Trang của lính - Page 34 - VietBF
 
 
 

HOME

24h

DEM

GOP

Phim Bộ

Online

Clips

Breaking
News Library Technology Giải Trí Portals Tin Sốt Home

Go Back   VietBF > Other News|Tin Khác > Member News | Tin thành viên


Reply
Page 34 of 39 « First 2430313233 34 35363738 Last »
 
Thread Tools
Old 02-10-2021   #661
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,238
Thanks: 2,018
Thanked 1,465 Times in 679 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 23 Post(s)
Rep Power: 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default



4 -CHUYẾN TÀU BA MƯƠI TẾT :


Chiều hăm chín tết năm 1978,
trại cải tạo Huy Khiêm của tỉnh Thuận Hải rộn hẳn lên vì ngày mai cho tới mồng hai Tết, đoàn tù khổ sai của VNCH tạm nghĩ lao tác, được đổi khẩu phần Tết với đường, thịt heo, cơm trắng không độn và một bao thuốc có cán.

Nhưng quan trọng nhất vẫn là cái danh sách phóng thích tù nhân vào mỗi dịp Tết về, sẽ được cán bộ gọi trong buổi sinh hoạt hôm nay.

Ðúng 1 giờ trưa chiều ba mươi tết năm đó,
trại có mười người được nhận giấy phóng thích về nguyên quán trình diện.

Quỹ trại không có tiền cho tù nhân mua giấy xe đò xe lửa, nên ai lo mạng nấy bằng cách lội bộ , từ Huy Khiêm tới Ga Suối Kiết xa chừng 30 cây số.

Tám giờ tối cả bọn tới nhà ga thì đã lở chuyến tàu chợ, nên đành phải chờ chuyến tàu suốt Bắc-Nam, Nam Bắc vào lúc 11 giờ khuya cuối năm. Trong bọn chỉ có tôi về Phan Thiết, còn lại đều ở rất xa tận Sài Gòn, Nha Trang..

Chia ly rồi sắp chia ly nữa, anh em chỉ đành ngậm ngùi trao gởi, hứa hẹn. Trong khoảnh khắc năm củ sắp tàn, mọi nhà cài then đóng cửa đón mừng năm mới, thì chúng tôi cũng đang chờ phút giây thay đổi của đất trời.

Ga Suối Kiết
nằm cheo leo trong rừng lá cạnh vách núi Ông cao ngất hùng vỹ, bao quanh vài chụp nếp nhà lá lụp xụp của các công nhân hỏa xa và dân làm gổ.

Có lẽ hôm nay mọi người đã về quê ăn tết nên xóm nhỏ thật đìu hiu không có một chút sinh khí, chứng tỏ nàng xuân chưa ghé chốn này.

Cũng may Suối Kiết là một ga lớn trên đường xe lửa Nam-Bắc, nên tất cả các chuyến tàu chợ và suốt đều phải ngừng lại, dù khách có hay không.

Ðêm về núi rừng càng buốt cóng lạnh căm,
bộ quần áo trận năm nào dù đã được đắp thêm chục mãnh vá, vẫn không ngăn nổi cái sắt se xa xót, như từ một cõi mộ địa, theo cái lạnh xâm chiếm tâm hồn những bóng ma đang lạc lõng trong đêm xuân, không biết rồi sẽ về đâu, để kiếm chút hơi ấm của tình quê.

Trong cái hiu hắt của đêm buồn, cũng đủ để mọi người nhìn rõ hình ảnh của sự cô đơn nơi ga lẽ, từ những thanh sắt han rĩ tróc sơn trước quầy bán vé, cho tới hàng ghế gổ mọt đầy vết bẩn.

Tất cả bỗng dưng được trùng phùng một cách ngẩu nhiên với những người tù không bản án , những quân, công ,cán cảnh của VNCH bại trận , vùa được phóng thích trong đêm tết quạnh quẽ, buồn rầu.






Phải vui lên một chút để mừng năm mới, thay vì mượn rượu phá thành sầu, cả bọn lại chụm đầu vào nhau rít chung vài bi thuốc lào ăn tết, trong khi bên ngoài gió núi lồng lộng thổi, tạt sương muối vào mặt mũi da thịt, khiến cho cơn lạnh đói càng thêm hành hạ những người tù từ địa ngục mới được thả về.

Hình như giao thừa sắp đến trong mông mênh cùng tận. Như những năm nao, tôi lại âm thầm lâm râm cầu nguyện cho mẹ già, em gái, cho ngươi yêu củ, bạn bè, đồng đội, đồng bào.. được may mắn an bình trong buổi hổn mang dâu bể.

Hởi ơi giờ này không biết mẹ già em thơ, có còn như những ngày xuân dấu ái trước năm 1975, giao thừa đi lễ chùa, xin xăm hái lộc, nhà có vui xuân đón tết hay gia đình cũng lại như tôi, tại sân ga nơi rừng núi thẳm tăm tối lạnh lẽo này, cô đơn, đói lạnh và nhục nhã trùng trùng.

Kỷ niệm xưa từng mảng lại trôi bềnh bồng
trên mắt, lén lút đẩn dắt đưa tôi về thuở hoa niên, khi những cánh hoa phượng đỏ ối nối hàng, dọc theo con đường Nguyễn Hoàng dẫn vào lớp học, đã bắt đầu rụng rơi lã tã giữa các trang lưu bút, trên từng rèm mắt ô môi, cũng là lúc bọn học trò nghĩ hè làm gã giang hồ lãng tử, trên những chuyến tàu hỏa chui Phan Thiết-Sài Gòn rồi Sài Gòn-Phan Thiết, đi hoài vẫn không thấy chán.






Rồi những ngày dài chinh chiến, định mệnh lại đẩy đưa tôi về chốn cũ Long Khánh-Bình Tuy-Phan Thiết.


Tuy tàu hỏa đã bị gián đọan nhưng suốt đoạn đường sắt từ Mường Mán về Gia Ray, con đường mòn Võ Xu tới Suối Kiết, kể cả những suối rạch, bải đá ven sông La Ngà, đều là những lối lại qua quen thuộc , đã cùng tôi chắt chiu suốt đoan đường tuổi trẻ của người lính trận.

Làm sao quên được những ngày dừng quân ở Văn Phong, Mường Mán ? ngày ngày ngồi ngâm nga tách cà phê đen ngon tuyệt nơi quán lẽ ven sông, ngó nhìn các chuyền tàu xuôi ngược.

Giờ đây cảnh xưa vẫn nguyên vẹn, riêng tôi thì ôm một tầng trời sầu thảm không đáy, lạc lõng trên quê hương hận thù với kiếp sống nào hơn loài cỏ cây.

Rồi thì tàu cũng đến, chúng tôi chia tay trong nước mắt, cuối cùng ai nấy hấp tấp lên tàu như kẻ trốn nợ trong đêm trừ tịch, giữa tiếng còi tàu lanh lãnh thét vang, phá tan cảnh tịch mịch của rừng núi âm u, nghe sao quá ảo nảo lạnh lùng.






Chuyến tàu suốt Sài Gòn-Phan Thiết đêm nay ế ẩm, nhiều toa hành khách vắng ngắt lạnh tanh, không như ngày thường chen chân không lọt. Có lẽ mai là mồng một tết nguyên đán, nên ai cũng muốn ở nhà để xum họp với gia đình.

Ðất trời buồn mênh mông quá, thêm gió thổi vi vút từ hai bìa rừng thả hơi lạnh khắp nơi, nhưng tôi vẫn muốn ngồi ngoài hành lang để được nhìn lại quang cảnh cũ Trong các toa tàu, đèn đóm tối om, dăm ba hành khách nằm dài trên ghế như đã ngũ tụ lâu rồi.

Mặc kệ, tàu vẫn chạy xiết trên đường sắt như con thú điên , với hai ánh đèn pha phá tan màn đêm tăm tối.

Hởi ơi cuộc đời sao oan nghiệt quá, trong lúc nhà nhà đang đầm ấm chờ đón chúa xuân, thì tôi trong một tối ba mươi tết, buồn rầu nơi toa xe lửa lạnh lẽo này, yên lặng nép mình trong cô quạnh , để đón một mùa xuân vàng úa nữa, sắp rơi xuống bờ vai của cuộc đời.

Trong giờ phút năm củ sắp tàn, con tàu cũng hối hả lướt qua từng ga vắng

Sông Dinh, Sông Phan, Suối Vận, Mường Man rồi Phú Hội vừa đúng 12 giờ rưởi sáng .

Thế là năm mới đã qua và tôi cũng đã lở dịp nghiêng mình chào đón nàng xuân mới nơi quê hương mình. Trên tàu ai nấy đều thức dậy, đang chuẩn bị hành lý xuống ga Phan Thiết.

Tất cả đều xa lạ, hờ hững, buồn rầu, im lặng như bóng tối, không ai chúc nhau một lời ngắn ngủi dù là ngày tết.






Bổng đâu đấy nơi một thôn xóm nào đó, dọc theo con đường sắt vang lên mấy tràng pháo chuột, bóng sáng lập lòe như muốn đưổi theo con tàu, khiến cho hồn thêm buồn rầu thương tiếc. Nổi náo nức thầm kín vừa lóe lên, chợt tắt hẳn khi nghĩ đến thực tại não nùng.

Hỡi ôi mấy chục năm về trước, tôi là người lính trẻ xa nhà vẫn đam mê chạy đuổi theo những giọt mưa xuân giữa trời lửa loạn.


Nay trong buổi xuân về, người lính già lội ngược thời gian tìm vết ngày thơ như còn giấu đâu đó, nơi vòm trời đồng đội, và em, và những tết cuối cùng trong quân ngũ, để ngẩn ngơ bàng hoàng xúc động, như thể vừa bước chân lên con tàu về quê hương, của những tết ấm yên hạnh phúc đầu đời.






Tết nay em có về Phan Thiết

có ghé trường xưa, viếng mộ thầy

đây nén hương lòng người lính cũ

cũng là lệ nhớ xót thương cay

Có vào tửu quán vui cùng bạn

chuốc một bầu riêng cúng tưởng người

những lính cùng dân chung bất hạnh

vì đời mà đổ máu thây phơi

Có xuống Cồn Chà ăn cá mực

thăm giùm người bạn biển quê tôi

thảm ơi một kiếp đời mưa gió

vẫn áo mê tơi suốt một đời

Có qua phố chợ khoe quần áo

bớt một vài xu giúp kẻ nghèo

người phế binh bò trên gạch lạnh

tủi buồn cô quạnh nắng mưa treo

Có đi ngắm cảnh tìm thơ vị

đừng bỏ quên Cây Táo, Phú Long

Dốc Căn, Kim Hải, Ðoàn Mạnh Hoạch

những địa danh xưa đẳm máu hồng

Có vào lễ Phật trên chùa Cú

hay ghé thăm Cha tại giáo đường

tìm lại giùm tôi hương phấn cũ

của thời tuổi học lắm thương vương

Có gặp bạn bè còn sống tủi

xin em chia bớt một phần vui

xin em lau lệ đời phân cách

để nguyện cho nhau bớt ngậm ngùi

Có mua quà tặng khi về Mỹ

xin nhớ cho tôi chút vị làng

hơi đất , mùi rơm, tình biển mặn

thương hoài mà vẫn cứ miên man

Viết từ Xóm Cồn Ha Uy Di

Chạp 2008

Hồ Ðinh

http://www.xaydunghouston.com/ThamLu...tThaPhuong.htm


hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (05-18-2021), huudangdo1 (02-12-2021)
Old 02-12-2021   #662
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,238
Thanks: 2,018
Thanked 1,465 Times in 679 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 23 Post(s)
Rep Power: 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default ĐỒN VẮNG CHIỀU XUÂN



PHÚT GIAO MÙA






hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (05-18-2021), huudangdo1 (02-12-2021)
Old 02-12-2021   #663
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,238
Thanks: 2,018
Thanked 1,465 Times in 679 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 23 Post(s)
Rep Power: 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default TẾT VỚI NGƯỜI LÍNH THỜI XƯA CŨ !



TẾT VỚI NGƯỜI LÍNH THỜI XƯA CŨ !







Có người nói tết là ngày quay lưng đi quá khứ và ngoảnh nhìn tới tương lai. Với người lính VNCH xưa cũ, những ngày cuối năm là dịp để nhớ về, để tưởng nhớ. Thời gian ở chiến trường, có lúc biền biệt để không thể nhớ được ngày tháng.

Nhưng gần tết, khi nắng buổi chiều đã có màu vàng hoe, khi gió bấc đã xạc xào làm thức dậy những chuỗi kỷ niệm tưởng như yên ngủ. Bao giờ cũng là những hướng vọng. Như là những ngày yên bình sắp tới. Như ngày được về nhà hội ngộ với vợ con. Dù ở bất cứ nơi đâu, một tiền đồn heo hút hoang vắng, hay ở một đảo xa cô tịch sóng gió bão bùng, hay ở trong quân trường chỉ cách phố phường có hàng rào kẽm gai ban đêm nhìn ánh đèn thành phố, cái cảm khái cũng đều giống nhau, của một nỗi buồn của bất cứ một người nào có trái tim đều tự nhiên như thế.

Nhân ngày đầu năm, tản mạn về những cái tết của thời chinh chiến mà những ngày tháng ấy không thể nào quên trong trí nhớ chúng ta.

Có người đã đặt câu hỏi nhiều người thích chiến tranh nên hay thường nhắc đến với nhiều cảm khái ?

Thời trước, mặc dù tôi là một người lính nhưng cũng không đến nỗi hiếu chiến nên chọn lựa giữa an bình và chém giết thì tôi vẫn thích an bình cho đất nước hơn. Nhưng, vẫn phải đi trên con đường mà cả thế hệ chúng tôi phải đi và không có thể có quyết định nào khác. Khi nước biến thì phải làm nhiệm vụ của mình.






Chiến tranh có lẽ là một đề tài lớn của văn chương nhân loại. Riêng với dân tộc Việt Nam, từ xưa đến nay, đã quen với chinh chiến khói lửa, chỉ riêng ký ức của những người lính cũng đủ làm chất liệu cho những pho tiểu thuyết lớn.

Đọc từ văn học miền Bắc đến hai mươi năm văn học miền Nam, từ văn chương trong nước đến hải ngoại, rất nhiều chân dung người lính được phác họa với rất nhiều đặc tính, đặc thù.

Viết về chiến tranh, mô tả chân dung người lính của QLVNCH và bộ đội Cộng sản trong những nền văn học, những nhà văn ở hai phía đã có nhiều khác biệt.

Văn học miền Bắc và văn học trong nước sau 1975
là một nền văn học đầy tiếng súng. Hình tượng người lính được tô vẽ với những nét anh hùng đôi khi gần với tưởng tượng và không có trong thực tế. Dù rằng, có khi chiến tranh đã hết, nhưng âm hưởng vẫn còn.

Tới bây giờ vẫn còn những tiểu thuyết tô vẽ những mẫu người được gọi là chiến sĩ, chiến đấu ngay cả khi hòa bình.

Có một khuôn mẫu cho nhà văn miền Bắc khi mô tả về chân dung người lính Cộng sản theo đúng như những đề cương văn hóa đã ấn định.

Chân dung người lính Cộng sản
được vẽ ra ltoàn thiện toàn mỹ với đầy những nét hy sinh cang cường mưu trí và nhất là trung thành vô hạn với chế độ với lãnh tụ.

Cả đến khi gần với cái chết cũng không sợ hãi và dù trước những cám dỗ vật chất cũng không chuyển lòng.

Đó là chân dung của những con người không có trong thực tại.


Những mô tả khác với ấn định ấy, dù có nét chân thực của tự nhiên con người cũng bị phê phán, cấm đoán. Những tiểu thuyết như:

- “Cái Gốc“ của Nguyễn Thanh Long,

- Truyện ngắn “Một đêm đợi tàu” của Đỗ Phú hay tùy bút

- “ Tình rừng” của Nguyễn Tuân, … đã bị kết tội

- “ Xu hướng lấy cái tầm thường yếu đuối của mình mà gán cho nhân vật theo kiểu lấy bụng ta suy ra bụng người”

Hay những bài thơ :

- “ Vòng Trắng “ của Phạm Tiến Duật, như :

- “ Tâm sự với Thúy Kiều“ của Lý Phương Liên, hay những bài thơ của Dư Thị Hoàn,... cũng bị phê phán, là dao động, ủy mị có những suy nghĩ tiêu cực đi ngược lại chính sách của Đảng.






Trong khi đó,
không có một mẫu mực tiền chế nào về chân dung của người lính quân đội VNCH.

Trong hai mươi năm văn học miền Nam hay ở văn chương Việt Nam hải ngoại, chân dung người lính ấy được nhìn ngắm từ nhiều góc độ.

Không có một khuôn khổ nào được ấn định cho những chân dung người lính ấy. Và không phải lúc nào cũng là những lời lẽ cổ võ chiến tranh.

Cái tâm tư không muốn tham dự cuộc chiến nhưng vẫn phải vào cuộc hay sự suy nghĩ của những người tình nguyện đi vào binh nghiệp, có khi tưởng như tương phản nhau nhưng lại là phản ánh trung thực [/b]của cả một thế hệ tuổi trẻ lớn lên trong thời kỳ chiến tranh.






Trong khung cảnh của một đất nước chiến tranh, mùa xuân vẫn là một dịp để nhớ nhung, hay một dịp để nhìn vào tương lai sắp tới với những hy vọng.

Ngày đầu năm ở quân trường, ngày tân xuân ở chiến trường, những nhà văn, nhà thơ mang áo lính đã sống trong không khí đặc biệt, trôn lẫn buồn vui, chán chường, hy vọng, thương đời và thương mình.

Trong những tác phẩm viết về chiến tranh ấy, nhân ngày đầu xuân, chúng ta thử đi vào những không gian riêng, thời gian riêng của những người lính. Mặc dù, chế độ Cộng sản đương thời muốn xóa nhòa đi hình ảnh nền văn học ấy nhưng xem ra ý định ấy đã thất bại.

Chẳng có chế độ nào thành công trong việc phần thư khánh nho, cho dù là chế độ Tần Thủy Hoàng ngày xưa đến Cộng sản Việt Nam bây giờ…

Phan Nhật Nam, người lính Nhảy Dù, một nhà văn mà bị Tô Hoài trong cái bỉ thử nhưng vẫn pha sự thán phục cho là :

“ Người viết tác phẩm của mình bằng máu nhưng là loại máu cặn bã của chế độ thực dân mới“.

Chính thái độ phi văn nghệ khi chửi bới các nhà văn khác chính kiến như Doãn Quốc Sỹ, như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, như Phan Nhât Nam,… đã làm cho tác giả của Trăng Thề, của O chuột bị người đọc ác cảm và hạ thấp đi nhiều giá trị của mình.

Trong “Dấu Binh lửa“ Phan Nhật Nam cũng đã trải qua nhiều cái Tết. Cũng có những cái tết hạnh phúc, những ngày ứng chiến ở thủ đô Sài Gòn.

Nhưng, tiếp theo không phải là thiên đường như vậy. Chiến trường ngày đầu xuân ác liệt, và gian khổ :

“… Đêm mùa khô trời đầy sao, sau khi có mấy muỗng cơm nóng với ngụm nước nhỏ tôi tỉnh người đốt điếu thuốc gối đầu vào nón sắt ghé tai vào máy truyền tin xem chừng các toán phục kích… bên phía hai tiểu đoàn bạn trận đánh mỗi lúc một ác liệt chưa bao giờ tôi thấy gunship đánh trận đêm nhiều đến như thế

Quân rút ra đi như một lũ ma đói hai ngày hai đêm thiếu nước và mất ngủ mọi người phờ phạc trông thấy. Trung đôi tôi đáng lẽ dẫn đầu trở ra lại phải đi chót Tiểu Đoàn. Đại đội 73 đi đầu. Trung đội của Toàn vừa đi được hai mươi thước đạp một trái lựu đạn, hai chết hai bị thương... Mấy thằng lính của Trung đội tôi cười như mếu. May quá, mình đi đầu là chết rồi ! Tôi cũng nhủ thầm mình có số mạng…






Người trước đi, tôi đi theo chẳng cần đội hình ý tứ gì nữa, hai ngày vừa qua có được bốn muỗng cơm, người tôi không còn một sức lực nào nữa... Tôi dặn lính.

_ "Tụi mày cứ đi theo Trung đội trước mà đi, sát vào nhau đừng để lạc.

Đầu gục xuống súng vác trên vai tôi thở không những bằng mũi mà cả bằng chiếc mồm há ra thật lớn, chiếc lưỡi căng phồng nhức nhối và đôi môi khô không còn chút cảm giác nữa. Tro rừng, đất bụi bám đầy mặt mũi bay đầy vào mồm, không còn tí nước bọt nào để nhổ ra, tôi đưa tay vào mồm chà trên lưỡi từng tảng tro đen. Quốc lộ 15 đây rồi, có thửa ruộng nhỏ bên đường tôi úp chiếc mặt vào giòng nước đục ngầu phủ một lớp bùn non… Uống! Uống! Như loài thú hoang trên sa mạc. Ngày hôm nay mới mồng tám Tết...”






Mùa xuân với người lính quả không phải là một dịp để nghỉ ngơi. Nguyên Vũ, một sĩ quan đề lô pháo binh đã tả cảnh “Nghênh xuân chiến địa” :

“ Tết Ất Tỵ trở về bất chợt và ngỡ ngàng. Buổi chiều ngày 28 tết tôi đã định nhảy dù về Sài Gòn. Nhưng sợ hành quân bất tử, chui vào chiếu bạc, cháy túi.

… Thương nhớ đưa tôi vào quán rượu. Những ly rượu đế sủi bọt nồng cháy cuống phổi. Nhưng thấm lạnh tận trong hồn. Mắt tôi mở lớn nhìn ra khung trời khô lạnh - thứ khô lạnh của chiều cuối năm miền Bắc. Mà không thấy gì…

Nửa đêm hôm đó 4 chiếc GMC đưa chúng tôi ngược đường từ Bạc Liêu về Nhu Gia. Nửa đường, đoàn xe ném chúng tôi xuống để nhào tới đột kích xóm Béc Hen.

