bệnh vơng mạc đái tháo đường lên đến 90%.
Vị chuyên gia cho hay việc thăm khám lâm sàng ở giai đoạn đầu của bệnh có thể giúp các bác sĩ phát hiện tổn thương đặc hiệu trên vơng mạc, từ đó kịp thời đưa ra phương pháp điều trị phù hợp cho người bệnh.
Hướng điều trị
Theo BS Luân, ở giai đoạn vơng mạc đái tháo đường không tăng sinh, chưa bị phù hoàng điểm, người bệnh chỉ cần tái khám định kỳ và kiểm soát tốt đường huyết, huyết áp và mỡ máu.
Trong khi đó, ở giai đoạn vơng mạc đái tháo đường tăng sinh, người bệnh sẽ được chỉ định điều trị bằng laser quang đông, tiêm thuốc vào nhăn cầu hoặc phẫu thuật.
Mặt khác, TS Trần Quang Nam khuyến cáo để pḥng ngừa hiệu quả các biến chứng của bệnh đái tháo đường liên quan mắt và cả các bộ phận khác trên cơ thể, việc tuân thủ điều trị và kiểm soát tốt đường huyết đóng vai tṛ rất quan trọng.
“Người bệnh cần kiểm soát đường huyết bằng cách dùng thuốc uống đái tháo đường hoặc tiêm insulin tại nhà (nếu có chỉ định) và chủ động theo dơi đường huyết của ḿnh”, ông lưu ư.
Insulin là một trong những loại thuốc quan trọng giúp kiểm soát đường huyết. Người bệnh có chỉ định tiêm insulin cần biết cách bảo quản, chú ư luân chuyển vị trí tiêm để tránh biến chứng loạn dưỡng mô mỡ ở vị trí tiêm, gây chai cứng, insulin lúc này sẽ không hấp thu được vào máu.
Tùy vào đặc điểm của từng người bệnh, bác sĩ sẽ kê toa loại insulin và liều tiêm phù hợp. Khi đó, người bệnh cần kiểm tra tên thuốc trên thân bút và toa thuốc để xác định đúng loại insulin, liều tiêm, thời điểm tiêm, đồng thời chú ư đến hạn sử dụng của bút để đạt hiệu quả điều trị.
Trong quá tŕnh theo dơi đường huyết, các bác sĩ cũng khuyến cáo người bệnh cần lưu đo và ghi lại nhật kư kết quả đo đường huyết.
Ngoài ra, bệnh nhân đái tháo đường và gia đ́nh cần lưu ư các thời điểm đo bao gồm đo đường huyết lúc đói (trước khi ăn sáng, ăn trưa hoặc ăn chiều), đo đường huyết sau ăn (cách 2 giờ sau khi ăn sáng, ăn trưa hoặc ăn chiều), trước khi ngủ, trước hoặc sau khi tập thể dục.
Ngoài phương pháp sử dụng máy đo đường huyết thông thường, hiện nay các thiết bị theo dơi đường huyết liên tục là kỹ thuật mới có thể hỗ trợ hiệu quả cho người bệnh đái tháo đường và các bác sĩ để đưa ra các tư vấn cần thiết, kịp thời điều chỉnh chế độ điều trị, kiểm soát tốt đường huyết cho người bệnh.
VietBF©sưu tập