Băng ruộng băng kinh trong đêm tối giá lạnh. Mò mẫm giữa những lung dừa nước rậm rạp hàng giờ. Ba giờ sáng chúng tôi mới tới mục tiêu và âm thầm xiết chặt vòng vây.

Năm giờ, trời vừa rạng sáng dù sương mù còn dày đặc chúng tôi ào ạt tràn vào xóm. Chỉ bắt được hai tên du kích và liên lạc bậy bạ. Báo hại dân chúng xanh máu mặt. Và chắc họ rủa thầm chúng tôi không ít. Mới sáng sớm mồng một Tết đã có lính tráng xông nhà. Rủi hay may đây ?

Thế nhưng thời buổi này người nông dân Việt Nam làm gì có một chút quyền lực nào dù nhiệm vụ họ rất nặng nề.

Nhiệm vụ phải “đóng góp” cho MTGPMN, nhiệm vụ bị thủ tiêu bởi những viên Công an xã ấp hay du kích. Nhiệm vụ khóc cười sao cho hay và ròn rã nếu không may có một trận đánh khai diễn ngay trong xóm.

Dù sao ngoài mặt họ cũng niềm nở pha trà mang mứt mời chúng tôi. Chủ và khách bất đắc dĩ cười nói chúc mứng năm mới tài lộc đắc phúc. Gần trăm mạng Thám Báo chúng tôi chia ra chúc Tết mọi gia đình của cái xóm nhỏ nghèo nàn này…

Khi những vệt nắng đầu năm vàng ối đã kết hoa trên vòm lá của những thân sao, trâm bầu và dừa nước chúng tôi từ giã xóm Béc Hen, hướng về phía Tây, để lại sau lưng nắng ấm mùa xuân và những người nông dân ”thân lươn bao quản lấm đầu”






Phan Lạc Tiếp, một nhà văn quân đội nhưng chất đôn hậu lại nhiều hơn chất lính trong văn chương. Trong bút ký Bờ Sông Lá Mục, ông ghi chép lại hành trình của một sĩ quan Hải quân lênh đênh trên sóng nước.

“Giao Thừa Trên Đảo” là những dòng ghi lại sinh hoạt của những người lính biển cuối năm ở một hải đảo cô tịch hầu như biệt lập với sinh hoạt bên ngoài. Giao thừa, tập họp trong hàng quân, mỗi người mỗi nặng nề tâm sự.

“… Tiếng còi tập họp nổi lên. Tôi vẫn đứng yên. Sau tôi những bước chân vội vã. Những tiếng động quen thuộc lúc sắp vào đêm. Gió hình như vừa nổi lên và lạnh hơn. Tôi quay vào. Viên trung sĩ dõng dạc hô “nghiêm”. Tôi giơ tay chào và ra đứng trước hàng quân. Tôi ngửa mặt nhìn lên. Những tàn cây che phủ. Bước mấy bước chậm rồi tôi ngừng lại.

- Hôm nay ba mươi tết phải không các anh? Hàng quân như xao động. Tôi tiếp:

- “ Bây giờ là bảy giờ tối ba mươi tết “.

Tôi vừa bước những bước ngắn và nói. :

- ” Tối ba mươi tết. Chúng ta ở ngoài hòn đảo này. Quanh chúng ta chỉ có rừng cây, ghềnh đá và biển…

... Tôi trở về lều. Cửa sổ mở nhìn ra ngoài khơi. Biển vẫn phẳng lặng không một ánh đèn. Tôi thấy xót xa trong lòng. Nếu tàu không tới thì buồn biết mấy. Tiếng hát từ chiếc loa ngoài kia đều đều vọng tới. Giọng hát Thái Thanh nức nở thiết tha. Tôi khêu to ngọn đèn lên. Chiếc kiếm gác trên vách lá. Di vật của người đội trưởng trước tôi để lại, hồi ông ta nổi điên được đưa về Sài Gòn điều trị. Vội vã quên nên không mang theo.

Chiếc kiếm với đầy đủ ngù quàng nơi đốc kiếm. Tôi lấy xuống, rút ra. Lưỡi đã có vài vết han rỉ. Tôi tra vào bao và dựa xuống sau đầu ghế vải thầm hỏi không biết hồi này bịnh tình đã khá chưa. Người con trai thời loạn chẳng lẽ chóng hoen rỉ như lưỡi kiếm này, như chủ nó sao?

Tôi cũng không biết tôi sẽ còn phải trấn giữ hòn đảo này trong bao lâu nữa. Rồi ra tôi sẽ phát điên không? Ai sẽ tới thay tôi và sau đó ai sẽ tới nữa. Những buổi chiều bóng núi đổ dài ra ngoài khơi. Khí núi xông lên lạnh và buồn. Những anh tuần viên xúm nhau ngồi trên khúc cây khô ca vọng cổ. Rồi đêm xuống dõi mắt ra khơi tìm những bóng đèn câu lạc loài từ đất mẹ…

Tôi rùng mình thật mạnh như muốn xua đuổi những hình ảnh u buồn ngày cũ. Tôi đứng lên tính đi rửa mặt cho tỉnh táo để còn đi thăm mấy gia đình trong trại. Nhưng vừa bước ra sân đã thấy lố nhố một đám đông quần áo chỉnh tề. Tôi hiểu ngay ý định của họ nên vội vàng sốc gọn lại quần áo.

Dẫn đầu là ông Tư-thuốc-mê. Không hiểu ông đã moi được ở đâu một cái áo vét-tông nhầu nát và sực mùi ẩm mốc. Mọi người khác cũng đều mặc thường phục. Ông Tư đằng hắng rồi lên tiếng :

“ Năm mới chúng tôi tới mừng tuổi đội trưởng và cầu chúc đội trưởng thăng quan tiến chức.“

Tôi chắp tay đáp lễ và chúc mọi người sang năm mới ai nấy đều được vạn sự như ý. Tôi còn đang ngập ngừng lựa lời nói tiếp thì một người bật nói “Và sớm được về đất” Mọi người đều cười vang.

Khi mọi người kéo nhau vào, kẻ ngồi người đứng quanh chiếc bàn nhỏ thì tôi chợt nhận ra một ánh sáng long lanh qua kẽ lá ngoài cửa sổ mọi người cùng nhìn theo tôi và bật reo mừng ồn ào. Hai chấm xanh đỏ. Đúng là đèn hải hành của con tàu sắp tới. Chúng tôi cùng chạy ùa ra ngoài bãi cát. Triền cát mát lạnh dưới chân, cái mát lạnh cảm thấy được qua đế giầy da và làn bít tất đen dầy. Con tàu mỗi lúc lại tiến lại gần. Mọi người bàn tán xôn xao. Phía sau chúng tôi ngọn lửa vẫn âm ỉ cháy. Tôi quay lại nói lớn:

Đốt lửa lên, cao nữa lên, anh em!”






Trần Hoài Thư, cũng đón giao thừa. Nhưng, là đêm giao thừa nằm giữ đường làm an ninh cho các cuộc vui thâu đêm suốt sáng của các quan to súng ngắn :

“Dẫn một đàn con chiều xuống núi

giao thừa không ai nhắc mà đau

giao thừa hai tiếng đâm tâm não

trừ tịch: poncho gạch lót đầu

một đêm sao lại buồn như mếu

muốn nổ tan tành cả cõi đêm

giao thừa giao thừa ta xuống núi

làm hiệp sĩ mù giữa cõi u minh

giao thừa ai đó mời ta rượu

một nhấp mà hồn tê tái ư

anh bạn nghe gì không, tiếng nhạc

người ta đang nhảy đầm

dạ vũ mừng xuân

Giao thừa mừng tuổi con heo bịnh

Xin của nhà dân làm cỗ xuân

Trung đội lập bàn thờ giữa mả

Ta khấn âm hồn

Bảo bọc đàn con…”






Một bài thơ khác đón xuân say sưa của một người lính thường không uống rượu.


“Ông già chống gậy, cũng xong

một thau xá xị đủ nồng thịt da

mày tao lính trận xa nhà

cuối năm thì cũng ba hoa tiệc bầy

Uống cho núi lở, ông thầy

Đầu gà sao cứ chỉ ngay ly buồn

Thinh không giá rét từng cơn

Bâng khuâng nghe chuyện mất còn vu vơ

Phá mồi đừng có giả ngơ

Vài lon thịt có bao giờ đủ say

Uống cho trời đất lăn quay

Mốt mai vào núi men cay đâu cùng

Cầm súng bắn vào không trung

Lửa nào bốc mãi tận cùng sầu ta

Bạn tao vừa chết đêm qua

Hai mươi mốt tuổi chưa già đã đi

Uống cho đã nỗi thầm thì

cuộc chơi bom đạn còn gì thế thân

Vết thương máu giọt mấy lần

Hay đầu dao nhọn phân vân tháng ngày

Rượu còn, sao quắc, ông thầy

Dỡn mày, ly cạn rót đầy cho tao

Lính trận giữa chốn binh đao

Cuối năm giấc bướm trăng sao chẳng về…”

Thau xá xi pha lộn xộn những loại rượu nội hóa rẻ tiền quen thuộc với lính. Ông già chống gậy như Vĩnh Tồn Tâm, Vĩnh Sanh Hòa,... Đồ mồi đơn sơ và trò chơi quay đầu gà để chỉ định người cạn chén.

Những người lính xúm nhau mượn men cay để đón xuân, để quên đi những bèo bọt cuộc đời. Nhưng quên đi sao được khi hình ảnh của những người đã hy sinh vẫn cứ hiện về, nhức nhối.


Nguyễn Mạnh Trinh


hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (05-18-2021)
Old 02-14-2021   #664
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,238
Thanks: 2,018
Thanked 1,465 Times in 679 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 23 Post(s)
Rep Power: 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default ANH CHO EM MÙA XUÂN



ANH CHO EM MÙA XUÂN





hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (05-18-2021)
Old 02-15-2021   #665
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,238
Thanks: 2,018
Thanked 1,465 Times in 679 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 23 Post(s)
Rep Power: 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default CHÚC MÙNG XUÂN TÂN SỬU






“ Từ độ ra đi xa Tổ quốc,

Thấy đào mai nở nhớ thương quê,

Xuân về lòng nguyện cầu Quê Mẹ,

Dân chủ Tự do sớm trở về ... ”

- Phạm Thọ -


hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (05-18-2021)
Old 02-20-2021   #666
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,238
Thanks: 2,018
Thanked 1,465 Times in 679 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 23 Post(s)
Rep Power: 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default NGÀY XUÂN THĂM NHAU



NGÀY XUÂN THĂM NHAU






hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (05-18-2021), huudangdo1 (02-20-2021)
Old 02-20-2021   #667
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,238
Thanks: 2,018
Thanked 1,465 Times in 679 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 23 Post(s)
Rep Power: 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default CỜ VÀNG RỰC RỠ TRÊN NÚI ĐỒI XUÂN



CỜ VÀNG RỰC RỠ TRÊN NÚI ĐỒI XUÂN



Tiểu Đoàn 2 Sói Thần Đón Tết nơi Tiền Đồn Sư Đòan 1 Bộ Binh VNCH - Vùng 1 Chiến Thuật.








Sau Tết Mậu Thân năm 1968, các phe lâm chiến tại Việt Nam rủ nhau tới Paris, thủ đô của nước Cộng hòa Pháp quốc để bàn chuyện ngưng chiến.

Một cuộc chiến tương tàn do Cộng sản Bắc Việt chủ xướng từ nhiều năm nay, ngay khi Hiệp định đình chiến Genève tháng 7 năm 1954 được ký kết chưa ráo mực. Và cuộc chiến trở nên qui mô hơn kể từ khi cái gọi là “ Mặt trận Dân tộc Giãi phóng miền Nam”, con đẻ của Cộng sản Bắc Việt ra đời năm 1960.

Các phe đến phó hội đều mang một chủ đích riêng, khó có thể dung hợp, nếu đối phương không chịu nhượng bước. Nội chiếc bàn để ngồi họp mà cũng bàn thảo ròng rã mấy năm trời ! Từ bàn tròn, bàn vuông, đến bàn bầu dục. Toàn bàn những chuyện tào lao, cố kéo dài thì giờ để chờ một chiến thắng trên chiến trường làm lá bài áp đảo đối phương.

Nhưng rồi cuối cùng một văn kiện ngưng bắn cũng đã được ký kết. Toàn dân, toàn quân đã thở phào nhẹ nhỏm. Những tưởng phen này người dân Việt có thể sống trong thái bình, dù có bị thiệt thòi đôi chút.

Nhưng bất hạnh thay, dù ta có thiện chí, dù người "bạn đồng minh" Hoa Kỳ của chúng ta có "thiện chí", nhưng thằng cộng sản là kẻ gian manh tráo trở, nên Hiệp định ngưng bắn Paris chỉ là một trò hề lố bịch , và đưa dần đến mất nước !


“Đừng nghe những gì cộng sản nói,

Hãy nhìn những gì cộng sản làm”


Đầu xuân năm 1973 ,
để đối phó với một cuộc ngưng bắn bất lợi mà chính phủ Việt Nam Cộng Hòa buộc phải ký kết do áp lực của người bạn lớn đồng minh Hoa Kỳ, Tiểu đoàn 2/43 của Đại úy Nguyễn Hữu Chế và Chi đoàn Thiết kỵ M113 của Đại úy Đào được điều về giữ Hậu cứ Sư đoàn tại Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh.

Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm, những người lính mang khăn quàng màu tím có dịp về phố thị. Xuân Lộc tuy chỉ là một thị xã đất đỏ nhỏ bé nằm giữa những cánh rừng cao su bạt ngàn, nhưng dù sao cũng là một phố thị có đèn xanh đèn đỏ, có phố xá, có người qua lại với áo quần đẹp đẻ, có những người em gái xuân thì, mà nói như một thi sĩ trong nhóm Nhân Văn Giai phẩm:


“ Tôi thấy những người con gái

đến tuổi dậy thì

trông cô nào cũng đáng yêu ”

Những người lính quanh năm suốt tháng làm bạn với gió núi mưa nguồn, màn trời chiếu đất, hay nói một cách thực tế, nằm võng nghe muổi đốt, bây giờ có dịp bát phố, ghé vào một quán cà phê để “bên ly cô ca đó, nghe thèm thuốc pall mall” bổng thấy đời sao đẹp lạ lùng!

Trước ngày ngưng bắn có hiệu lực, Tiểu đoàn nhận lệnh không được mở những cuộc hành quân , phục kích; chỉ được đặt tiền đồn, tuần tiểu và canh gác bảo vệ căn cứ.






Buổi sáng ngày ngưng bắn, Đại úy Chế thức dậy sớm, vì đêm trước là một đêm ngủ ngon, không bị đánh thức bởi những tiếng súng hay báo cáo của những toán đi phục kích bên ngoài phá giấc ngủ. Một đêm trôi qua thật yên tĩnh.

Để đón chào giờ phút lịch sữ, giờ ngưng bắn có hiệu lực, vị Đại úy Tiểu đoàn trưởng cho pha một bình trà nóng, một hộp mức bánh dọn ra trên chiếc bàn đóng bằng gỗ thùng đạn pháo.

Chiếc radio hiệu sony 4 băng, là phần thưởng do Quân đoàn tặng, do chính Chuẩn tướng Lê Văn Hưng trao tại sân cờ Bộ Tư Lệnh QĐ, sau những chiến thắng vang rền của Tiểu đoàn tại mặt trận An Lộc, Bình Long hồi mùa hè đỏ lữa, đang phát ra những khúc nhạc hùng.

Ông cho mời tất cả cán bộ từ cấp Tiểu đội trưởng và sĩ quan trong Tiểu đoàn về uống trà, ăn bánh thưởng xuân, đồng thời đón nghe Thông điệp của TT Nguyễn Văn Thiệu.






Đúng 7 giờ,
khi tiếng pháo và tiếng chiêng trống vừa dứt, lời của TT vừa cất lên chưa hết câu thì súng nổ khắp nơi, đạn pháo của VC từ các khu rừng kế cận nã vào thị xã như mưa, khói súng mịt mù. Tiếng điện thoại reo vang.

Đại úy Chế nhận lệnh cho đơn vị sẵn sàng, còn ông thì lên Trung Tâm Hành quân. Khi chiếc xe jeep đưa ông đi ra đến cổng doanh trại, một trái đạn pháo nổ ngay đầu xe. Nhưng may mắn thay, tất cả đều vô sự.

Tại TTHQ/SĐ, ông đã gặp Đại úy Đào, vị Chi đoàn trưởng Thiết kỵ. Hai đơn vị nhận lệnh đi giải tỏa ấp Bảo Vinh, một Ấp nằm sát ngay vòng đai của Thị xã vừa bị VC tiến chiếm.

Thật ra chúng chỉ là những tên VC nằm vùng, phối hợp cùng đám du kích địa phương, nên sau khi bị bao vây chia cắt, chúng đã tìm cách tẩu thoát vào rừng. Nhưng trước khi bỏ chạy, chúng đã làm một hành động tàn nhẫn là đốt nhà dân, tạo màng khói cho dễ lẫn tránh.

Giải tòa ấp Bảo Vinh vừa xong thì Tiểu đoàn lên xe ra hướng ngả ba Ông Đồn để giải tỏa tiếp các ấp dọc theo QL1, cũng do đám địa phương lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng tấn công.

Với danh tiếng của Tiểu đoàn và đoàn xe thiết giáp hùng dũng, quân đi đến đâu là yên đến đó. Trước khi mặt trời xuống núi, hai đơn vị lại đèo nhau trở về Hậu cứ.







Lối 1 giờ sáng, Chế và Đào lại bị đánh thức cho đơn vị chuẩn bị lên đường. [b][size=3][color=black][i]

Hai đơn vị trưởng đi gặp Đại tá Mạch Văn Trường, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Long Khánh.

Vừa bước vào phòng khách, họ đã thấy người hùng An Lộc đang ngồi đợi :


- Lợi dụng lúc ngưng bắn, một đơn vị cấp tiểu đoàn tăng cường của Trung đoàn 33 Quyết Thắng Long Khánh đã tiến chiếm ngả ba Dầu Giây. Đại đội Địa Phương Quân an ninh khu vực bị dồn vào một đầu xã.

Chúng có súng phòng không và súng đại bác không giật. Toàn khu vực ngả ba đã bị chiếm cứ. Ông vừa nói vừa di động ngón tay trên tấm bản đồ trãi rộng trước mặt.

- Hai em ráng giúp qua, ông nói tiếp, lệnh trên bảo chúng ta phải khai thông trục lộ trước 12 giờ trưa!

Hai vị Đại úy nhìn nhau, chỉ biết tuân lệnh. “Muôn sự tại Nhân, thành sự tại Thiên!”

Trước khi đứng lên từ biệt vị Đại tá Tỉnh trưởng, họ còn được biếu mỗi người một chai rượu martel để khao quân.


Chi Khu Định Quán, Tỉnh Long Khánh 1966







Ngã ba Dầu Giây, đoạn bắt đầu của QL20,
đường đi Đà Lạt, với QL1. Đây là một thị trấn nhỏ nhưng sầm uất, là nơi dừng chân của các chuyến xe đò, xe hàng từ miền Trung, và từ Đà Lạt đổ xuống. Chung quanh là rừng cao su bao bọc.

Lợi dụng lúc ngưng bắn,
VC cộng đã tiến chiếm và đóng chốt ở đây trên một tuyến dài cả cây số. VC trà trộn trong nhà dân. Các ổ súng cộng đồng thì được bố trí trên các cao điểm. Tương quan lực lượng thì gần như ngang nhau. Địch thủ sẵn trong những hầm hố kiên cố. Ta có lợi thế là quân sĩ can trường, đoàn xe thiết giáp hùng hậu. Kể như một chọi một.

Sau khi quan sát trận địa, và mở những cuộc đánh thăm dò. Đại úy Tiểu đoàn trưởng cho mở cuộc tấn công trực diện với đội hình hàng ngang. Nhưng cuộc tấn công lần thứ nhất thất bại.

Một chiếc M113 bị bắn cháy, cả đoàn xe de lui. Một đại đội vượt được qua đường, bị kẹt ở tấm biển quảng cáo mì ăn liền. Lên không được mà rút lui cũng không xong. Đành phải nằm chịu trận, hứng mọi loại đạn pháo của địch quân.

Nhưng thua keo này thì bày keo khác. Đại úy Chế thề quyết thanh toán mục tiêu trước 12 giờ.






Ông cho mời vị Chi đoàn trưởng, các Đại đội trưởng, và Sĩ quan tiền sát viên gặp mặt. Một cuộc họp hành quân bỏ túi diễn ra gấp rút. Ông ban lệnh :

- Tất cả thiết giáp bố trí theo đội hình hàng ngang, bộ binh xen kẻ. Pháo binh tác xạ tập trung vào các ổ súng cộng đồng của địch. Khi có lệnh tiến quân, pháo chuyển xạ xa dần. Nếu có thương vong hay xe nào bị bắn cháy, cứ để đó, sẽ có Đại đội Chỉ huy và Yểm trợ lo. Tất cả cứ tiến, càng nhanh càng tốt. Nếu ai bất tuân, tôi sẽ truy tố ra trước tòa án quân sự.

Lúc đó đã gần 11 giờ.
Đúng 11 giờ, ông cho lệnh tấn công. Các chiến sĩ khăn quàng tím cùng đoàn thiết giáp M113 hơn 20 chiếc hùng dũng tiến lên như vũ bão. Súng nổ rền vang, khói lữa mịt mùng. Vài chiếc xe bị bắn cháy, vài binh sĩ bị ngã gục. Nhưng đoàn quân vẫn tiến mà không hề chùn bước.

Chỉ trong chớp mắt, đơn vị tấn công đã làm chủ trận địa. Địch quân bị bất ngờ trước lối đánh táo bạo của đối phương - giống như những con thiêu thân lao vào ngọn đèn - chúng tốc hầm bỏ chạy về hướng Tây – Bắc, xuyên qua ấp Nguyễn Thái Học, trốn vào rừng sâu.

Cộng quân chỉ kịp mang theo những khẩu súng cá nhân, các ổ súng cộng đồng bị bỏ lại, gần như nguyên vẹn.

Tin tức sơ khởi cho biết, quân ta tịch thu 1 khẩu thượng liên 12 ly 7, 1 súng đại bác không giật 107 ly, 1 súng cối 82 ly, và nhiều tù binh địch bị bắt sống, trong đó có tên B trưởng, tức Trung đội trưởng.






Đúng 12 giờ,
Đại úy Chế đứng ngay ngả ba đường cùng người lính mang máy truyền tin, bên dưới tấm biển quảng cáo mì ăn liền, báo cáo :

- Trình Hằng Minh, con đường đã được khai thông.

Chính Đại úy Chế lúc đó trở thành người cảnh sát chỉ đường, điều khiển cho xe cộ lưu thông. Những ổ bánh mì, những hộp mức bánh, những tờ báo Xuân tới tấp liệng xuống đường, với những lời hoan hô, lời cám ơn người lính cộng hòa cùng những nụ cười tươi, những nụ hôn gió của các cô gái xuân.

Xe từ Đà Lạt thì liệng trái cây, trà và rượu. Tất cả là cử chỉ tri ân, lòng biết ơn của người hậu phương gửi cho lính trận. Tình quân dân như cá với nước. Ôi ! Không còn gì cảm động và đẹp đẻ hơn.






Buổi chiều, Tiểu đoàn 2/43 cùng Chi đoàn Thiết kỵ của Đại úy Đào
lui về ấp Trần Hưng Đạo nghỉ quân. Nhưng thời chiến, người lính chiến không có thì giờ để nghỉ ngơi . !

Sáng sớm ngày hôm sau, Tiểu đoàn đã lên xe thiết giáp trực chỉ quận Định Quán trên QL20.

Sau khi thất bại trong mưu toan cắt đứt QL1 và QL20, cộng quân chuyển qua cắt đứt QL20 tại Phương Lâm, giáp ranh với Madagui của quận Bảo Lộc.

Địa thế tại Phương Lâm rất thuận lợi cho việc phục kích và đóng chốt. Hai bên đường là đồi núi chập chùng, sâu bên trong là rừng rậm. VC đã bố trí một khẩu thượng liên 12ly7 trên một mỏm núi cao có thể khống chế được một đoạn đường. Những khẩu súng cối 61 ly và 82 ly được dấu đàng sau những ngọn đồi.

Lực lượng địch tham chiến không rõ là bao nhiêu, nhưng ít nhất cũng là cấp Tiểu đoàn tăng cường.

Khi Tiểu đoàn 2/43 và Chi đoàn Thiết kỵ đến,
một đoạn đường đã bị cộng quân chiếm giữ. Lưu thông đã bị gián đoạn.

Nhưng lần này công việc khai thông trục lộ không phải là một việc làm dễ dàng !

Cuộc ngưng bắn lần này là một cuộc ngưng bắn da beo.


Theo tinh thần bản hiệp định, trước giờ ngưng bắn có hiệu lực, quân của phe bên nào ở đâu là vùng đất thuộc quyền kiểm soát của phe đó.

Do đó Việt cộng đã từ rừng sâu, gấp rút tiến quân ngay trong giờ phút ngưng bắn để nới rông phạm vi ảnh hưởng của chúng.

Đối phó với hành động gian xảo của địch,
người lính Việt Nam Cộng Hòa được lệnh mang theo nhiều Cờ Vàng ba sọc đỏ bên mình để khi tiến đến đâu thì cắm cờ đến đó.

Chính những lá Cờ Vàng ba sọc đỏ này đã làm rực rỡ núi đồi mùa Xuân, và cũng đã tiết kiệm được nhiều xương máu của quân sĩ.






Cây cầu ngắn nối liền với đoạn đường đang bị VC đóng chốt bị khống chế bằng một khẩu thượng liên 12 ly 7, nhiều khẩu B40, B41.

Đã hơn một ngày đoàn quân giải tỏa bị dậm chân tại chỗ, không tiến lên được chút nào, nhưng nhiều quân sĩ cũng đã bị hy sinh tại cây cầu.

Đại úy Chế quyết định phải khống chế khẩu thượng liên trước khi cho quân vượt qua cây cầu để nhổ chốt.

Đại đội 1 của Trung úy Nguyễn Trung Chánh
được lệnh tiến đánh mỏm núi, nơi cộng quân đặt khẩu thượng liên. Ông chỉ thị :

- Không cần quân của anh đến được mỏm núi, vì như vậy rất gay go và nguy hiểm. Nhưng tôi cần quân của anh tiến đến đâu thì cắm cờ đến đó. Cắm càng nhiều càng tốt. Và cứ nhứ nhứ cho chúng sợ mà bỏ đi.

Trong lúc đó, các đại đội khác
cũng rãi quân ra khắp núi đồi làm công việc tương tự.

Chỉ trong vài tiếng đồng hồ,
khắp núi đồi vùng Phương Lâm Cờ Vàng nở rộ như Mai Vàng khoe sắc trước mùa xuân tới. Những lá cờ vàng nở ra mỗi lúc một nhiều, như nước thủy triều dâng.

Cộng quân thấy khí thế của đối phương mỗi lúc một dâng cao, chúng bắt đầu nao núng. Cánh quân Đại đội 1 dù không đến được mỏm núi, nhưng tiếng súng từ khẩu thượng liên đã ngưng bặt.

Khi biết chắc khẩu thượng liên đã bị khóa họng, đoàn quân bắt đầu tiến. Cây cầu bây giờ không còn là trở ngại đáng ghét, mà đã giúp đoàn quân tiến nhanh thanh toán mục tiêu.

Quân tiến đến đâu,
Cờ vàng theo đến đó, màu vàng loan đến tận biên giới Madagui của quận Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.






Khắp nơi là cả một rừng Cờ Vàng,
trông như một rừng mai vàng nở rộ trong gió sớm mùa Xuân, đáng lẽ là một mùa Xuân thanh bình của đất nước, nhưng lại là một mùa Xuân của chiến cuộc tràn lan, cho đến một ngày thì mùa Xuân không còn nữa, thay vào đó là một mùa Đông băng giá đang bao phủ khắp trời Nam !


Bảo Định

https://hon-viet.co.uk/


hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (05-18-2021), huudangdo1 (02-28-2021)
Old 02-28-2021   #668
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,388
Thanks: 21,683
Thanked 38,136 Times in 12,871 Posts
Mentioned: 635 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7243 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Tình Đồng Đội, Nghĩa Đồng Môn.

Tác giả tên thật là Tô Văn Cấp. Cựu học sinh Pétrus Ký. Cựu Thiếu Tá TQLC/VNCH. Tốt nghiệp khoá 19 Võ Bị Đà Lạt. Hiện ở Nam Cali.
tdp



Sau nghi thức phủ Quốc Kỳ cho Trần Tú, một đồng đội TQLC, tại nhà quàn Peek Family trên đường Bolsa (Little Saigon CA) anh em chúng tôi ra ngoài sân để “nhớ nhà châm điếu thuốc”, đồng thời nghe anh hội trưởng TQLC Nam CA căn dặn ngày giờ cuốn cờ và tiễn chân đồng đội đến nơi an nghĩ cuối cùng. Khi tôi đang nói chuyện với anh em thì có một vị khách (cũng đến viếng người quá cố) tiến tới chào tôi và hỏi nhỏ:
- Xin lỗi ông, tôi thấy trên nắp túi áo quân phục TQLC của ông mang tên TO CAP, vậy có phải ông là Tô Văn Cấp không?

- Vâng...tôi là Tô Văn Cấp.

Vị khách nắm tay tôi lắc lắc, kéo tôi ra khỏi đám đông, mừng rỡ nói:
- Ê “B.K Cá Rô Cây*”, tao nè, Đỗ Minh Đức, tự “Đức Cống” ở Ba-Lắc-Ký 1955-1962 nè, mày có nhớ không?

Tôi sững sờ nhìn vị khách lạ, nhưng những biệt danh “B.K Cá Rô Cây”, “Đức Cống”, “Ba-Lắc-Ký” (L.Petrus Ký) thì quá quen thuộc, chỉ có trong đám “quỷ ma học trò” chúng tôi mới hiểu mà thôi. Tôi không bao giờ quên chuyện đau khổ ấy, dù đã hơn 60 năm rồi.

Ngày xưa ấy, tôi là chú bé con “Bắc Kỳ Di Cư 54” duy nhất trong lớp Đệ Thất B1 niên khóa 1954-1955 trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, (chúng tôi gọi là “Ba-Lắc-Ký”), tôi bị đám học trò “Nam Kỳ giá sống” bắt nạt gọi tôi là “Bắc Kỳ ăn cá rô cây”, trong đó có tên Đỗ Minh Đức, nó là tên ngỗ nghịch nhất và tự nhận mình là “Đức Cống” (nói lái là đống…).

Nhất định là hắn rồi, tôi xiết chặt tay Đức-người khách lạ, và bóp cho thật đau để trả cái hận xưa. Đã hơn nửa thế kỷ qua rồi, nay bất ngờ đồng môn (cùng trường, cùng lớp) gặp nhau, nhận ra nhau thì bao chuyện nghịch ngợm của tuổi học trò hiện ra khiến những lão già như trẻ lại “mày tao” và ngậm ngùi nhớ các bạn cùng lớp đã hy sinh cho Tổ Quốc Việt Nam, nhắc và nhớ đến quý danh các thầy cô, Thầy Phạm Văn Ba, Thái Chí, Tạ Ký, Thượng Thủ, Hồng Đảnh, Trọng Phỏng, Cô Dung, Cô Sâm, Cô Ngà, Cô Hồng, Cô Thiên Hương đã từng dạy dỗ đám “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò sao cho ra cái giống người”. Tôi hỏi Đức:

- Mày* là “Đức Cống” thật sao? Lớp mình có hơn phân nửa đi Khóa 19 Võ Bị và đã tử trận nhiều rồi, như các Nhẩy Dù Nguyễn Đức Cần, Phạm Thượng Chí, Phạm Khánh Châm, Bộ Binh Lê Đình Điển, Ngô Văn Nô, TQLC Võ Thành Kháng, Nguyễn Văn Hùng, BĐQ Nguyễn Thái Quan v.v.. tao* nghe nói mày* cũng chết cháy theo trực thăng rồi mà. Vậy từ ngày đó đến nay mày* biến đâu mất, lưu lạc phương nào, sao nay lại xuất hiện đến đây để viếng anh TQLC này?

- Tao* tu ở Houston TX lâu rồi, nay bỗng dưng muốn ngao du phương Nam một chuyến cho biết sự tìn. Tao qua CA được hơn tuần, bữa nay đi ngang đây, thấy có đám tang, dường như thần lực nào đẩy tao* vào thắp nhang cho người quá cố này, không ngờ lại gặp mày*, mừng quá...

(*Xin lỗi quý độc giả, mấy lão già mà cứ xưng “mày tao” thì nghe thật chướng tai, nhưng đó là những tiếng xưng hô quá thân tình với nhau để được sống lại thời trẻ. Để quý đọc giả khỏi ngứa tai, những đại danh từ “mày tao” sẽ được thay thế bằng “tôi” trong các đoạn viết dưới đây)

***
Đức kể tiếp:

- Vô tình đi ngang Peek Family, thấy có đám tang và nhiều anh em TQLC, hình như có một thần lực nào đó đẩy tôi vào xin thắp một nén nhang cho người quá cố để nhớ ơn những anh em TQLC đã có lần cứu mạng tôi khi trực thăng tôi bị bắn rơi năm 10/1972 ở Quảng Trị...

Nghe Đức kể vậy tự nhiên tôi rùng mình, khi còn sống, Trần Tú, TQLC mà chúng tôi vừa làm lễ phủ cờ hôm nay, thường hãnh diện kể lại cho chúng tôi nghe về chiến công của anh đã cứu sống một phi công trực thăng bị VC bắn rơi. Trần nói đúng, Trần và tiểu đội của anh gồm 6 TQLC làm tiền đồn đã cứu mạng một pilot trực thăng bị VC bắn rơi bên kia bờ sông Thạch Hãn vào tháng 10/72.

Có thể đây là định mệnh đã đưa đẩy Đức đi ngao du đến Nam CA để gặp và tiễn chân ân nhân là Trần Tú lần cuối cùng chăng?.

Tình đồng đội ngoài chiến trường giữa Không Quân và TQLC cứu nhau khi sống và khi chết lại vô tình đưa đẩy tiễn nhau quả là một chuyện không bình thường. Tôi hỏi Đức kể về vụ rớt trực thăng và được cứu sống như thế nào xem có giống như chuyện Trần Tú thường nhắc không, Đức miên man đi vào dĩ vãng:

***.
Hồi Ký Của Pilot Đỗ Minh Đức:

- Ngày 7/10/1972, Phi Đoàn 233 Thiên Ưng, Không Đoàn 51 Chiến Thuật, biệt phái 6 chiếc trực thăng cho Sư Đoàn TQLC, đóng tại quận Hương Điền, Huế, với nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực tác chiến, tiếp tế và tản thương.

Khoảng 9 giờ ngày 7/10/1972, tôi được lịnh từ Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn TQLC đi bốc giúp một thiếu phụ sinh con khó khăn ở phía Bắc quận Hương Điền, để đưa bà mẹ này về bịnh viện Nguyễn Tri Phương, Huế. Sau phi vụ nhân đạo đó khoảng nửa giờ, tôi nhận được một phi lịnh đặc biệt đi cứu cấp một hoa tiêu A-37 bị phòng không VC bắn, anh ta đã nhảy dù xuống một giờ rồi.

Tôi đã nhiều lần cứu cấp hoa tiêu lâm nạn phải nhảy dù xuống như vậy, nhưng lần này, tôi cảm thấy rất đặc biệt, tại sao A-37 đi oanh tạc lại không báo cho trực thăng ứng trực ngay trên bầu trời? Tại sao một giờ sau mới gọi cứu cấp? Ai trách nhiệm ra lịnh trễ nải như vậy?

Tôi phải cố hành động sao cho thật nhanh, tôi chụp lấy nón bay, nhảy lên ghế lái, chưa kịp xỏ chân vào giày, vẫy tay ra lịnh mở dây cột cánh quạt. Tôi ra hiệu 5 chiếc trực thăng còn lại, (có 2 chiếc võ trang) cất cánh sau tôi. Phi hành đoàn của tôi chưa ai mang giày và áo an toàn. Chúng tôi vừa bay vừa trang bị cho đầy đủ. Tôi cũng đã kiểm soát xem tất cả phi hành đoàn đều có áo an toàn chưa vì rằng hoa tiêu A-37 đã lâm nạn hơn một giờ qua, thời gian đủ dài để VC chuẩn bị những cái bẫy và hỏa lực để hạ những phi hành đoàn đến cứu cấp.

Ngay sau khi cất cánh tại Hương Điền, tôi bấm máy ra lịnh 3 trực thăng vận tải theo sau phải giữ khoảng cách là 3 phút bay. Hai chiếc võ trang bay hai bên cách tôi một phút bay, vì tôi phải áp dụng chiến thuật bay cho phi lịnh hết sức nguy hiểm này.
Trên bầu trời Quảng Trị, nắng gắt, gió Đông Nam thổi nhẹ. Quan Sát Cơ L-19 mang tên Pigeon 10 đang trách nhiệm bao vùng theo dõi. Tôi bắt đầu liên lạc với anh ta khi còn bay với cao độ 1000 bộ, với tốc độ 110 knotts.
- Pigeon 10, Pigeon 10, Eagle 3, Eagle 3 gọi. (Eagle 3 là tên của tôi trong phi lịnh này).
- Eagle 3, Eagle 3, Pigeon 10 tôi nghe anh 5/5.
- Pigeon 10, chỉ dẫn mục tiêu.
- 12 giờ trước mặt,
- 12 giờ nhận rõ.

Sau đó, tôi đã quyết định đưa trực thăng nhào xuống bay sát mặt đất, tốc độ 120 knotts và bắt đầu bay chiến thuật vào vùng tử địa.
Cứ mỗi giây phút trôi qua là nguy hiểm đến gần hơn. Mặc dù có hai chiếc võ trang bay sau tôi để yểm trợ, tôi cho lịnh xạ thủ Tuấn và cơ phi Xôm khi tôi nghiêng cánh bên nào thỉ bên đó bắn không ngừng để đàn áp hỏa lực VC dưới đất.
Tôi đã liên lạc với Pigeon 10 nhiều lần và cũng nhận cùng một câu trả lời như trên. Hỏa lực VC từ đất bắn lên rát lắm, đạn xuyên thủng trực thăng nhiều nơi. Một viên đạn đã nổ tung phía trước bọc kính, một mảnh nhỏ đã ghim trên chân mày tôi, máu lăn xuống mí mắt làm tôi thấy màu đỏ loang loáng. Tôi biết ngay là vùng nguy hiểm vô cùng đã đến. Tôi bảo hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn:

- Tao đã trúng miểng đạn ở trán, mày để tay vào cần lái, bay theo tao.

Văn, không nói lời nào, nhanh chóng đưa tay vào cần lái và nhẹ nhàng bay theo tôi. Đây là cách phòng ngừa khi tôi thình lình “ra đi” trên ghế lái.
Từ Phòng Kiểm Soát Hành Quân, sau khi nghe tiếng tôi, Thiếu Tá Nguyễn Văn Thanh, giọng nhẹ nhàng ra lịnh:
- Eagle 3, phải hết sức cẩn thận. Rồi Thiếu Tá lập lại: “Phải hết sức cẩn thận, tôi nói anh hiểu không?”
- Vâng, Eagle 3 tôi hiểu, Thiếu Tá!

Liên lạc với Pigeon 10, thì vẫn chỉ có một câu trả lời “12 giờ trước mặt!” Tôi thấy những viên đạn lửa của VC bay lên trực thăng trong lúc tôi nóng lòng tìm hoa tiêu A-37 lâm nạn, thình lình cơ phi Xôm hét to lên mừng rỡ:
- Cánh dù bên trái! Thiếu Úy!
Tôi nhìn về phía trái, thấy cành dù, sẵn sàng đáp xuống. Tôi dùng phương pháp đáp khẩn cấp từ 120 knotts, bay thấp trên mặt đất cùng lúc vội vàng bấm máy ra lịnh:

- Tất cả ba trực thăng bay ra ngoài vùng. Trực thăng võ trang bắn yểm trợ.

Và tôi quyết định đáp xuống khi cả vùng trời ngập trong lửa đạn đủ loại, pháo và khói bụi mịt mù. Kéo cần lái sát vào người, cùng lúc tôi đưa cần cao độ sát xuống thấp, quẹo trái, áp dụng kỹ thuật đáp khẩn cấp. Đạn của ta và đạn của địch thi tài áp đảo nhau! VC còn giúp thêm cho tử thần bằng mưa pháo vào bãi đáp, quang cảnh chẳng khác nào phi hành đoàn vào địa ngục để cứu hoa tiêu A-37.

Cơ phi Xôm và xạ thủ Tuấn gan dạ và nhanh nhẹn nhảy xuống đất, phóng nhanh về phía hoa tiêu A-37 lâm nạn và kẹp hai tay xốc anh ta chạy vội vàng về trực thăng. Tôi nhận ra đó là Thiếu Úy Nguyễn Hàn.

Khi cả ba đã bước lên trực thăng, tôi vội vã kéo cần lái, cần cao độ cất cánh trong bụi cát mịt mù dưới cơn bão pháo và súng lớn nhỏ các loại của VC. Chúng tôi vô cùng mừng rỡ, phi vụ cứu cấp thành công! Tôi vội bay hướng Đông Nam về Huế, Phú Bài!

Mọi việc được hoàn tất mau chóng và chuyên nghiệp trong khi VC liên tục pháo vào bãi đáp. Khi trực thăng của tôi đạt tới cao độ vào khoảng 200 bộ thì bất ngờ bị hỏa tiễn hay 12 ly 7 đã bắn gãy cánh quạt đuôi, trực thăng giựt mạnh quẹo sang trái. Tôi phải tắt máy và áp dụng thể thức đáp khẩn cấp. Bây giờ là đáp khẩn cấp thật sự đây!

Năm người trên trực thăng, kể cả Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn, phải tìm cách mưu sinh thoát hiểm, vì trong không gian bom đạn mịt mù và mưa pháo VC, thì tôi đâu muốn để cho anh em trực thăng khác ở bên ngoài bay vào cấp cứu chúng tôi, rồi chuyện gì sẽ xảy ra như tôi đang bị xảy ra như hiện tại.

Ngay khi trực thăng đáp xuống đất, tình thế rất khẩn cấp, tôi gọi xạ thủ Tuấn mở cửa cho hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn, và mọi người nhớ theo tôi, vì tôi giữ máy liên lạc.

Nhưng trong cơn mưa pháo của VC, cơ phi Xôm, xạ thủ Tuấn, hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn và hoa tiêu A-37, Thiếu Úy Nguyễn Hàn, tất cả đã rời khỏi trực thăng qua cánh trái, khi tôi lấy dụng cụ và máy liên lạc cứu cấp xong, tôi nhảy xuống đất bên phải của trực thăng. Chỉ vài phút sau là chúng tôi mất liên lạc với nhau, không cách nào trông thấy nhau trong cơn bão pháo và bụi mịt mù. Địa ngục đây rồi!

Dưới bầu trời nắng gay gắt, VC vẫn liên tục mưa pháo vào trực thăng của tôi. Bụi mù và mưa pháo vùng tử địa, không ai nhìn thấy ai nữa! Tôi nhiều lần khẩn khoản 3 hoa tiêu trực thăng đừng vào vì rất nguy hiểm. Tôi biết 3 chiếc trực thăng còn lại nóng lòng muốn cứu chúng tôi, cũng bay vào, rồi thì bị đạn, rồi thì cũng không tài nào thấy được nơi chúng tôi đang nấp nên trong khoảnh khắc giành giựt với tử thần đó, anh em cũng đành phải rời vùng.

Lại có thêm 2 trực thăng Cobra và 1 chiếc trực thăng CH53 chuyên môn cứu cấp của Hoa Kỳ cũng bay đến cấp cứu! Tôi cũng đã dùng máy liên lạc và kêu gọi rời vùng ngay vì súng phòng không VC đầy dẫy chung quanh bãi đáp, đừng bay vào rọ.

Chiếc trực thăng của xấu số của tôi, danh số ở đuôi là 827 màu trắng dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ đã từng hiên ngang ngạo nghễ sau những tháng năm dài phục vụ con người, giờ đây, nhằm giờ hóa kiếp, nó đã bị thương mất đuôi, rồi bị bao nhiêu đạn pháo, nó bốc cháy ngùn ngụt.

Tôi chạy khỏi phi cơ độ hơn 100 thước, lại bị thương vào đùi, tôi đã ngã xuống một hố bom cũ phủ đầy cỏ dại, tôi bất tỉnh, mê đi!

Tiếng đạn pháo liên tục gầm vang, gió cuốn bụi cát xát mạnh vào mặt làm tôi choàng tỉnh và mở mắt ra! Bầu trời xám xịt, mây đen thấp xuống, bao phủ cả vòm trời! Màn đêm xuống mau lẹ với cơn mưa to, nhiều sấm sét. Đến nửa đêm khi đạn pháo bớt, tôi nghe tiếng người lục soát, tìm kiếm chúng tôi. Tôi cố giữ hoàn toàn yên lặng, tôi nghĩ rằng họ là VC.

Nằm núp dưới đất bùn dơ bẩn, trong cơn mưa sấm sét, tôi cảm thấy lạnh vô cùng, khi tiếng bọn VC đã đi xa, tôi phải lách mình, bò đi một cách êm thắm, trầm mình xuống lạch nước mưa mà trườn tới! Bấy giờ tôi liên tưởng đến những người khác, đầu óc tôi lẩn quẩn nghĩ miên man tới phi hành đoàn của tôi và hoa tiêu A-37 Nguyễn Hàn. Hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn, nhà ở Quảng Tín, mới ở Mỹ về, tôi bay với Văn và đã đề nghị cho Văn là hoa tiêu phụ đi hành quân với tôi. Văn khoe còn giữ 300 Mỹ Kim và cất ở túi bay dưới chân để dành cưới vợ. Còn Xôm và Tuấn rồi Hàn bây giờ ra sao rồi? Cả bốn người có bị VC gian ác bắt không?

Tuấn và Hàn là người gốc Huế, mà Huế và Quảng Trị đâu xa gì! Chắc là cả bốn người biết luồn lách mà tránh được VC để về đến Huế. Tôi bị mặc cảm dằn vặt mãi, bởi vì tôi, vì tôi quyết tâm bay vào lửa đạn để cứu hoa tiêu A-37 lâm nạn, nếu lúc Thiếu Tá Thanh nhắc chừng, tôi đã nhận thấy quá nguy hiểm mà bay trở lại thì đã an toàn cho tất cả, nhưng rồi còn Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn thì sao?

Dù sao, tôi vẫn cứ tự an ủi nếu ai cũng thiếu gan dạ, không chấp nhận hiểm nguy thì tình chiến hữu đồng đội có ra chi. Bị thương, ừ thì bị thương, chết ừ thì chết, bổn phận không thể không hoàn tất. Mạng sống con người quý giá lắm. Nhưng cái quý giá đó không so sánh được nếu vì lý tưởng, bổn phận phải hy sinh. Tôi đã từng bảo hoa tiêu Lê Công Quởn, đã hy sinh tại căn cứ Hoàng Đế phía Tây của Huế, rằng:

- Là người làm tròn nhiệm vụ, hy sinh cho người khác, khi chết sẽ được vinh hạnh thành Thánh, nếu không cũng được thành Thần.

Tôi đã cầu nguyện cho bốn người này. Tôi cũng cầu xin Đức Chí Tôn:

- Xin Ngài che chở cho tôi nếu Ngài nghĩ rằng tôi còn hữu ích cho đổng đội. Nhược bằng trái lại, xin cho tôi nhận một quả pháo trọn vẹn từ quân VC vô thần, gian ác! Tôi xin đoàn tụ cùng những bậc tiền nhân, ông cha anh hùng của tôi.”

Tôi nghĩ đến vinh dự cao cả của bao nhiêu người lính gan dạ đã đem thân bảo vệ độc lập, hòa bình của Tổ Quốc thì đâu sá gì mình bị thương hay bị hy sinh bởi súng đạn quân VC xâm lăng.

Mải mê suy nghĩ đến bổn phận, mơ màng trong trách nhiệm thế rồi tôi rơi vào giấc ngủ lúc nào không hay.

Tiếng chân người rầm rập trên mặt đất mỗi lúc một gần hơn, gần hơn, rồi một toán VC hung ác đứng gần chỗ tôi trốn. Tôi đã vùi thân mình dưới tầng bùn đen. Tôi chẳng còn gì trên tay, chiếc nón bay, áo chống đạn đã để lại trên trực thăng đã cháy rụi rồi. Trống ngực đập thình thịch, tôi sợ hãi vô cùng, rồi chúng bỏ đi. Từ kinh nghiệm này, trên đường mưu sinh thoát hiểm về lại căn cứ, tôi đã hết sức đề phòng từng ly, từng tí, tránh mọi bất trắc.

Mò ra khỏi vũng bùn, chiếc áo bay của tôi quá nhiều túi, bây giờ chứa đầy bùn trở thành một gánh nặng nên tôi đã cởi bỏ, tôi chỉ còn mặc một chiếc quần lót mà thôi. Để ngụy trang, tôi đã dùng bùn trét đầy lên khắp người, và hết sức cẩn thận trườn đi bằng ngực, hoặc bằng lưng của tôi, bởi vì làm sao tôi có thể đi được khi mà khớp nối của đầu xương đùi bị thương quá nặng.

Tôi trườn được một đỗi vừa để ý ép tai mình xuống mặt đất để nghe có tiếng chân ai đó hay không. Tai tôi cũng mở rộng, hết sức chăm chú. Lúc này trời cũng sắp tối đến rồi. Theo hướng gió từ xa đưa lại, tôi nghe tiếng nói eo éo của đám VC. Tôi vội vàng lẩn trốn ngay. Tôi thấy đói cồn cào và khát nước! Đạn pháo hôm nay ít hơn hôm qua.

Rồi thì mưa đổ xuống như thác, nhờ vào đó mà tôi di chuyển an toàn hơn. Tôi dùng hai bàn tay nắm cỏ cao kéo tới, chân trái phụ vào bằng cách đạp vào mặt đất cho toàn thân di chuyển về phía trước được hai hay ba chục mét. Thật may mắn làm sao! Mưa càng to thì tôi càng di chuyển được dễ dàng và an toàn hơn, bởi lũ VC lười biếng đi kiểm soát trong cơn mưa.

Tôi đã kiệt sức rồi, dù vậy tôi vẫn phải cố hết sức bò đến một hố nước, trầm mình dưới vũng nước để được ấm hơn trên mặt đất gió thổi. Hai bàn tay khuấy nước cho sạch bớt bùn đất, rồi hai tay chụm lại hứng từng giọt nước mưa để thấm giọng cho đỡ cơn khát. Tôi tiếp tục làm như vậy cho đến khi tôi thấy bớt khát.

Tôi tự bảo rằng dừng lại việc di chuyển về hướng Nam là tự sát, mỗi tấc tôi trườn tới có nghĩa là tôi về gần chỗ an toàn hơn, bởi vậy, tôi phải cố gắng di chuyển, tai lắng nghe xem có sự động tĩnh gì của lũ VC hay không. May mắn quá tôi không thấy cái gì cả, nhưng những dây điện thoại của VC liên lạc thì giăng đầy như lưới nhện trong vùng tử địa chiến tranh tàn khốc này.

Ngày thứ ba trên bãi chiến trường, tôi thức giấc khi tiếng phi cơ phản lực vọng lại từ xa xôi lắm. Tôi hy vọng chúng đến gần tôi hơn, để tôi có thể đánh hiệu lên cho chúng biết rằng tôi vẫn còn sống.

Tôi nhớ Thiếu Úy Hồng, cùng Phi Đoàn 233 của tôi, đã dùng chính hộp nước ngọt để gửi dấu hiệu cho trực thăng tìm kiếm của Đại Úy Nguyễn Văn Banh. Đại Úy Banh nhận được tín hiệu, tức khắc anh tắt máy cho được an toàn và đáp xuống một khoảng trống cạnh một con rạch nhỏ của dãy núi cao. Đại Úy Banh đã cứu được Thiếu Úy Hồng một cách ngoạn mục. Tôi cũng đã thết đãi Thiếu Úy Hồng một chầu mừng thoát chết. Tôi cũng đã học hỏi cách nào Thiếu Úy Hồng mưu sinh thoát hiểm để có ngày nào đó đến lượt tôi, và lúc này tôi đã có chút kinh nghiệm. Tôi đã quan sát cẩn thận chung quanh cho an toàn rồi tiếp tục mò về hướng Nam. Lúc đó một chiếc Quan Sát OV-10 trên bầu trời bỗng bay thẳng vút lên trời xanh tránh hỏa tiển SA7 của VC, để lại một vệt khói trắng màu tang. Tôi hú hồn cho chàng hoa tiêu trên chiếc OV-10 đó.

Trong giây lát, tôi bỗng miên man nhớ lại hình ảnh của Đại Tá Khánh, Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn 1 Không Quân, Trung Tá Phước, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51 Chiến Thuật, còn gọi là Phước răng vàng. Tôi nhớ Thiếu Tá Bùi Quang Chính, Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 233. Ông này làm anh cả thì tốt hơn là Phi Đoàn Trưởng. Ông đã chăm sóc mọi thứ cho thuộc hạ dưới quyền, từ sĩ quan cho đến binh sĩ! Gia đình ra sao, anh chị em thế nào. Ông biết rõ từng người trong gia đình của Phi Đoàn. Tôi nợ ông nhiều lắm. Tôi phải trả ơn cho ông bà- bà giáo Diệp, bà đối xử với tôi như chị ruột. Cơn đói và rét kéo tôi vào giấc ngủ nữa rồi.

Cơn mưa chiều nhiều sấm sét cùng tiếng nổ đạn pháo của hai bên Quốc Gia và Cộng Sản làm cho bầu không khí trở nên ồn ào ghê rợn khiến tôi tỉnh giấc, tôi không thể nào nghe rõ sự vật quanh tôi. Tôi sắp bước qua đêm thứ ba không quần, không áo! Chính bùn, đất và bèo cỏ đã thay cho quần áo và là phương tiện ngụy trang rất hữu hiệu cho tôi. Tôi thầm nhủ rằng lợi dụng đêm tối, mưa giông để mò đi sẽ làm ngắn lại con đường về căn cứ an toàn hơn.

Mưa to quá, mưa xối xả như trút nước, sấm chớp vang trời như thiên lôi rượt đuổi, diệt trừ quỷ ma đang hành hạ con người. Nhờ mưa đêm che chở tôi tránh được sự dò tìm của bọn độc ác VC.

Tôi vừa trườn qua một chiếc đầu lâu và bộ xương người trắng hếu. Bàn tay tôi nhẹ nhàng vuốt cái xương sọ cùng lúc van vái rằng:

- Tôi biết tại sao anh bị giết, xin giúp tôi đến nơi bình an tôi sẽ cúng..

Một lúc sau tôi thấy một con mèo trắng, đi quanh quẩn bên tôi và rồi đi về hướng Nam. Tôi tự hỏi tại sao có con mèo hoang ở vùng lửa đạn này? Tôi không sợ ma mà muốn sống nên cố trườn theo con mèo, nhanh và nhanh hơn nữa, vì vết thương đã có mùi thối như xác chết! Đây là bãi chiến trường, vùng oanh kích tự do, chẳng có hàng tre hay bờ tường nào cao hơn nửa thước. Tất cả điêu tàn, là sắt máu hận thù!

Ngày thứ tư trên bãi chiến trường bắt đầu bằng đạn pháo ầm ĩ, súng nổ bốn bề, nhằm giết đi hết mọi sinh vật của Thượng Đế trên đời! Nghĩ cho cùng, nếu Hà Nội không ngu xuẩn nghe lời xúi dại của Liên Xô và Trung Cộng, xua quân xâm lấn miền Nam, thì làm gì có cảnh gió tanh mưa máu hôm nay. Cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt. Ngàn đời nguyền rủa sự ngu xuẩn tham lam của lũ Cộng Sản.

Có lẽ là hai hay ba giờ chiều. Đây là ngày thứ tư tôi nằm trên vùng tử địa. Mây đen kéo tới, bầu trời đen kịt. Gió thổi càng lúc càng mạnh, gió mạnh làm ngả rạp đám cỏ cao quá đầu gối. Tôi vẫn luôn cảnh giác nghe ngóng về giọng nói của người và những động tĩnh bất thường trên đường thoát hiểm hướng về Nam.

Tôi đã không có một chút gì ăn trong ba ngày qua, tôi thấy đói và đói. Tôi thấy mình dần dần yếu đi, đến nỗi tôi muốn dừng lại một chỗ. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, dừng lại chẳng khác nào tự tử. Đâu ai biết tôi nơi nào mà cứu cấp! Do vậy mà tôi phải cố gắng trườn đi từng tấc, từng tấc đất để về Nam. Nhờ vận chuyển tôi thấy có thêm sức mạnh và ấm người hơn.

Bèo cám trên mặt nước dân miền Nam dùng để cho heo ăn, nhưng rồi không có cái gì bỏ vào miệng cho bao tử làm việc sinh ra nhiệt, nên tôi buộc lòng nhặt một ít bỏ vào miệng nhai, nhai và nuốt, tôi cảm thấy có cát đất đi vào bao tử với nhúm bèo cám. Tôi nghĩ bao tử tôi reo vui khi làm vai trò sinh nhiệt cho thân tôi.

Trời lại sắp mưa, gió giật, gió quyện vào nhau cuốn từng cộng rác to nhỏ xoáy tròn bay cao lên khoảng trời đen sẫm. Trời mưa rồi, tôi trườn qua một mái tranh sụp xuống gần ngang mặt đất. Tôi nghe ai đó nói chuyện bên trong. Tôi chắc chắn chúng là lũ ác ôn VC đây rồi! Tôi lặng yên trườn đi nhanh xa chỗ đó. Tôi lại may mắn bởi trời đã đổ mưa to, VC chúng núp trong mái tranh nên đã không phát giác ra tôi! Thật quá căng thẳng đến nỗi tôi nghe được cả nhịp tim tôi đập liên hồi trong lồng ngực.

Tôi lại may gặp con rạch nhỏ, tôi trườn mình đi nhẹ nhàng đến nỗi không một gợn sóng lan ra trên mặt nước. Tôi tạm nghĩ ngơi, hít thở những hơi dài, coi như rất sảng khoái. Tôi đã cách xa chòi lá giết người lúc nãy rồi.

Hai bàn tay tôi chừng như rã rời, những chỗ bị thương máu đã khô đặc lại, khi gặp nước làm tôi cảm giác xót buốt vô cùng! Thực ra tôi không còn sức di chuyển nữa rồi. Lúc bấy giờ tôi đang bên bờ sông Thạch Hãn. Tôi cẩn thận mò xuống dòng sông ngước nhìn tìm chỗ trú an toàn. Tôi biết tôi có thể ngủ ngay tức khắc! Do vậy tôi phải tìm cách nào kín đáo nhứt để ẩn thân đi vào giấc ngủ vùi hẹn hò nhiều mộng mị.

Tiếng pháo nổ gần làm tôi tỉnh ngủ, tôi thấy mình đang nằm vắt trên hai rễ cây, chìm dưới làn nước của bờ sông Thạch Hãn. Lúc đó mặt trời lên giữa đỉnh đầu, nắng gay gắt, không thấy có chút gió nào. Toàn khoảng không gian như bị tan tác, xé ra từng mảnh bởi những phi cơ phản lực oanh tạc thay nhau thả bom liên hồi xuống rặng núi phía Tây là dãy Trường Sơn.

Tôi bước vào ngày thứ năm trên bãi chiến trường chết người. Tôi luôn luôn nghĩ là tôi vô cùng may mắn. Trời đất cho tôi nhiều ân huệ, ngày nắng gắt cung cấp cho tôi nhiều năng lực ấm áp để rồi đêm đến trong cơn mưa lạnh tôi có đủ sức trườn đi, mò về miền an toàn nhanh hơn.

Tôi trông thấy nhiều thùng đạn pháo in chữ Tàu, trên bờ Bắc sông Thạch Hãn, đựng trong những bao plastic, nói lên một thực tế là quân VC đang kiểm soát phần đất phía Bắc dòng sông định mạng Thạch Hãn! Biết vậy tôi tự bảo tôi phải nhanh chóng lánh khỏi nơi tử địa này, bơi sang phía Nam càng sớm càng tốt.

Lợi dụng trời tối, tôi nhẹ nhàng hết sức, cố bơi sang bờ Nam của dòng sông mà không để lại bất cứ một lượn sóng nào, bởi tôi biết rất rõ là do làn sóng lan ra đó, VC sẽ phát giác ra tôi và rồi tôi sẽ lãnh ngay một tràng AK kết liễu đời mình!

Khối nước to lớn và đám bèo trên mặt nước của dòng sông làm rớt đi những mảng đất sét ngụy trang trên cái thân ốm đói của tôi. Vết thương trên đùi phải cũng bớt đau dai dẳng mấy ngày qua. Rồi cũng đến lúc tôi mò tới được bờ Nam rồi.

Tôi tìm xem nơi nào có lỗ trống để tôi lết thân lên bờ. Tôi dùng hai tay bám vào mặt đất mà trườn lên bờ Nam rồi chui vào trong đám cỏ. Tôi trườn đi giữa những đám cỏ cao ngang ngực, khi bóng chiều xuống nhanh, mặt trời khuất sau dãy Trường Sơn, ánh sáng cuối ngày còn vất vưởng trên cánh đồng mênh mông đầy mùi tử khí.

Mưa đêm qua lớn quá nên qua một ngày nắng gắt rồi mà vẫn còn nước đọng lại trên đường đi giúp tôi trườn tới dễ dàng như đang bơi lội trên đám cỏ sũng nước. Cứ lập đi lập lại mãi động tác hai tay dang ra phía trước nắm cỏ kéo lê thân đi, chưn trái đạp vào đất! Cố gắng, tiếp tục cố gắng nữa. Muốn sống phải vươn lên.

Chắc cũng được vài trăm thước rồi thì phải, tôi cảm thấy đuối sức, hết hơi trườn tới nữa rồi! Bãi cỏ voi cao quá, cao quá không ai có thể nhìn thấy tôi nằm trên láng cỏ ướt đó. Tôi thấy khát nước vô cùng, muốn uống bất cứ nước gì để thỏa mãn cơn khát.
Bất ngờ, may mắn làm sao, tôi thấy loáng thoáng vài anh lính Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa lom khom chạy qua gần bên tôi. Tôi đã vận dụng hết sức mạnh còn lại để gọi:

- Thủy Quân … Lục Chiến...

Tiếng tôi đứt khoảng vì không đủ hơi. Sau khi nói lên chữ “Lục Chiến”, tôi hoàn toàn hết hơi. Tôi đã hiểu tôi có cuộc gặp gỡ ly kỳ này là trời cho.
- Đứng lên! Giơ tay lên!

Một anh lính TQLC chĩa súng chăm chăm vào tôi và gằn giọng ra lịnh:
Tôi nghe cái lịnh “đứng lên” của anh ta mà tức giận:
- ĐM! …thiếu úy… hoa tiêu … trực thăng … gãy chân...

Sau câu nói hết sức lực đó, tôi như đi vào hôn mê.
Bầu trời sụp tối, gió chiều đã thổi mơn man qua mặt tôi như bàn tay bà mẹ hiền vuốt má đứa con thân yêu. Tôi thấy nhẹ nhàng lâng lâng, trút mọi lo âu cho quá khứ. Một anh TQLC bò đến sát bên tôi, nói thì thầm vào tai tôi:
- Thiếu Úy, Thiếu Úy, bám vào lưng tôi để tôi bò kéo Thiếu Úy vào…

Chưa bao giờ tôi được nghe hai tiếng “thiếu úy” yêu thương như lúc này, trong khi trên người tôi chỉ còn cái quần đùi! Hai tiếng gọi: “thiều úy” tức là anh em TQLC đã nhận ra tôi là đồng đội, là phi công lái trực thăng. Trước sự sống, toàn thân tôi như liệt đi, tôi nói nhỏ:
- Lấy dây lưng TAB nối vào nhau, cột hai tay tôi và kéo, tôi không bám nổi.

Anh TQLC bò vào chỗ trú quân của anh. Mặt trời lặn hẳn rồi, nhưng đứng gần cũng còn nhìn rõ mặt nhau. Gió Đông Nam nhẹ nhàng đưa hơi nước mát lòng, mát dạ đến vùng chiến địa cài răng lược, quân ta và quân VC đóng xen kẽ nhau.

Quả là phước đức vô cùng, đêm nay trời không mưa. Thật mầu nhiệm của Ơn Trên ban thưởng cho tôi. Tôi yên lặng tận hưởng sự sống lại, không thể nói lời nào khác nữa trong giây phút này, nhưng trong thâm tâm, tôi vui mừng khôn xiết, tôi biết rằng tôi đã được cứu, tôi được sống từ giờ này.

Vài phút sau, hai anh lính TQLC lại bò đến bên tôi, một anh nằm sát đất, anh kia nâng tôi lên lưng anh nọ, rồi cả ba trườn vào nơi ẩn núp, nơi tuyến đầu xen kẽ cài răng lược giữa quân ta với địch. Nơi đây tôi lại bất ngờ gặp Thiếu Úy Thanh, một người bạn vốn là sinh viên sĩ quan cùng tiểu đội với tôi khi cả hai cùng được huấn luyện tại Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức.

Thanh ngồi xuống, ôm lấy tôi từ từ nâng tôi ngồi dậy, cả hai ôm choàng nhau, nước mắt ràn dụa, chúng tôi nhắc lại kỷ niệm thời sinh viên sĩ quan khi cả hai cùng trình diện sĩ quan cán bộ vì bị phạt dã chiến 4 đêm, làm chúng tôi luyến tiếc thời khóa sinh. Thanh trao cho tôi một điếu Rubi quân tiếp vụ. Điếu thuốc thấm nước phân nửa, ngả màu vàng, cong vòng, nhưng khi hít một hơi thông suốt thì thấy lòng sảng khoái.

Bấy giờ chắc khoảng 9 hay 10 giờ đêm, khác với những đêm mưa tầm tã vừa qua, đêm nay mưa chỉ lấm tấm đủ làm ướt áo khách qua đường. Tôi được chuyển sang vùng an toàn hơn. Rời chỗ Thiếu Úy Thanh chia tay lưu luyến, tôi bắt tay cám ơn từng anh em và Thanh. Tôi dặn dò các anh nên hết sức cẩn thận, vì sau mỗi lùm cỏ cao có VC núp.

Tôi được đưa đến bộ Chỉ Huy Đại Đội, bởi tuyến đầu của Thanh, hai bên cọ sát đương đầu nhau trong gang tấc. Tôi được một anh lính TQLC cõng, ba anh khác đi theo phụ giúp, hai anh hai bên, và anh thứ ba phía sau. Con đường chuyển tôi đi qua nhiều dốc đất sét, đất sét gặp nước mưa làm con đường càng trơn trợt nguy hiểm, dễ dàng té ngã.

Chúng tôi tới Bộ Chỉ Huy Đại Đội, nơi đây có bao cát chung quanh. Tôi hoàn toàn kiệt sức, bởi vì tôi phải dùng hết sức mình ôm chặt anh TQLC khòm lưng cõng tôi. Do vậy, với ân tình huynh đệ chi binh xứng đáng ngàn vàng đó tôi đã lấy hết sức tàn để siết tay và nói lời cám ơn 4 anh TQLC vừa gan dạ vừa tình nguyện hy sinh cõng tôi ra khỏi bàn tay của tử thần. Tôi nhờ TQLC gọi máy liên lạc về Huế, và Đà Nẵng cho họ biết là tôi đã được cứu về đến nơi an toàn. Lúc đó, một anh TQLC đến bên tôi hỏi:
- Thiếu Úy đói lắm hả, uống sữa nhé, chúng tôi cũng có mì Quân Tiếp Vụ.
- Không, cám ơn anh quá đi, tôi chỉ buồn ngủ thôi.

Tôi đáp nhanh và rơi vào giấc ngủ hồi nào không hay.

Đến sáng, khoảng 7 hay 8 giờ, một chiếc xe thiết vận xa M113 đến trước Ban Chỉ Huy Đại Đội để chở tôi đi. Tôi vui mừng khôn xiết, nhắm mắt lại mơ màng. Trước khi chiếc M113 di chuyển, anh Đại Đội Phó bắt tay tôi siết mạnh và chúc mau lành để trở lại chiến trường với anh em. Anh cười, và cho biết thêm rằng lúc hơn 2 giờ khuya, một phi hành đoàn của Trung Úy Lưu, Phi Đoàn 233 có liên lạc với TQLC để đến bốc tôi về bịnh viện, nhưng anh từ chối vì an ninh cho cả Đại Đội ban đêm. Đạn và súng cối VC sẵn sàng tấn công vào Đại Đội khi trực thăng đáp xuống rước tôi. Anh đã khước từ nhiều lần mặc dù Trung Úy Lưu khẩn khoản và nói rằng Trung Úy Lưu sẽ tắt hết đèn và tắt máy để đáp xuống bất ngờ. Tôi nghe chuyện mà thương cho người đứng đầu chiến tuyến, thương và cảm phục tình chiến hữu trong quân đội, thương Trung Úy Lưu.

Hơn nửa giờ sau thì chiếc M113 dừng lại, tôi được khiêng ra khỏi xe, tôi cám ơn các anh kỵ mã can trường. Xe đã lui mà tôi còn nghe lời chúc mau bình phục của họ.

Tôi nhìn quanh quan sát, đây là trạm cứu thương giữa chiến trường, Bác Sĩ Quân Y TQLC nhìn tôi e ngại, thương tình. Lúc đó, trên người tôi chỉ có một chiếc quần lót lẫn sình đất. Xót xa quá, nên bác sĩ lấy bộ đồ rằn ri TQLC có đính huy hiệu Quân Y, và bảo mấy anh y tá mặc vào cho tôi.

Thú thật, trong bộ quân phục Binh Chủng anh hùng đó, trông tôi mạnh mẽ hơn lên. Tôi cám ơn họ nhiều lần, bác sĩ và binh sĩ TQLC can trường còn trẻ quá.

Mặc xong bộ quân phục TQLC, một xe tải thương đã sẵn sàng để chuyển tôi về nơi an toàn hơn nữa để trực thăng đến bốc về bịnh viện. Xe chạy trên đường đất đỏ có một hàng cây bên trái. Gió buổi sáng len vào thùng xe làm tôi cảm thấy dễ chịu. Có lẽ sau đêm ngủ ngon lành nhiều mơ mộng vui tươi, tôi như có thêm nhiều sức lực. Sức lực có thêm là nhờ tình người, tình đồng đội, tình chiến hữu trong đấu tranh sinh tử có nhau.

Xe cứu thương dừng lại nơi có tên Ngã Tư Quốc Tế, đây là Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 147/TQLC. Tôi được khiêng xuống, và xe cứu thương trở lại trạm Y Tế Tiền Phương, nơi có bác sĩ cứu tôi

Nằm trên băng ca nơi yên ổn, có người chăm sóc thân mến, lòng tôi rộn ràng nghĩ đến anh em ở Phi Đoàn 233 chắc đang chờ gặp tôi. Mắt tôi lơ đãng nhìn bầu trời xanh, mây trắng mà thầm cám ơn Thượng Đế, các đấng Thần Linh đã che chở cho tôi. Cám ơn những đêm mưa đầy sấm sét. Cám ơn người chết nằm giữa đường, xương sọ, xương người trắng hếu. Cám ơn Quân Đội đã sản sanh ra những người chiến hữu sống chết có nhau.

Tôi về nơi yên lành mà sau lưng còn bao nhiêu lính trận phải mở mắt to lên, ngày đêm cho dù buồn ngủ đến cay xé. Làm sao đủ từ ngữ để nói lên tinh thần hy sinh cao cả của những người lính TQLC trên tuyến đầu lửa đạn.

Bây giờ, ngồi ghi lại những dòng chữ nầy, lòng tôi vẫn còn bồi hồi, cảm động. Tôi thắc mắc tại sao ngày đó người lính miền Nam gan dạ đến như vậy? Lý tưởng bảo quốc, an dân? Lao vào mục tiêu, biết mình sẽ hy sinh, nhưng vẫn có biết bao nhiêu người trẻ tình nguyện.

Riêng chuyện của chính tôi, tinh thần nào là động cơ để 4 người lính TQLC không ngại bị ngã gục khi cõng tôi ra ngoài vùng binh lửa, cài răng lược.

Tôi đã trườn đi năm đêm rồi, quãng đường dài chắc hơn 5 cây số, dẫy đầy mìn bẫy và dây điện thoại của Cộng Sản! Tôi mang ơn những người lính Mũ Xanh nầy biết bao nhiêu! Ôi tình người, tình chiến hữu.

Một phi vụ cứu cấp không thành:
Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn gan lỳ của chúng tôi đã hy sinh sau hai ngày lần mò về miền an toàn!

Phi công phụ Trịnh Hữu Văn bị VC bắt sau 4 ngày thoát hiểm, sau này Văn được thả ra từ nhà tù miền Bắc, hiện nay, Văn cư trú tại Houston.

Xạ thủ Tuấn, người trai xứ Huế không biết bây giờ ra sao?

Còn cơ phi Võ Văn Xôm?

Lúc tôi còn nằm trị thương tại Trung Tâm Y Khoa Không Quân Tân Sơn Nhứt, thì chiếc quan tài của cơ phi Xôm được chuyển đến và hôm sau, trực thăng đưa về quê của Xôm ở Cai Lậy! Xôm tìm về gần đến vị trí của TQLC thì bị lộ và VC đã giết, tiểu đội Trinh Sát TQLC đã tìm được xác Xôm với tấm thẻ bài!

Ngày 7/10/1972 tôi bị bắn rơi, 5 ngày sau, ngày 12/10/1972 được anh em TQLCVN cứu về, tôi được đưa vào bịnh viện của Không Đoàn 366 của Không Quân Hoa Kỳ Đà Nẵng, được trị thương săn sóc tốt lành như chính những người lính Mỹ.

Tất cả họ là đồng đội của tôi, tôi nợ mạng sống với các anh, làm sao tôi trả nổi? Và phép lạ nào kéo tôi từ Houston TX đến đây, Little Saigòn CA này, đúng lúc đến nhà quàn để tiễn biệt một ân nhân. Tôi không bao giờ quên những người anh em Mũ Xanh Anh Hùng./.
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	96302.ttgun1.jpg
Views:	0
Size:	40.9 KB
ID:	1748000
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
duckyy (02-28-2021), hoathienly19 (02-28-2021), huudangdo1 (02-28-2021)
Old 02-28-2021   #669
huudangdo1
R7 Tuyệt Đỉnh Cao Thủ
 
huudangdo1's Avatar
 
Join Date: Jul 2007
Posts: 5,410
Thanks: 1,510
Thanked 2,121 Times in 1,082 Posts
Mentioned: 9 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 101 Post(s)
Rep Power: 24
huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7
huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7huudangdo1 Reputation Uy Tín Level 7
Default

WoW !...Cám ơn Huynh Hoanglan22 đã tiếp tục đăng những Hình Ảnh và Chiến Tích Oai Hùng của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa năm xưa !...Như những kỹ niệm Thời Chinh Chiến mà Chúng Ta ra đi vẫn luôn ghi nhớ trong lòng và mãi mãi !...

Thân Chúc Huynh Hoanglan22 và Gia Đình 1 Năm Mới TÂN SỬU 2021 được Sức Khỏe Dồi Dào & An Khang Thịnh Vượng và Vạn Sự Như Ý !...
Thân Chào Huynh !
huudangdo1_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to huudangdo1 For This Useful Post:
hoanglan22 (05-18-2021)
Old 03-01-2021   #670
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,388
Thanks: 21,683
Thanked 38,136 Times in 12,871 Posts
Mentioned: 635 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7243 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Trận Diệt Chiến Xa Trên Dẫy Đồi







(Hình 1) Các Sĩ quan TĐ11 Nhảy Dù tại sông Bồ 1973
Từ trái sang phải: Dũng, Quân, Thông, Tuấn, Oanh

(Hình 2) Trung Tá Nguyễn Đình Bảo và Đại Tá Trương Vĩnh Phước TLP/SĐND
tại Kampuchea

(Hình 3) Phù hiệu TĐ11 Nhảy Dù


Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, với huy hiệu Song Kiếm Trấn Ải, sau khi ngậm đắng nuốt cay phải để Mũ Đỏ Nguyễn đình Bảo ở lại với Charlie, mối đau còn thấm trong tim gan, trong lòng mọi quân nhân các cấp, cho tới ngày 15 tháng 4 năm 1972, ngoại trừ các con chim không may bị sa vào tay giặc, vài con chim cuối cùng trong đàn chim lạc của Song Kiếm Trấn Ải còn tìm về với gia đình của mình tại căn cứ Metro nơi đóng quân của Pháo Đội C1 Nhảy Dù, mấy ngày nay Pháo Đội C1 Nhảy Dù, theo lệnh trên nên cứ năm hay mười phút, lại cất tiếng vang vang trên dãy trường sơn, súng đại bác bắn tiếng một, như tiếng chuông chùa ngân vang khi chiều tàn, nghe đến não lòng, tiếng súng đại bác như tiếng pháo đơn lẻ vô duyên, ôi! Tiếng súng đại bác như tiếng quốc kêu từng tiếng một, từng tiếng một tha thiết gọi đàn!

Nhớ bạn (nước) đau lòng con quốc quốc
(bà Huyện Thanh Quan)

Mục đích để những anh em thất tán nghe tiếng pháo, may ra có ai còn đủ sức, định hướng trở về, nhưng hy vọng cuối cùng không còn nữa, những ngày sau đó không còn một tăm hơi nào, tuy vậy thỉnh thoảng tiếng súng Đại Bác lại cất tiếng ngân vang, niềm hy vọng tuy dập tắt, nhưng lòng người vẫn còn nhen nhúm đợi chờ, niềm tin nhẹ bay, người pháo thủ Mũ Đỏ, không nói một lời sau khi bắn đạn đi, đạn sẽ rớt vào một điểm nào đó vùng Charlie và anh không sao ngăn nổi giọt lệ, nhẹ lăn trên gò má rám đen vì khói súng, hay phải chăng vết tràm do nắng cao nguyên; tiếng thở dài nhẹ nhàng nhưng chứa chất nỗi căm hờn khôn tả, núi rừng như thấu lòng người, chưa hết xuân mà hoa biếng nở, chim chẳng muốn nô đùa cùng nắng chói chan, tất cả đều đã chìm ngập, trong tiếng thở dài u uẩn nghẹn ngào, trong ánh mắt căm hờn, thù này khó quên thù này phải ghi khắc trong tim, trong gan, trong từng thớ thịt, trong từng tế bào, cúi mặt chiêu niệm, linh hồn các chiến hữu Mũ Đỏ trong đàn chim không may gẫy cánh, tiếng pháo như tiếng kêu của chim Gia Gia, nghe muốn đứt từng khúc ruột.

Thương bạn (nhà) mỏi miệng cái Gia Gia
(bà Huyện Thanh Quan)

Charlie hãy yên nghỉ, một ngày nào nữa đây hận này không quên, hận này phải trả, chim thần ưng anh dũng muôn phương, đôi chân dũng mãnh càn qua chiến khu mà bọn quỉ đội nốt người cho rằng bất khả xâm phạm, chiếc mỏ cứng đập tan tành chủ nghĩa vô thần của loài quỷ đỏ, cánh đại bàng tung mây lướt gió, sóng trùng dương không làm chim mỏi cánh, nhưng không may gió trường sơn làm chim gẫy cánh, người ta không chú ý đến những chuỗi ngày oanh liệt của chim, người ta sẽ chú ý đến lần chim không may gẫy cánh, và họ sẽ nhắc nhở trăm ngàn lần chim mắc nạn, vết tràm khôn gột rửa được.

Thứ hai ngày 17 tháng 4 năm 1972 Thiếu Tá Lê văn Mễ tiểu đoàn phó được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Trưông Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, cũng là ngày TĐ11ND chính thức mang vành khăn tang Cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, để trở về Sài Gòn chỉnh quân, đàn chim ưng về tổ ấm, chau chuốt lại bộ lông, mầu hoa rừng, vuốt lại móng để tung cánh trở lại núi rừng, trở lại ngàn khơi, đua cùng cây cỏ, cùng núi rừng, cùng đại dương bát ngát, móng vuốt này thử sức cùng bọn quỷ đang dầy xéo quê hương, mọi người im lặng nhìn nhau không nói , không nỗi đau nào cay đắng hơn, một lễ tuyên dương ngắn ngủi, một lễ truy điệu âm thầm, dù nắng mưa đã làm chai đá đời chiến binh, dù sa trường đã tôi luyện chí anh hùng trở thành sắt thép, nhưng cuộc chia ly này đã làm nát gan tím ruột! Ôi ! giòng nước mắt nào đây! Tuy không chan hòa, như nhi nữ thường tình, không bi lụy như thiếu phụ Nam Sương, nhưng giòng nước mắt đắng cay, cô đọng lại, nay mới có cơ hội tràn ra, để nung chí tang bồng, cho thương yêu chồng chất được tỏ bầy, cho căm hờn được nung nấu, cho lời thề được xác nhận.

Ta đi đi lời thể nguyền,
Tung gươm thiêng
Đời hùng cường
Quyết chiến đấu đoàn quân ra đi,
.................... ........
Sa Trường... Thấp thoáng bóng mây,
Muôn bóng (quân) Dù bay rợp trời,
(Lục Quân Việt Nam)

Trời Kontum ảm đạm, hàng phượng vĩ không buồn nở hoa, gió biếng cuốn những lá rơi rụng bên đường, mặt trời buồn ngái ngủ, nắng ban mai khép nép chưa hiện hình, đoàn trai phong sương lên xe ngồi im bất động, tiếng cười đùa vô tư đã bị lễ truy điệu mang theo, ngay ngắn thẳng hàng trong tư thế nghiêm chỉnh, mắt họ nhìn về phương trời xa xôi cuốn hút, núi đồi như mang mang nỗi khắc khoải trong lòng, họ trở về Pleiku, họ trở về Sài Gòn-Long Bình nơi nung nấu chí phục thù, nơi hun đúc chí nam nhi, quyết tâm rửa hận.

Đoàn hùng binh hiên ngang nhìn trong trời sương, (LQVN) chỉ ít ngày sau quân trang được cấp phát, quân số được bổ xung, kỹ thuật tác chiến, được trau dồi nhuần nhuyễn, cũng vừa đủ thời gian các quân nhân, trong đơn vị nhận diện nhau cùng một khu bưu chính, rồi đoàn hùng binh sẵn sàng lên đường, gươm đã mài xong, chí khí đã vững mạnh bùng lên hùng hồn, tinh thần đã xung mãnh; hôm nay biết bao nhiêu giới chức đến khích lệ, biết bao nhiêu quan khách, dùng lời lẽ khích tướng khi đoàn quân chuẩn bị lên đường, ngày mai đàn chim Song Kiếm Trấn Ải, giã từ Long Bình, giã từ Biên Hòa, giã từ Sài Gòn và không quên giã từ người yêu thương để lên đường trả đại thù cho đơn vị, lần này lên đường không thăm Tây Nguyên với các em má đỏ môi hồng để trả nợ núi sông, mà lên đường thăm người em sông Hương núi Ngự, với hành trang quyết tâm bảo vệ quê hương, phải giành lại phần đất đã mất về tay giặc, cũng cần phải rửa hận cho vơi đi sầu thương nhớ.

Huế, Huế không một bóng hình thân thương lai vãng, để Huế diệu vợi, để Huế thơ mộng như ngày nào, mà Huế điêu tàn hoang phế, thân xác em trông thật rã rời, núi đồi kia im lìm hờ hững, ai phụ nhau trong chiều hè oi ả, anh nâng em đứng dậy để vang khúc an bình, mùa hạ này, có trai, có gái, có già, có trẻ, để khúc ca mới lưu truyền cho hậu thế, cho ngàn đời sau, cho vạn đời sau, em hãy ngồi yên, để anh tô son, cho môi hồng đượm nét đa tình, em hãy ngồi đây, cho phép anh gỡ rối bụi tóc trần, tiếng súng xa sẽ không còn làm em rùng mình, lo sợ, em hãy ngồi đây, đón nhận tình lính nghe em, người yêu ơi! Tình lính đơn sơ nhưng chân thật, tình lính không bay bướm nhưng chưá chan, chất ngất, dài như trường sơn, rộng như biển cả.

Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, đã xử dụng Trung Đội 2 Quân Cảnh, thuộc Đại Đội 204 Quân Cảnh, quét sạch vấn rác cho cố đô, sống lại tình người, ngay ngày hôm sau không còn giờ phút lưu luyến Huế nữa, người lính Mũ Đỏ, mắt đăm chiêu nhìn dẫy trường sơn, thách thức lên đường, môi không còn mỉm cười, mà mím chặt, để giữ trọn chí căm hờn, đầu óc không còn thì giờ nghĩ tới em, mà đang nghĩ dùng kế nào, để ngăn bước chân thù, đang dầy xéo quê hương, phải rồi! phải tung ngay ra tuyến đầu Mỹ Chánh, nơi địch quân, đang nhòm ngó, nơi địch quân, đang thăm dò để vượt qua, nếu địch quân vượt qua Mỹ Chánh dễ dàng, thì Huế trong tay địch, phải cho địch quân thấy miếng mồi ngon dễ nuốt, nhưng không phải dễ làm, quà nào cho bọn hung thần phương Bắc, chắc chắn quân thù phải đưa thành phần hung bạo nhất, chiếm lấy miếng mồi ngon này, còn đợi gì mà ngư ông, lại không đưa miếng mồi ngon cho cá cắn câu, địch quân thấy được đơn vị vừa bỏ con chim đầu đàn lại Charlie, chắc chắn tinh thần đang sa sút, vậy còn đợi gì mà không đặt TĐ11ND vào Mỹ Chánh; tuyến địa đầu hung hiểm, rồi từ đó bọc vòng cung sang tây nam theo thứ tự Tiểu Đoàn 9 Nhẩy Dù, rồi đến Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù và Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù trong khu căn cứ Hòa Mỹ, đó nếu muốn chúng tôi ở thế phòng thủ, phải cho chúng tôi, tự tìm cho mình thế nằm, của rắn cobra để dễ cựa mình, để dễ bề vùng lên, tiêu diệt quân thù, không thể nằm quanh tròn, như loài rắn cỏ được, một đơn vị chuyên về lưu động chấp nhận tao ngộ chiến, lại bắt nằm một chỗ cúi đầu xuống đất, làm mục tiêu, cho địch quân thực tập tác xạ pháo binh.

Tôi không nghĩ Charlie có thể làm mục tiêu, cho pháo binh địch bắn thực tập, ngày đêm, bắn hàng ngàn quả đạn vừa Hỏa Tiễn, Pháo Binh nòng ngắn, nòng dài, súng cối đủ loại, rồi nguyên một sư đoàn SĐ320, sư đoàn mệnh danh là sư đoàn Thép, sư đoàn Diện Biên Phủ của địch, con cưng của Bác và Đảng nhục nhã, luân phiên gửi từng trung đoàn tấn công, địch quân dùng chiến thuật xa luân chiến như vậy, suốt hai tuần lễ, mà Charlie không rữa nát cùng cỏ cây, Ấy vậy mà Charlie vẫn nguyên hình, địch vẫn không chiếm được Charlie, sau cùng nếu TĐ11ND không vì hết lương thực, không vì hết đạn phải rút lui! Thì Charlie vẫn còn là mục tiêu cho địch thực tập tác xạ Pháo Binh. Nhưng chua cay, là mất Vị Tiểu Đoàn Trưởng vì trúng đạn pháo binh thực tập của địch, một Tiểu Đoàn Trưởng Nhảy Dù, không phải hy sinh vì chiến trận, mà hy sinh vì trúng đạn pháo binh của địch, trong lúc địch thực tập tác xạ, nó đúng như vậy đó quí vị ạ, chiến tranh nó tồi bại như vậy đó, không thua sao được?

Nếu một Tiểu Đoàn Nhảy Dù Việt Nam có một pháo đội pháo binh 105 của QLVNCH yểm trợ trực tiếp và một pháo đội 155 yểm trợ tăng cường khi cần, chỉ cần một ngàn đạn 105 mà thôi, nếu một Tiểu Đoàn địch cũng đến chiếm đóng mục tiêu tương tự như Charlie, trong vòng một ngày tôi bảo đảm ngày thứ hai là ngày giỗ cho cả Tiểu Đoàn này; nó vô lý đến thế, cùng tận của trận mạc rồi, ấy thế mà nó xẩy đến cho đơn vị Nhảy Dù, đơn vị Tổng Trừ Bị của QLVNCH, hỏi rằng các đơn vị khác còn chịu biết bao đắng cay hơn, không ai biết đến, hàng trăm ngàn chiến sĩ vô danh, ngậm đắng nuốt cay, hàng trăm đơn vị của ta bị vùi lấp oan khiên, vì không được chiến đấu đúng với nghĩa trận mạc, tôi không bao giờ đổ lỗi cho các cấp chỉ huy, nhưng tôi đổ lỗi cho trời cao, đã đọa đầy dân tộc tôi, chịu bao cảnh oan khiên, cho tới mức này, vẫn chưa vừa lòng trời cao, đất đầy hay sao? Chưa hết sao?

Chiến trường Trị Thiên, lại mời chào chúng tôi; mới ngày đầu vào vị trí phòng thủ mà sao các bạn phương Bắc đã cạn tình, họ dàn chào chúng tôi bằng tất cả lực lượng pháo hùng hậu sẵn có của họ, đủ loại pháo nhắm vào ba pháo đội của TĐ1PBND, sau đó đến các đơn vị khác, vì dầu sao bộ binh di chuyển cũng dễ ngụy trang hơn, nhưng chúng tôi đã biết trước là sẽ được dàn chào kỹ càng như vậy nên nhằm nhò gì ba cái lăng nhăng này.

Chó sủa mặc chó;
Đoàn Pháo Binh Nhảy Dù luôn tiến tới
Ta hiên ngang, ngày ngày bốn phương trời
Đoàn lữ hành vẫn đi,
(nhái theo Nguyễn Tấn Bạch)

Mũ Đỏ không đi, Mũ Đỏ mạnh bạo tiến vào sa trường, chấp nhận tiến vào vùng tử địa, để Huế được thanh bình, để dân chúng miền Nam nước Việt được sống theo ý mình, các đơn vị Mũ Đỏ vào vị trí đã được ấn định, nặng nề nhất vẫn là các đơn vị Pháo Binh, nhưng các đơn vị Pháo Mũ Đỏ, vào vị trí an toàn không một thiệt hại nào, không một ai bị ( rách áo hay thủng quần ) ba pháo đội phải từng khẩu ngụy trang vào vị trí, địch trên cao nhìn xuống, địch bên hông nhìn vào, nhưng chúng tôi vẫn nương theo triền đồi để địch quân không sao nhận diện được, những con gà cồ 105 ly từng con vào cạnh các lùm cây, đầu hướng về phương bắc, xa xa trông vị trí mỗi Pháo Đội không khác gì cánh rừng Tràm xanh ngắt, đó chính là công lao và kỹ thuật di chuyển, ngụy trang cao, của các Pháo Đội Trưởng, các Khẩu Đội Trưởng và các Pháo Thủ; chúng bực dọc, pháo liên hồi, nhưng may mắn kỹ thuật Pháo của chúng còn non kém, nên thiếu chính xác, nêu đêm ngày một vị quan khách nào đó, đứng quan sát sẽ thấy rằng các đơn vị pháo của địch, đang bắn cận phòng cho các pháo đội Mũ Đỏ, chúng có thể bắn trúng vị trí pháo của ta, ngoại trừ chúng bắn góc cao, nhưng từ ngày nhập cuộc chúng tôi không thấy chúng xử dụng kỹ thuật tác xạ này, bởi vậy làm sao chúng có thể bắt ép chúng tôi, thiệt hại lúc này được, chúng tôi đã biết để tiên liệu, địch quân có khả năng cối, các loại súng cối 82 ly hay 120 ly bằng cách bắn, theo hướng chúng nhận diện được, nên chúng tôi rất thận trọng những diểm chúng có thể đặt súng cối, các toán viễn thám của Trinh Sát 2 không cho chúng làm được việc đó, Út Bạch Lan trên sân khấu hấp dẫn chừng nào, Út Bạch Lan (Trương văn Út) Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù của chúng tôi, còn hấp dẫn hơn nhiều, nhiều hơn trăm ngàn lần, tay chân quà quạng, nên ban đêm thích đi mò, mò lần nào trúng lần đó, vì vậy chúng đành bó tay trước một địch thủ trinh sát lợi hại, có lẽ chúng chưa bao giờ gặp phải, chúng tung toán nào ra liền bị trinh sát thộp cổ toán đó, những con Thần Thử rình mỗi rất chính xác, các toán tiền sát viên Pháo Binh của chúng, không một toán nào kịp liên lạc về đơn vị gốc, đều đã bị thộp cổ, các đài quan sát trên cao, không thấy rõ các vị trí Pháo của ta, mà chỉ quan sát được khói súng của ta, lơ lửng bay trên đồi non, vì chúng tôi đóng quân ngang triền đồi, đóng quân như vậy thật gian lao vất vả, đổi lại chúng không thể quan sát được vị trí của ta, đặc công ư chúng chỉ làm trò cười cho chúng tôi, các ổ phục kích tự động, mìn thay người đưa hàng đêm, từng toán đặc công về trình diện bác và đảng, chính vì vậy càng làm, các cấp chỉ huy của chúng giận dữ, điên cuồng, bằng mọi giá phải trả thu, các đơn vị Mũ Đỏ, phải tiêu diệt những đứa con yêu của Tổ Quốc Việt Nam, chính là lúc chúng tôi dương bẫy lên, đón nhận những con thiêu thân, tìm ánh sáng của ngọn đèn trong đêm tối.

Quả thật đây là một chiến trường bất lợi cho đơn vị mới vào vị trí, ấm ớ là tan hàng ngay, địch ở trên cao hơn, các đài quan sát địch đặt bất cứ chỗ nào cũng nhìn rất rõ cách phối trí của ta, nhiều người ..... lúc đó bình phẩm, tại sao lại để TĐ11ND lên trên tuyến đầu, đơn vị mới bị đau thương tháng trước tại Charlie, nhưng họ không sao hiểu được những toan tính của Mũ Đỏ, nào ai biết TĐ11ND bây giờ không phải như các Tiểu Đoàn tái lập khác, cán bộ nồng cốt là các cán bộ cũ dầy dạn, quân nhân các cấp là những quân nhân từ các đơn vị Mũ Đỏ khác kéo qua, nói một cách rất dản dị, ngay lúc này tân binh TĐ11ND còn ít hơn, các đơn vị Mũ Đỏ khác, mà quân số lại đầy đủ nhất, trong đoàn quân Mũ Đỏ, bây giờ tiểu đoàn này rất mạnh, rất bén nhậy trong bất cứ chiến trường nào, rất sung mãnh trong bất cứ tình huống nào, cho nên chấp nhận trách nhiệm đánh lừa địch, miếng mồi nhử cho cá cắn câu, nếu không chịu vào hang làm sao có thể tóm cổ được cọp, lần này TĐ11ND không ở tình trạng làm mục tiêu cho Pháo Binh Địch thực tập tác xạ, mà là làm miếng mồi ngon nhử các cấp chỉ huy đang tập đánh vần, để học chiến thuật tứ khoái nhất mãn, của quan thầy Mao Sếng Sáng phương bắc xua quân vào bẫy, từ trên xuống dưới đồng lòng làm trò hú tim, thích thú dương bẫy đón nhận những đơn vị tinh nhuệ của địch, biết trước một chọi năm, chọi mười nhưng phần thắng phải trong tay ta, vì địch thiếu cấp chỉ huy, chịu suy tính, mà chỉ biết thí quân, coi mạng sống cấp dưới như cỏ cây, miễn sao nhận được tiếng chiến thắng, nhưng ảo vọng đó không đến với Quân Đội Nhân Dân Miền Bắc, một khi các đơn vị Mũ Đỏ đã có chuẩn bị, đây chính là dịp tốt để TĐ11ND rửa hận, cho nên ngay khi tới vị trí đóng quân, TĐ11ND bung rộng sang hướng tây liền chạm địch nặng, các cấp chỉ huy đại đội của TĐ11ND đã dùng hỏa lực pháo binh nhanh chóng và chính xác, hàng trăm đạn pháo bao phủ mục tiêu bọn cán ngố gọi là pháo bầy cộng với lối đánh, tốc chiến, tốc thắng, nhất là trên vai còn mang nặng ý chí phục thù, vừa gặp địch là đoàn thần ưng tung cánh đại bàng, chụp bắt đàn gà con phương bắc, như chúa sơn lâm gặp nai tơ, địch quân chỉ còn hai con đường chọn lựa, một là đầu hàng, hai là phải chết, quá sợ hãi trước một địch thủ vô cùng lợi hại, đơn vị tổng trừ bị của quân đội nhân dân, không còn chọn lựa nào hợp với khả năng hơn, chọn lựa đường chém vè, là hợp lý nhất của bọn cáo chồn miền bắc, chúng bỏ chạy như đàn vịt bị cáo vồ, chúng quên rằng các toán tiền sát viên của ta, làm sao bỏ lỡ dịp thực tập này, những pháo thủ đã có đầy kinh nghiệm chiến trường, đưa những loạt đạn CVT chụp lên đầu chúng như hàng trăm hàng ngàn chiếc nơm, chụp xuống đầu đàn cá, bơi trên luồng nước chật hẹp không đường thoát thân, thật tội nghiệp, chúng đành đoạn phải bỏ lại cả xác Tiểu Đoàn Trưởng, cùng máy vô tuyến liên lạc, còn đang liên lạc, món quà đầu tay của đoàn chim Song Kiếm Trấn Ải, cũng khá cao đấy, xin các vị đọc tới đây công bằng mà hiểu cho, dù cho có giết được dăm ba tiểu đoàn trưởng của chúng, làm sao có thể sánh với một Nguyễn Đình Bảo của ta được! Vì vậy ta vẫn còn đau; huống chi chỉ mới thịt được có một tiểu đoàn trưởng, của SĐ325; Không làm sao gặt hái kết quả cao hơn được, thôi có cũng còn hơn không, nhất định chưa chấm dứt tại đây, chỉ tạm an ủi dầu sao chăng nữa cũng là món quà đầu tay, nhờ vậy ta biết được SĐ325CSBV đã có mặt ở bờ nam sông Mỹ Chánh. Trận chiến vừa tạm ngưng, chúng tôi tháp tùng trên thiết quân vận có mặt ngay tại trận địa, để quan sát quân đội nhân dân, đơn vị thuộc SĐ325CSBV, những em bé tuổi cần cắp sách đến trường, nay nằm ngủ ngàn đời tại đây, cuộc chiến này đến bao giờ tàn, tôi thật sự ước mong cho cuộc chiến tương tàn này lắng xuống, để chúng tôi có thể đi thăm những thôn xóm hoang vu từ nam chí bắc, để những em bé xứ bắc không phải nằm chết kinh hoàng tại những nơi dèo heo hút gió như tại đây, tôi cúi xuống nhìn mặt một em có lẽ là cấp chỉ huy của SĐ325. Tôi nói nhẹ nhàng trong lúc vuốt mắt, để em có thể nhắm mắt ra đi.

-Thôi nhé em hãy nhắm mắt ngủ yên, tiếc rằng không có lý lịch, để anh thông báo cho gia đình em biết tin, em đã hy sinh trong cuộc chiến tương tàn, mà chúng ta không có lý do biện bạch, đúng hay sai không là quyền của chúng ta, nhưng miền bắc đã sai lầm mang tai họa, cho miền nam, xua quân xâm lấn, bằng lý do lừa bịp, còn anh và em chúng ta một ngày nào đó, những người còn sống phải ôm nhau, nhìn nhau nhận ra chúng ta cùng giòng giống Tiên Rồng, chúng ta phải thương nhau để mà sống, để cùng nhau xây dựng đất nước Việt Nam. Chúng ta đã phí phạm quá nhiều tinh hoa, của đất nước! Thôi nhé vĩnh biệt em.

Tin tình báo của QĐ1 chúng chuẩn bị đánh Huế quả không sai, nếu đơn vị Mũ Đỏ không có mặt kịp thời, không chừng Huế cũng không hơn Quảng Trị bao xa, nhìn vào tác phong, của những quân nhân vô kỷ luật, ngoài đường phố Huế những ngày qua, mọi người đều ngao ngán cho Huế, ai cũng xót xa cảm nhận rằng, những quân nhân vô kỷ luật này, đang mời mọc niềm bất hạnh cho Huế, cho nên ai cũng phải lo ngại cho số phận của Huế, thêm vành khăn sô cho Huế hay sao? Nếu không có ai đó vực Huế thức dậy, Huế còn phải ngái ngủ, ngơ ngác đến bao giờ?

Lần này Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù ra quân rất cẩn trọng, coi giò, coi cẳng tới cấp chỉ huy thấp nhất trong đơn vị tiền quân, mọi người không muốn thí quân, phải chắc ăn mới đánh, những tên khát máu chuyến này, chắc chắn phải nhận lãnh chua cay, bởi vì trận này đơn vị Mũ Đỏ toàn quyền quyết định, không còn bị bó tay như Tây Nguyên, mọi người đã khóc Nguyễn Đình Bảo, như tiễn đưa người anh em ruột thịt, Đ/T Lịch đã làm hết sức của ông nhưng trên không chấp thuận, ông muốn chứng tỏ cho mọi người thấy tận mắt thế nào là sở trường, thế nào là sở đoản của các chiến binh Mũ Đỏ, ông muốn cho mọi người thấy, cách phối trí quân, linh động, khi ẩn, khi hiện, đoàn quân Mũ Đỏ khi ẩn (ngụy trang kín đáo), khi hiện (tung quân tìm địch) đánh lừa địch quân, làm cho chúng phải rối loạn, không sao có thể dò la cách phối trí quân của ta một cách chính xác được, đoàn quân Mũ Đỏ đôi lúc muốn cho địch quân thấy rõ sơ hở của mình, cố tình che dấu những tụ điểm lợi hại, để dụ cho địch quân phải đánh vì chúng tưởng đây là đơn vị mới bị thiệt hại, mới bị lao đao cho nên rất dễ ăn, nhử chúng vào vòng tử địa cho Song Kiếm Trấn Ải rửa hận, quả nhiên địch quân....Những cấp chỉ huy lực học chưa qua bậc tiểu học, những tên cai của đồn điền cao su phải suy đoán như vậy, không thể nào khác hơn, sự lầm lẫn đó chứng minh, cho bọn cuồng đồ thấy được chân tướng của chúng, chân tướng của bọn khát máu sinh Bắc tử Nam.

Địch có nội tuyến từ đâu đó, nên rất rõ vị trí đóng quân của các đơn vị Mũ Đỏ, một trăm ngàn lần như vậy, nhưng chúng không thể biết cách phối trí quân của từng đơn vị Mũ Đỏ, kinh nghiệm khi chúng tôi tăng phái cho các Quân Đoàn là chịu đắng cay như nhau, địch quân biết tên từng đơn vị Mũ Đỏ tham chiến, tên cấp chỉ huy Mũ Đỏ, nhưng địch làm sao biết rõ sức mạnh của từng đơn vị Mũ Đỏ được, nên địch đã lầm và đành nhận lãnh thảm bại, nếu chúng biết là các cấp chỉ huy của QLVNCH, không khờ dại như khả năng suy đoán của chúng, nếu chúng suy đoán được các cấp chỉ huy của đoàn quân Mũ Đỏ, có trình độ tác chiến trên cơ chúng, thì chúng phải hiểu rằng: Đơn vị tuyến đầu của Mũ Đỏ, phải là đại diện cho đoàn quân Mũ Đỏ, tất nhiên không phải là đơn vị yếu như chúng tưởng, thì chưa chắc đã có trận thư hùng này.

Cũng vẫn bài ca Tiên Hạ Thủ Vi Cường, chúng pháo vùi dập các đơn vị Mũ Đỏ, nhất là TĐ11ND và các pháo đội, là bị pháo thật kỹ càng nhất, hiện tại Song Kiếm đang Trấn Ải địa đầu, nhưng đây không phải là Charlie, các chiến sĩ Mũ Đỏ được quyền lựa chọn vị trí phòng thủ miễn sao làm tròn phận sự của mình là được, nên vị trí phòng thủ dập dờn như ở ngay bờ sông, thực tế ở cách xa bờ sông, nếu dại dột đóng quân ngay trên bờ sông Mỹ Chánh, đúng là làm mồi cho chiến xa, địch quân thăm dò nhiều lần chắc chắn chúng phải hoang mang, chắc chắn chúng không xác định được tuyến phòng thủ chính của ta, bây giờ các cấp chỉ huy Mũ Đỏ, biết rõ khả năng của các đơn vị nhỏ nhất, từ dưới lên trên phối hợp nhịp nhàng, trung tâm phối hợp hỏa lực của TĐ1PBND Thiếu Tá Đinh Thành Tấn trưởng ban 3, đã sẵn sàng những hỏa tập bên phía bắc và phía nam sông Mỹ Chánh, các hỏa tập đã được các Tiền Sát Viên Pháo Binh phối hợp cùng các Đại Đội Trưởng nằm ngay tuyến đầu, chung ý thiết lập và điều chỉnh kỹ càng, các Pháo Đội Trưởng kỹ thuật cao, kinh nghiệm chiến trường dầy dặn quyết tâm trong trận thư hùng này, nên đã định liệu các loại đạn cho từng hỏa tập, cách bắn làm sao an toàn tối đa cho quân bạn, thiệt hại tối đa cho địch quân, theo đúng ước mong của mọi người, vì cùng đội chung mầu nón Đỏ, cho nên tất cả mọi chiến binh Mũ Đỏ dù là Công Binh, Bộ Binh, Truyền Tin, Pháo Binh, Quân Y hay Trinh Sát cũng đều chung nhịp thở, cùng chung một mối hận, cùng chung một ý chí phục thù, nghìn người như một phải chiến thắng, phải trả thù, tất cả đều nắm tay, dơ cao, với ý chí, quyết chiến, quyết thắng, nếu để họ hô to lời sắt đá này, chắc phải chấn động núi rừng, chim muông thú dữ phải náo loạn, như vậy sẽ bị lộ rõ mục tiêu cho quân thù, đoàn quân Mũ Đỏ âm thầm dơ tay cao, bàn tay nắm chặt, im lặng ngước mắt nhìn trời... Xin trời cao... Xin trời cao, đón nhận ý chí sắt thép này.

Khi LĐ2ND vừa phối trí quân xong, Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù liền bung các toán viễn thám, xâm nhập vào vùng phía bắc của sông Mỹ Chánh, đây chính là con mắt nhìn thẳng vào tim gan địch; các toán viễn thám này, làm địch quân phải điên đầu, chúng bung quân lùng kiếm, nhưng vô ích, đôi khi các toán Viễn thám cho tọa độ điểm đứng, địch quân thiếu gì chuyên viên giải mã, ngay lập tức chúng cho đại quân đến, bao vây điểm đóng quân của Viễn Thám, nhưng than ôi! Chúng không thấy toán Viễn Thám đâu, chúng thấy ngay, một trận hỏa lực, do từng trưởng toán viễn thám thiết lập chụp xuống đầu chúng, thê thảm thay không diệt được tai mắt của Mũ Đỏ, mà lại mang thiệt hại nặng nề cho đơn vị.

Hôm nay cũng là lúc LĐ3ND mới từ An Lộc ra mang theo TĐ2ND, TĐ3ND, TĐ5ND, TĐ2PBND và các đơn vị cơ hữu, yểm trợ của Lữ Đoàn này, TĐ5ND do Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu chỉ huy, Thiếu Tá Lê Hồng tiểu đoàn phó, TĐ5ND là tiểu đoàn thống thuộc, cơ hữu của LĐ2ND cho nên được trả về đơn vị mẹ và được điều động thọc thẳng vào sườn tây, vì sườn tây còn trống trải, nhất là ngày đầu nhập cuộc, TĐ11ND vừa tiến ra sướn tây chừng vài cây số là đụng độ mạnh ngay lập tức, cái nhọt bên hông cần phải nhổ đi mới được, LĐ2ND tin tưởng có đơn vị địch ém quân đâu đó, hoặc ít nhất cũng là những toán đầu cầu, tình báo của các đơn vị Mũ Đỏ luôn luôn kém hơn các đơn vị địa phương, theo Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn thì chúng chuẩn bị dứt điểm Huế cho nên chúng phải có đơn vị làm đầu cầu sẵn, khi chúng thấy các đơn vị Mũ Đỏ nhập cuộc chúng đành ém quân tại chỗ, quả như vậy khi TĐ5ND thọc sâu vào chân núi, theo hướng tây bắc, không đi theo bờ sông Mỹ Chánh, mà TĐ5ND tiến quân theo dẫy rừng tràm tuy không cao, nhưng đủ che những cặp mắt quan sát của địch quân, quả như vậy dấu tích của loài chồn bắt buộc phải lộ diện, khi đoàn quân Mũ Đỏ vừa bắt đầu lên đồi, là gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của địch quân, hang ổ của chúng bị khám phá, địch xử dụng pháo từ La Vang bắn xuống, từ dẫy trường sơn bắn ra và các loại súng cối từ phía bắc bờ sông Mỹ Chánh bắn lại, làm khó khăn cho TĐ5ND, nhưng với cách phối hợp hỏa lực nhịp nhàng, ăn khớp với nhau, TĐ5ND đã làm chủ chiến trường rất mau lẹ, sau gần hai giờ giao tranh TĐ5ND đã tiêu diệt trọn một đại đội địch, bắt được tù binh, khai thác biết tù binh là trung đội trưởng đặc công, thuộc đơn vị đặc công của SĐ325CSBVN, chúng nhận được lệnh vượt sông Mỹ Chánh, thay một đơn vị khác đã ém quân lâu ngày tại đây, việc thay đổi nhiệm vụ chỉ mới cách nay hai hôm, nhưng trong đêm chúng nhận được lệnh xâm nhập và điều nghiên nơi đóng quân của TĐ11ND, đơn vị này chưa kịp thi hành thì ngày hôm sau bị TĐ5ND tiêu diệt, ngày kế tiếp chúng pháo dồn dập TĐ11ND và các Pháo Đội, lúc này TĐ3ND do Thiếu Tá Trần Văn Sơn chỉ huy, vào thay thế TĐ5ND ra ngoài nghĩ dưỡng quân, vì Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, chưa được nghĩ dưỡng quân ngày nào, từ chiến trừơng An Lộc, TĐ5ND đã ra Huế và nhập cuộc ngay.

Ngày 13 tháng 5 năm 1972 LĐ2ND chính thức nhận được lệnh tăng cường, thêm một pháo đội 155 ly, Pháo ĐộiA2ND và TĐ3ND; trong ngày TĐ3ND liền được điều động vào thay thế vùng đóng quân của TĐ5ND, lục soát từ vị trí đóng quân của TĐ11ND đến dãy trường sơn dọc theo bờ sông Mỹ Chánh, con đường tình TĐ5ND chưa có giờ lục soát, tức thì TĐ3ND lại đụng độ với một đơn vị địch không rõ đơn vị, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù gặp nhiều khó khăn, vì những đơn vị súng cối của địch từ phía bắc sông Mỹ Chánh can thiệp liên tục, không khi nào các chiến binh Mũ Đỏ lại chấp nhận cho chúng tung hoành, một mình một chợ như vậy được, chúng được quyền đó, trừ khi ngoài tầm Pháo Binh của ta, hay ta không quan sát được, nhưng lần này chính là lần đầu tiên chúng gặp phải một địch thủ trên chân, bất cứ lúc nào chúng xuất hiện là các loạt pháo TOT (time on target = nghĩa là cùng một lúc đạn của các pháo đội nổ chụp ngay lên đầu chúng, lần đầu tiên chúng tôi bắt được tài liệu của chúng, chúng gọi các loạt đạn TOT của ta là pháo bầy) đàn gà tre tan nát không kịp kêu tiếng thất thanh, các đơn vị địch từ bộ binh, súng nặng, hay pháo binh gặp thất bại này sang thất bại khác, các chiêu của địch quân tung ra đều bị bẻ gẫy, (khi vào tới La Vang đoàn quân Mũ Đỏ bắt được tài liệu của chúng than rằng: Các đơn vị Ngụy Dù Sài Gòn chúng có sức chiến đấu giống nhau không đơn vị nào hơn, không đơn vị nào kém, cho nên khi bộ đội gặp bất cứ đơn vị nào của Ngụy Dù cũng phải thận trọng) Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù tuy chiến thắng, nhưng cũng chưa đáng khích lệ, vì chúng để lại tử thi và vũ khí tất cả đều không khai thác được điều nào mới mẻ, cũng như không có tài liệu để khai thác tin tức, còn lại cách duy nhất là quan sát quân phục, chúng ta chỉ nhận diện được đó là trang bị của các đơn vị bộ đội miền Bắc, địch bỏ chạy sang phía bắc sông Mỹ Chánh, lần này chúng pháo vũ bão hơn, chứng tỏ chúng đã được tăng cưỡng pháo, cũng như đạn dược, chúng đã chuẩn bị một chiến trường mới, ai cũng ước đoán là chúng sắp mở đợt tấn công vào phía nam bờ sông Mỹ Chánh, nếu không như vậy, bộ đội chúng sẽ mất hết tinh thần chiến đấu, vì mấy ngày nay, chúng bị đoàn quân Mũ Đo, cho nếm từ thất bại này, đến thất bại khác, nói chung ngày nào chúng cũng thất bại ê chề, ngày nào chúng cũng nếm mùi chua cay, bây giờ chúng nhận thấy ngay, là biển người của chúng đã bị chặn lại bởi ý chí sắt thép, Cố Gắng của đoàn quân Mũ Đỏ, đặc biệt là lâu nay các hoạt động của chúng ở phía bắc sông Mỹ Chánh hoàn toàn tự do, nay chúng không còn được tung hoành như trước, nếu chúng đi lẻ tẻ như những ngày trước là bị mất tích ngay, nếu đi đông là bị Pháo vùi dập phải tan hàng, chúng cảm thấy mọi hoạt động của chúng, đều bị tai mắt của ta chế ngự, cấp chỉ huy của chúng tìm mọi cách bịt mắt ta, nhưng ai cho chúng làm được việc đó, vì các chiến sĩ trinh sát của ĐĐ2TS/ND, luôn luôn chơi trò hú tim, làm cho chúng phải điên đầu; trận chiến không giới tuyến này, công đầu phải dành cho các chiến sĩ Trinh Sát Nhảy Dù, phải công bằng mà nói như vậy.

Tin tức nóng hổi của hai toán Viễn Thám, thuộc ĐĐ2TS/ND vượt sông Mỹ Chánh bằng đường bộ đi sâu về hướng bắc 7 Km, cho biết những đợt chuyển quân của địch, bị các toán tai mắt của ta, đã xác định được điểm đóng quân của địch, thật chính xác, mỗi lần như vậy dù đêm hay ngày, chúng cũng được pháo TOT hỏi thăm kỹ càng, những con Thần Thử báo cáo đầy đủ, từng hoạt động của địch, để bộ chỉ huy LĐ2ND dương cái bẫy ra, các anh em Mũ Đỏ biết địch biết ta, chứ không mù lòa như chiến trường Tây Nguyên, địch quân cũng biết điều đó, chúng tung ra nhiều đơn vị tìm kiếm tai mắt của ta, mỗi khi chúng lại gần tai mắt của ta, chúng còn đang ngơ ngác tìm kiếm, liền bị các chiến sĩ Mũ Đỏ thuộc ĐĐ2TS/ND, đưa các loạt Pháo TOT, đập xuống đầu chúng thật mãnh liệt, chúng đành chạy tháo thân, quả thật chiến công, của các toán viễn thám, không phải là nhỏ, nhưng chiến công vô danh này ít ai biết đến, pháo binh mà không có tai mắt, chỉ là pháo binh mù.

Ai cũng muốn cho TĐ11ND được rửa mặt anh tài trong trận này, tinh thần và quân số lúc này TĐ11ND rất cao, địch quân điều nghiên, kỹ càng, con cháu bác chỉ biết rằng TĐ11ND chính là, đơn vị mới bỏ lại Nguyễn Đình Bảo tại Charlie, nắm ngay lấy cơ hội, chúng cho là ngàn năm một thuở, chúng cho rằng đơn vị mới thiệt hại nặng nề, làm sao có tinh thần chiến đấu được, ngay cả bạn cũng lo ngại; nhưng đây không phải là canh bạc tháu cáy mà là canh bạc chắc ăn, canh xì phé trong tay hai đôi, chỉ có một đôi nhỏ trên mặt, địch thủ ỷ trên mặt có xì, già, đầm cơ và cẩu bích, liền vung tay táp pi, canh bạc này ta nhất quyết phải thắng không có huề, canh bạc này là canh bạc quyết tâm, không khác canh bạc của đức Trần Hưng Đạo năm xưa (nếu không thắng giặc thề không qua khúc sông này), đây là canh bạc mà tinh thần đoàn quân Mũ Đỏ nghìn người như một.

Trong bàn cờ, hay ngoài chiến trận, ai lừa được đối phương người đó sẽ nắm được, một phần ưu việt trong tay, cổ nhân đã nói biết người biết ta trăm trận trăm thắng tuy nhiên sự thắng bại nhiều khi cũng còn do ý trời, canh bạc càng lúc càng hung bạo vì địch nhiều vốn, địch pháo tàn bạo không thua gì các mặt trận Hạ Lào, Kon Tum, An Lộc, Khe Sanh.... quả thật ta vốn liếng lúc này xuống thấp hơn địch.

Sau khi làm xong nhiệm vụ, TĐ3ND rút về phía nam của TĐ11ND, không một ai trong Đoàn Quân Mũ Đỏ, muốn để một thất thố nhỏ nào có lợi cho địch, trận này phải chiến thắng một trăm phần trăm, địch quân tung bất cứ đơn vị nào vào trận địa, đều phải bị tiêu diệt, quân ta chỉ được phép thiệt hại nhẹ nhàng, vì các cấp chỉ huy của địch đa số là vô học, làm sao tinh khôn cho được, địch quân chỉ có thể thắng ta khi chúng dùng mười chọi một, tức là chúng thí quân, hay nói cho chỉnh hơn chúng chỉ biết đánh theo lối biển người, lấy thịt đè người, ( cũng như hôm nay chúng đang chấn hưng kinh tế, bằng cách cho con gái Việt, đi làm điếm quốc tế, lấy chồng ngoại quốc, cho con trai Việt đi làm nô lệ lao động, để lấy ngoại tệ, tài cán của bọn lãnh tụ Cộng Sản là như vậy, kh

Kế hoạch chính của chúng là bất ngờ, đánh úp các đơn vị ta, dùng đông đánh ít, chúng không ngờ chúng ta phản công kịp thời, nhất là các cơ quan đầu não của chúng ta tại Sài Gòn, những đứa con yêu của Tổ Quốc Việt Nam đã chận đứng kịp thời sức tiến của bọn cuồng đồ, sau cùng trên toàn miền Nam, chúng hoàn toàn thất bại không chiếm được một mảnh đất nào, mà phải bỏ xác tại trận 45,000 quân ; nhưng cả thế giới đều loan tin chúng chiến thắng (tin chiến sự loan đi chúng đã đánh thủng tuyến phòng thủ của ta, và đã đánh vào cả Thủ Đô Sài Gòn), nếu thật sự tết Mậu Thân chúng thắng, thì chiến tranh phải chấm dứt từ đó, vì đó là trận tổng công kích, không phải là trận đánh bình thường.

Lấy tiếng chiến thắng để phải hy sinh mạng sống 45,000 đồng chí của mình, chỉ có Cộng Sản mới làm được mà thôi! Chúng ta đành chào thua lối đánh giặc kiểu này, trận chiến vừa qua là trận chiến giữa loài thú đội nốt người, với con người chân chính biết lễ nghĩa, nên chúng ta thua là phải, thế kỷ này là thế kỷ chuẩn bị để cho chúng, là những tên buôn dân bán nước vào hỏa ngục.


(Xin phép được kể một chuyện vui về tâm lý chiến của ta, TĐ1PBND sau khi hành quân Hạ Lào về được nghĩ một thời gian, sau đó cùng LĐ1ND hành quân giải tỏa Căn Cứ Hỏa Lực Số 5 tại Tân Cảnh, Kontum, nghĩa là sau khi LĐ2ND hành quân giải tỏa Căn Cứ Hỏa Lực Số 6 khoảng một tháng, sau khi chiến thắng dễ dàng tại đây, toàn bộ LĐ1ND được trở về Sài Gòn, một tuần sau chúng tôi lên đường hành quân tại biên giới Việt Miên với LĐ2ND, nhiệm vụ chấm dứt chúng tôi trở về hậu cứ Hoàng Hoa Thám, mỗi đơn vị cấp Tiểu Đoàn đều được các ban văn nghệ tới ca hát một vài đêm tại hậu cứ, nhận được tin này chúng tôi vô cùng thích thú, ít nhất cũng còn được cấp trên nghĩ tới, không tủi lòng chiến sĩ, đoàn văn nghệ trung ương gửi tới không vui sao được, chắc chắn là phải hay và vui rồi... Nhưng chúng tôi hoàn toàn thất vọng, khi trình diễn xong mỗi màn hát hay mỗi chương trình kịch nghệ, bên dưới không một tiếng vỗ tay tán thưởng, tôi ngồi hàng ghế trên thấy mà chán chường, tôi cho gọi Thường Vụ Tiểu Đoàn đến, nói nhỏ với anh là phải đi rỉ tai các thường vụ Pháo Đội là phải đi rỉ tai tất cả mọi quân nhân trong Tiểu Đoàn, phải vỗ tay tán thưởng, sau mỗi bài ca hay vở kịch, nhưng rồi chỉ được một hay hai lần là có, sau đó tiếng vỗ tay tán thưởng không còn nữa, vì trình diễn không hấp dẫn không ai có thể vỗ tay tán thưởng được, (Thường Vụ Tiểu Đoàn sau này là Trung Úy Lương văn Ngữ hiện anh và gia đình đang ở nam Cali) sau khi đoàn văn nghệ ra về tôi cho lệnh Thiếu Tá Đinh Thành Tấn Ban 3 Tiểu Đoàn (hiện anh và gia đình đang ở nam Cali), ngày hôm sau tập họp tất cả quân nhân các cấp trong tiểu đoàn, lúc 12 giờ trưa để nghe nhật lệnh, nhớ mang cuốn nhật lệnh ra. Tôi ra về lòng không vui khi thấy Chiến Tranh Chính Trị, Tâm Lý không chỉnh, tại sao lại cho đoàn văn nghệ mà lính không nghe nổi, đến ủy lạo đơn vị như vậy? Thật bôi bác... tiên trách kỷ hậu trách nhân, tôi lại tự trách mình tại sao đơn vị của mình lại thiếu lễ độ như vậy? Người ta đến giúp không công cho mình mà lại tiếc tiếng vỗ tay, tôi tự nói một mình... Thôi ngày mai tính, nhưng cũng không sao ngủ yên.

Tôi đang ngồi làm việc, Tấn hỏi tôi nhật lệnh về đề tài gì để anh viết, các pháo đội đã sẵn sàng tại sân tập họp Tiểu Đoàn.

Anh cứ mang cuốn nhật lệnh ra đó, khi nào sẵn sàng anh cho tôi biết. năm phút sau tôi ra chào tiểu đoàn do Thiếu Tá Nguyễn văn Thông Tiểu Đoàn Phó trình diện (sau này anh Thông là Tiểu Đoàn Trưởng TĐ3PBND, hiện anh và gia đình đang ở Illinois), tôi cũng đi làm thủ tục của một Tiểu Đoàn Trưởng là đi duyệt qua hàng quân, năm trăm anh em ai cũng nghiêm chỉnh, thương mến nhìn nhau, mà không nghiêm chỉnh sao được, Nhảy Dù có nghĩa là kỷ luật thép, chúng tôi chiến thắng là do kỷ luật, chúng tôi không làm nhục quân đội là do kỷ luật, không khí thật nặng nề vì ai cũng biết tôi đang không vui, nên quân phục chỉnh tề như sẵn sàng đi duyệt binh, tôi trở về vị trí của mình, nói những câu khen thưởng trong cuộc hành quân vừa qua, chúng tôi mặc niệm một số anh em chúng tôi đã nằm xuống tại căn cứ Cờ Lau......Như Cố Thiếu Úy Nguyễn văn Nhượng Phụ Tá Ban 3 Tiểu Đoàn, (gục xuống ngay sau lưng tôi) tôi khen ngợi từng khẩu đội (lúc đó tôi thuộc tên tất cả các Khẩu Trưởng), tôi nói rất nhiều, tôi biết lúc này mọi người chỉ muốn được nghĩ trưa, giờ nghĩ trưa hai tiếng ngắn ngửi quá, sau cùng tôi phiền trách việc không vỗ tay cổ võ cho ban văn nghệ, trung ương phái đến tối hôm qua, tôi nhắc là dù ca sĩ hay, dở cũng phải vỗ tay và hô Bis, bây giờ chúng ta phải thực tập đễ nhớ điều này; tôi nói tiếp, Thiếu Tá tiểu đoàn phó đọc bất cứ nhật lệnh nào ông thích, khi ông đọc xong đến câu nhật lệnh hết, kể như ca sĩ trình diễn xong một bản nhạc, anh em tập vỗ tay tán thưởng và la thật to Bis...Bis, xong Thiếu Tá ban 3 đọc nhật lệnh khác anh em lại tiếp tục vỗ tay và la thật to Bis... Bis... khi nào trong văn phòng tôi thấy vỗ tay đúng mức và la to Bis... Bis... đúng mức, tôi cho nghĩ trưa, nếu chưa đúng mức thì cứ việc thực tập, xong tôi hỏi?

Tất cả nghe rõ chưa, đồng thanh của năm trăm thanh niên trả lời:

- Nghe rõ, vang động cả khu doanh trại thật hào hùng, nhưng nghe như ai oán!!

Cứ như vậy hết nhật lệnh này tới nhật lệnh khác, sau mỗi khi nghe nhật lệnh hết, là tiếng hô Bis... Bis và tiếng vỗ tay vang vang, hai vị tiểu đoàn phó và trưởng ban 3, thay phiên nhau đọc nhật lệnh.

Đúng 2 giờ chiều tôi cho tan hàng, ai cũng mồ hôi hễ nhãi, mất giấc nghĩ trưa, tiếp tục sinh hoạt hàng ngày, tức là cả tiểu đoàn không được nghĩ trưa, anh nào anh ấy, khát nước và bụng đói, tiếp tục sinh hoạt buổi chiều; sau ba ngày, trung ương lại cử một đoàn văn nghệ khác xuống, trước giờ văn nghệ trình diễn, tôi nghe rõ tiếng Thường Vụ Tiểu Đoàn la hét ngoài sân tiểu đoàn:

- Lần này mà không chịu vổ tay, không chịu la Bis... Bis... là tao sẽ phạt thêm một tuần nghe nhật lệnh buổi trưa, nghe rõ không! Nghe rõ! Nhảy Dù Cố Gắng.

Tối hôm đó tôi ngồi trên luôn mỉm cười, không phải vì nghe tiếng la tiếng hét của năm trăm cái miệng như tiếng lệnh vỡ mà cười, tôi nghĩ đoàn văn nghệ này họ sẽ nghĩ bọn này đi rừng nhiều quá, chắc thành người rừng, hay dở cũng là tuyệt vời với họ, nên mới được tán thưởng nhiệt liệt như vậy; không những vậy nhiều anh còn biểu lộ tán thưởng rất cuồng nhiệt, họ biết tôi muốn vậy, nhưng chắc chắn tôi biết họ không muốn như vậy, văn nghệ vừa chấm dứt, anh trưởng đoàn xuống nghiêm chỉnh chào tôi và cảm ơn tiểu đoàn đã cho đoàn một món quà tinh thần vô giá, sau đó anh đưa cho tôi số điện thoại, và nói

Bất cứ lúc nào tiểu đoàn muốn, không cần trên sắp xếp anh sẽ dẫn đoàn tới ngay, tôi nghĩ thầm (thôi đi cha nội, hành hạ chúng tôi như vậy chưa đủ hay sao?)

Tuyệt vời hơn, là cả thế giới chiêm ngưỡng quân đội của Cộng Sản Việt Nam, Quân Đội của Nhân Dân như thần thánh, chiến đấu cho nhân dân, vì nhân dân, trong khi Quân Đội Nhân Dân, chính những anh em này thẳng tay tàn sát đồng bào vô tội, chỉ vì chúng nghi ngờ một người tên Quyên hợp tác với Quốc Gia thì trong làng tất cả những ai không may có tên Quyên, Quyền Quyến... v... v... đều bị tàn sát không nương tay, Hồ chí Minh dậy một câu kinh nhật tụng là giết lầm hơn bỏ sót con cháu bác cứ như vậy thi hành, điển hình nhất là hàng ngàn vành khăn sô cho Huế trong dịp Mậu Thân; Nhưng không một công dân nào trên thế giới biết, cho đến ngày hôm nay chúng vẫn còn tiếng thơm là quân đội Nhân Dân, còn chúng ta vẫn bị lăng mạ thảm thương, đủ thấy tâm lý chiến của hai phe!! Thật đáng nản!! Không tin ư!!! Tôi xin quí vị hãy hỏi bất cứ một công dân Hoa Kỳ nào, mà thời kỳ thập niên 60 và 70 có để ý đến chiến trận tại Việt Nam, rất đơn giản và rõ ràng nhất quí vị hỏi: Ông bà nghĩ gì về trận tết Mậu Thân (1968) họ sẽ trả lời vanh vách rằng, Quân Đội Cộng Sản Việt Nam đã chiến thắng, họ chiến thắng mọi nơi, bằng cớ là họ đã chọc thủng phòng tuyến của Quân Đội Quốc Gia và Quân Đội Đồng Minh, đánh vào Thủ Đô Sài Gòn, đánh vào cả Tòa Đại Sứ Mỹ, đánh vào các cơ quan đầu não của chính phủ miền Nam, chiếm đài phát thanh Sài Gòn, chiếm BTTM của quân đội miền Nam Việt Nam, bởi vì họ là quân đội của nhân dân, còn Quân Đội miền Nam hèn nhát không chịu chiến đấu “đau đớn chưa?” hình ảnh rõ ràng, họ nhìn thấy mọi nơi trên báo chí trên đài. Ôi thảm não làm sao!!! Cho đến nay, ngay cả người lãnh đạo quốc gia Hoa Kỳ và tổng trưởng Quốc Phòng vẫn còn tin mãnh liệt hơn thế, thì hỏi sao công dân trên quả địa cầu này, lại phải nghĩ khác đi.

Một việc so sánh nhỏ bé nữa, là quí vị hỏi cũng những người, mà quí vị vừa hỏi là vụ thảm sát Mỹ Lai, thì ai cũng rõ, ai cũng cho là man rợ, ai cũng cho là tàn ác; nếu ai đó muốn tìm hiểu thêm đi đến Mỹ Lai, Không phải là dễ đến, vì Mỹ Lai xa xôi hẻo lánh. Nhưng nếu quí vị hỏi vụ thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế, ngay tại Cố Đô của chúng ta, nơi thị thành chứ không hẻo lánh như Mỹ Lai, ai muốn đến lúc nào cũng được, vụ thảm sát này, nó còn tàn ác còn dã man gấp trăm nghìn lần, đối với bất cứ một cuộc thảm sát nào trong chiến tranh Việt Nam,(quí vị đã thấy ai trói người bằng cách lấy lưỡi lê chọc thủng bàn tay nạn nhân, rồi dùng kẽm gai xâu từ bàn tay người này sang bàn tay người khác)? Họ trói kiểu đó vì họ sợ những người vô tội này bỏ trốn. Thưa đó là sản phẩm của con cháu Bác Hồ, con cháu bác đã hành động rất (NHÂN TÍNH), xong đem chôn sống tập thể hàng ngàn người như vậy đó quí vị ạ!!! Thì không, không một ai biết đến!!! Ôi lỗi này từ đâu vậy hở trời cao đất dầy?... Tôi không hiểu do sức lực nào mà chúng tôi QLVNCH, còn chiến đấu rất ư là anh dũng cho tới năm 1975, chúng tôi không nhân dịp này trách cứ một ai, chuyện đã qua, điều quan trọng là chúng ta phải nhận lãnh trách nhiệm với đồng bào...Chúng ta đã không làm tròn phần vụ của từng cá nhân, của từng đơn vị, của từng quân binh chủng; chúng ta đã không bảo vệ cho dân chúng miền Nam, như khi nhập ngũ chúng ta đã hứa... Hy sinh vì dân tộc trung thành với Tổ Quốc

.................... .................... .......

Phải thân dân, bảo vệ dân và giúp đỡ dân

Tất cả chỉ là huyền hoặc, chưa một vị chỉ huy nào giám nhận lãnh trách nhiệm, nhưng nếu có dịp là đọc diễn văn, nghe nó ai oán làm sao? Nói cho kêu, thét cho vang... Cũng chỉ là ông bình vôi của cụ Phan Khôi không hơn không kém!!!

Năm 1977 khi một phóng viên hỏi Tướng Westmoreland về Tướng Võ Nguyên Giáp, tôi không nhớ chi tiết, đại để ông trả lời như sau: "Tướng Võ Nguyên Giáp là một Tướng tài của Cộng sản Việt Nam, nếu ông chỉ huy quân đội các nước tân tiến (Đồng Minh) thì chỉ một trận thôi là ông ta phải ra tòa án quân sự. Các trận đánh mà ông ta thắng toàn bằng phương pháp giết đồng đội của mình (Thí Quân), không có trận nào ông ta thắng bằng thao lược (Mưu Trí) của một vị tướng lãnh".

Nhưng đoàn quân Mũ Đỏ tại Trị Thiên, màng lưới phòng thủ chuẩn bị mỗi ngày thêm chu đáo, trên dãy đồi Trần văn Lý, Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng tiên đoán TĐ11ND sẽ bị tấn công nay mai, ông điều động hai đại đội của TĐ3ND do Tiểu Đoàn Phó chỉ huy tăng cường sườn tây cho TĐ11ND, Trong ngày tháp tùng theo phái đoàn quan sát tại chỗ, chúng tôi tới TĐ11ND bằng thiết quân vận dưới cơn pháo, đoàn quân Mũ Đỏ vẫn còn bất lợi vì nguyên sườn phía tây tức dẫy trường sơn vẫn trong tay địch, nên địch quân đặt các đài quan sát bất cứ chỗ nào tại các cao địa, ngay cả ở lưng chừng sườn núi cũng vẫn quan sát được mọi sự di chuyển của ta, thiết quân vận di chuyển tạo ra đám bụi nhỏ bay lên, mỗi khi chúng quan sát được như vậy là chúng liền gọi pháo của chúng can thiệp ngay, cũng may pháo của chúng chưa chính xác cho lắm, hơn nữa ta di chuyển dưới các đường thông thủy, hay bên phía đông hoặc đông nam sườn đồi làm chúng khó quan sát, địch pháo quá nhiều làm cho mọi người cũng có phần lo ngại khi Thiếu Tá Lê văn Mễ bị thương phải di tản vì đạn pháo,(cái huôn của tiểu đoàn trưởng TĐ11ND trúng đạn pháo) nhưng trong TĐ11ND ngoại trừ các cấp chỉ huy, còn lại vẫn được giữ kín tin này, Đ/T Lữ Đoàn Trưởng nhấn mạnh cho các cấp chỉ huy: Gồm cả năm đại đội trưởng trên tuyến đầu là, (địch quân sẽ còn pháo mãnh liệt hơn, phải coi lại hầm hố cá nhân của thuộc cấp, phải ngụy trang cho tinh khôn và điều quan trọng nữa là địch quân sẽ tấn công tuyến đầu của ta, bằng cấp trung đoàn (thiết đoàn) chiến xa với lực lượng tùng thiết hùng hậu, ít nhất cũng là trung đoàn bộ binh, cho nên phải tiên liệu đường tiến của chiến xa địch, đường tiến quân của bộ binh địch, trong trường hợp tùng thiết cũng như không tùng thiết, tạo các chướng ngại vật để chiến xa cũng như bộ binh địch, phải di chuyển theo ý của chúng ta, phân phối hỏa lực chống chiến xa, tập dượt lại cách đánh chiến xa, giảng giải cho mọi cấp biết yếu điểm của chiến xa, ông kết luận với các cấp chỉ huy chắc như Đinh Đóng Cột là: “chúng ta phải thắng trận này, nếu không các anh và tôi phải TỰ XỬ , đã đội trên đầu chiếc nón mầu ĐỎ chúng ta không được quyền làm hoen ố nó, không được phép làm tủi nhục linh hồn các anh chị em của chúng ta đã hy sinh để tô thắm nó, các anh có nghe rõ không”), nơi họp không xa tuyến đầu của địch, nên tất cả im lặng nhìn nhau rồi cùng nắm tay vững chắc đưa ngang đầu tỏ lòng cương quyết, mọi người chia tay nhau trong niềm tin chiến thắng, với ánh mắt căm hờn, hận loài giặc hại dân hại nước, tuy không nói nhưng nhủ thầm giữ trọn lời thề son sắt với quê hương, với đơn vị; nếu không thắng trận này thề không trở về nhìn mặt anh em, với ý chí quyết chiến quyết thắng như vậy, chúng ta chỉ còn chờ ngày giờ đến, các đơn vị ban ngày không sao lãng tuần thám, nghiên cứu từng tấc đất từng sườn đồi, địa thế nào chiến xa có thể qua; chỉ cần quan sát cách làm việc của các tiểu đội trưởng, các trung đội trưởng, chúng ta hiểu ngay cấp chỉ huy đã chuẩn bị chiến trường chu đáo, địch quân sẽ phải tấn công theo ý của ta, chúng sẽ tiến quân đúng theo những gì chúng đã học, thiết giáp phải có xạ trường, chúng ta sẽ tạo đường tiến quân có xạ trường tốt cho chúng, bộ binh phải có địa hình, chúng ta sẽ tạo địa hình cho chúng, cấp chỉ huy của chúng nếu tinh khôn phải hiểu rằng: Chúng tôi đang đón chúng với tất cả tinh thần quyết chiến, quyết thắng; nên chuẩn bị thật chu đáo, chúng sẽ được tiếp đón thật tưng bừng, thật hùng hậu, từng tấc đất chúng sẽ di chuyển qua, đều được lo dọn dẹp chu đáo, để bắt buộc chúng phải dàn quân và tiến theo ý của các Thiên Thần Sát Cộng.

Ngày 14 tháng 5 năm 1972 lúc này Đại Tá Lịch hơi lo ngại vì Thiếu Tá Mễ bị thương, tuy không nặng nặng lắm nhưng cần phải di tản, mặc dầu Thiếu Tá Nguyễn văn Thành Tiểu Đoàn Phó rất vững vàng trên mọi phương diện, chỉ huy chiến trận cũng như phối hợp hỏa lực, hiện đang tạm thời thay thế Thiếu Tá Mễ , nhưng ông sợ yếu tố tinh thần, nếu như các chiến sĩ Mũ Đỏ thuộc đơn vị Song Kiếm Trấn Ải biết được cấp chỉ huy của họ bị thương, liệu lòng họ có xao xuyến hay không? Ai cũng tin dị đoan thầm lo ngại tiểu đoàn có huôn cấp chỉ huy toàn bị vì pháo... Tốt nhất không nên cho phổ biến tin này.

Ngay sáng hôm đó TĐ1PBND Thiếu Tá Tấn trình bầy kế hoạch hỏa yểm với BCH lữ đoàn rất tỷ mỷ, rõ từng chi tiết các loại đạn cần dùng cho mỗi mục tiêu, khi có chiến xa địch xuất hiện, hay khi không có chiến xa địch, kinh nghiệm xương máu tại Hạ Lào, Thiếu Tá Tấn cho biết khi yểm trợ tái chiếm đồi 31, nơi đặt BCH của LĐ3ND tại chiến trường Hạ Lào tức hành quân Lam Sơn 719 trung tâm phối hợp hỏa lực của TĐ1PBND là đơn vị duy nhất điều động hỏa lực yểm trợ, trong vùng Hạ Lào, khi đồi 31 không do ta làm chủ nữa, sáng ngày 28 tháng 2 năm 1971 cánh quân của Thiếu Tá Trần Hữu Phú ( có bài viết về Hạ Lào nói rằng đây là cánh quân của TĐ9ND như vậy là sai hoàn toàn, có lẽ theo suy luận, vì sau trận Hạ Lào Thiếu Tá Trần Hữu Phú là tiểu đoàn trưởng TĐ9ND) Thiếu Tá Trần Hữu Phú đang từ phòng 2 SĐND được điều động thay thế Thiếu Tá Đào Thiện Tuyển chức vụ Tiểu Đoàn Phó TĐ8ND, tại vùng tập trung Lao Bảo trong đêm chuẩn bị vào Hạ Lào, một phi vụ Skypot của Hoa Kỳ đánh lầm vào BCH/ TĐ8ND làm Thiếu Tá Đào Thiện Tuyển bị trọng thương, khi địch tràn ngập căn cứ 31 bằng chiến xa và bộ binh, cũng với cách điều quân cố hữu của Võ Nguyên Giáp là dùng biển người uy hiếp căn cứ này. Hai đại đội TĐ8ND do Tiểu Đoàn Phó TĐ8ND cùng một Thiết Đoàn chiến xa tiến lên đồi 31 để trợ lực cùng đơn vị thuộc LĐ3ND, cách đồi chừng 2 hay 3 cây số phải dừng lại bởi một Trung Đoàn địch chận đánh, tiếp theo từ đồi 31 năm chiến xa địch tiến ra với tùng thiết rất đông, trông như địch từ doanh trại của mình tiến ra, từ căn cứ hỏa lực A Lưới, Trung Úy Nguyễn Cẩn Ngọc, sau này là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó TĐ4PBND hiện đang ở Houston, Texas sĩ quan trong BCH/TĐ1PBND đã dùng viễn kính lưỡng mục quan sát rất rõ, chiến trận giữa cánh quân của TĐ8ND tùng thiết cho Thiết Đoàn chiến xa của ta, đã đụng độ với Trung Đoàn Địch; rồi cũng thấy rất rõ 5 chiến xa địch từ căn cứ 31 tiến ra, cùng đoàn tùng thiết của chúng, trông như năm con cua từ từ bò ra và có một đàn kiến đen bu chung quanh (từ căn cứ A Lưới đến Căn Cứ 31 khoảng cách chừng 8 cây số đường chim bay), BCH/TĐ1PBND quyết định phải đánh tan đàn kiến này, có như vậy mới cô lập được Thiết Giáp địch, nên TĐ1PBND đã điều động 2 pháo đội 105 ly và 2 pháo đội 155 ly, tạm thời mỗi pháo đội chỉ để lại một trung đội yểm trợ trực tiếp, cho cánh quân TĐ8ND và thiết đoàn, vì những đơn vị này đã có yếu tố điều chỉnh, còn dùng tất cả hỏa lực còn lại của mình, để tiêu diệt đoàn quân tùng thiết và chiến xa địch, quyết định thi hành tác xạ ngay lập tức, Tr/U Ngọc đã điều chỉnh các loạt đạn trúng ngay đoàn chiến xa địch, khi bắn hiệu quả dùng đạn nổ với đầu nổ CVT, xen lẫn đạn lân tinh (white phosphorus) bắn vào đoàn chiến xa có tùng thiết này, vì khi thuyết trình hành quân BTL/QĐ1 cho biết chiến xa T54 của địch có khả năng mạnh hơn chiến xa của ta, Trung Tá Thiết Đoàn Trưởng rất ngại phải chạm trán với chiến xa địch, nên đã yêu cầu Pháo Binh phải chặn ngay chiến xa của địch lại, và TĐ1PBND đã làm được việc đó, không một chiến xa nào của địch giám xuất hiện nữa bốn pháo đội, mỗi Pháo Đội mới bắn chừng 10 loạt đạn, trộn lẫn như trên đã nói, thì ba chiến xa địch phát hỏa ngay tức thời, hai chiếc không điều khiển loạng quạng đâm xuống sườn đồi, đoàn tùng thiết của địch vì đang di chuyển không có hầm hố, nên hầu như bị tiêu diệt hoàn toàn, sức tàn sát của đạn nổ dùng với đầu nổ CVT, vô cùng hữu hiệu, đối với quân di chuyển ngoài trời, lúc đó TĐ1PBND cho lệnh bắn CVT là có ý tiêu diệt đoàn quân tùng thiết, hoàn toàn không biết tại sao chiến xa địch bốc cháy ngay lập tức, Thiếu Tá Tấn trình bầy: “Nếu chiến xa dịch bị cháy vì đạn lân tinh thì cũng phải có thời gian ít phút, không thể nào bị cháy ngay như vậy, chúng tôi nghĩ rằng do đạn CVT, nhưng khổ nỗi không có ai lại đó để quan sát, những chiến xa của địch bị cháy là do nguyên nhân nào? khởi điểm cháy từ đâu?Cho nên lần này ban 3 TĐ1PBND muốn chứng minh, là đạn nổ với đầu nổ CVT có khả năng tiêu diệt chiến xa địch. Địch quân đã mắc phải lỗi lầm rất lớn, là di chuyển ban ngày để Quan Sát Viên Pháo Binh thấy, từ khi chúng tôi mang danh là Pháo Thủ, bất cứ mục tiêu nào, nếu trong tầm Pháo Đội, mà chúng tôi quan sát rõ mục tiêu, thì mục tiêu đó phải bị thiệt hại hay bị tiêu diệt ngay lập tức, mà chúng tôi nghĩ đây là sự việc rất bình thường, không có gì là xuất sắc, vì bất cứ một sĩ quan nào đã học xong phần căn bản pháo binh, cũng phải làm được những việc như chúng tôi đã làm, nó dễ dàng còn hơn trai gái đã ưng thuận nhau sau đó 4 pháo đội mới quay về yểm trợ cho cánh quân của TĐ8ND, khi chấm dứt hành quân Hạ Lào, ban ba TĐ1PBND có làm tờ trình này lên BCHPB/QLVNCH và Phòng 3 BTTM/QLVNCH theo đúng thủ tục hệ thống quân giai về kết quả không ngờ này, nhưng không ai tin như vậy cả, cho rằng đó là do không quân đánh, hay một đơn vị nào đó đánh, Pháo Binh muốn hạ chiến xa phải dùng đạn chống chiến xa lời phán ra như vậy cũng đúng thôi, đạn nổ không làm chiến xa địch hư hại được, sách vở nói như vậy mà, nếu như vậy đâu cần kinh nghiệm chiến trường nữa! ! ! Còn đạn lân tinh có thể làm chiến xa cháy, nhưng không hữu hiệu nhiều như vậy, không nhanh như vậy, nếu đạn White Phosphorus làm cháy chiến xa thì cũng ít nhất là năm phút sau mới cháy được; do không quân ư, lúc đó trên bầu trời Hạ Lào không có bất cứ loại máy bay nào xuất hiện, không có bất cứ một hỏa lực nào tấn công chiến xa địch ngoài pháo binh, không lẽ chiến xa của địch bị ma vật, mà cấp trên không tin cũng phải, tờ trình không nói rõ tại sao chiến xa địch cháy, sự thực chúng tôi có ai biết đâu mà trình, chỉ là quan sát sao nói vậy, ước mơ của chúng tôi lúc làm báo cáo, là hy vọng cấp trên có những vị có một kinh nghiệm nào đó, tìm được nguồn gốc là tại sao chiến xa địch bị cháy, lý do nữa theo nhiều người nghĩ, trên cũng khó tin cho được, vì năm 1971 tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù cũng vẫn là Tiểu Đoàn Trưởng Pháo Binh non nớt nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cho nên mọi người đều cho rằng ngựa non háu đá, ước mong của TĐ1PBND là phổ biến kinh nghiệm chiến trường, thấy sao báo cáo vậy, để tất cả chúng ta QLVNCH bớt đổ máu, nhưng ước mơ này bị dập tắt, không một làn khói mờ để lại, dầu gì chăng nữa với kinh nghiệm tại chiến trường, TĐ1PBND vẫn tin chắc là đạn nổ với đầu nổ CVT, có một sức nào đó cho nên đã tiêu diệt chiến xa địch, trong lệnh tác xạ chỉ cho bắn, mỗi pháo đội có 4 trái đạn white phosphorus mà thôi, xử dụng loại đạn nổ với đầu nổ CVT nhiều gấp bội, trên bàn nghiên cứu có hình chiến xa địch do phòng II BTTM phổ biến, không có chú thích là thùng chứa nhiên liệu của chiến xa địch tại đâu? (sau chiến thắng của TĐ11ND. Ngày14 rạng ngày 15 tháng 5 năm 1972; Chính Sĩ Quan của TĐ1PBND leo lên chiến xa bị cháy do đạn Pháo Binh, còn đang nóng hổi, với mục đích để tìm nguyên do chiến xa địch bị cháy, lý do muốn biết sự thực như vậy, nên mới kiếm ra được đáp số đứng đắn nhất, nhờ vậy ban 3 TĐ1PBND lại báo cáo nữa, nhưng lần này tỷ mỷ hơn có nguyên do tại sao chiến xa địch cháy, sau đó mới có văn thư của BTTM phổ biến là đạn nổ đầu nổ CVT của PB có thể chống chiến xa vì thùng xăng của các chiến xa địch thiết trí trên nóc xe, mảnh đạn CVT chém trúng thùng xăng là phát hỏa ngay, nguyên do như sau:

- Thứ Nhất vì sức nóng của mảnh đạn khi chém trúng thùng xăng, có thể làm xăng gặp nhiệt do mảnh đạn phát ra mà phát hỏa, rất nhiều nhà tranh, hay cỏ khô trong rừng bị pháo binh đốt cháy bởi đạn nổ ;

- Thứ Hai sức ma sát của mảnh đạn khi chém vào vỏ thùng xăng có thể xẹt lửa bén vào xăng làm phát hỏa;

- Thứ Ba mảnh đạn chém vào thùng xăng, làm xăng chảy xuống máy xe đang chạy có sức nóng làm xăng phát hỏa; hơn nữa thùng xăng lại có diện tích lớn, rất dể trúng mảnh đạn, mỗi trái đạn có hàng trăm mảnh chém xuống, mỗi lần bắn như vậy, đều bắn hàng trăm trái đạn, thùng xăng không có sắt dầy che chở, bất cứ mảnh đạn lớn nhỏ đều có khả năng làm thủng thùng xăng, bài này viết lại cho vui, vì chúng ta đâu còn đánh ai nữa đâu? Trong huấn lệnh cũng không có tưởng thưởng vấn đề này. Nhất là không còn tranh giành ảnh hưởng với ai cả, may ra con cháu đón nhận, hy vọng sẽ được tha thứ tội ngông cuồng này?!?

Áp dụng cho trận chiến này, khi phát hiện ra địch quân có chiến xa hay không TĐ1PBND cũng sẽ điều động 4 pháo đội 105 ly (sau này là 5 pháo đội) và 1 pháo đội 155 ly bắn đạn nổ với đầu nổ CVT, để ngăn chặn và tiêu diệt địch quân đang di chuyển với nhiệm vụ tùng thiết, vì đạn nổ với đầu nổ CVT sẽ vô cùng hữu hiệu đối với địch quân đang di chuyển, hay địch quân có hầm mà hầm không có nắp an toàn; Nếu là mục tiêu có chiến xa, thì đạn nổ với đấu nổ CVT sẽ làm cho chiến xa địch không còn quan sát xa được, vì tất cả chiến xa phải đậy nắp lại để tránh bị sát hại, quyết định bắn đầu nổ CVT, đồng thời kiểm nhận hiệu quả của đầu nổ CVT, đối với chiến xa địch hữu hiệu như thế nào? Cũng may là vì Lữ Đoàn hoàn toàn đồng ý với cách xử dụng hỏa lực của trưởng ban 3 TĐ1PBND.

Khi vào vùng trách nhiệm, bộ chỉ huy Lữ Đoàn điều động hai cây hỏa tiễn TOW, đây là loại hỏa tiễn chống chiến xa mới nhất và hữu hiệu nhất, của quân đội Hoa Kỳ thời bấy giờ, vì khai hỏa là phải trúng chiến xa địch, trái hỏa tiễn bắn ra có điều khiển để phải trứng mục tiêu, dù mục tiêu có phát nhiệt hay không, cơ xưởng sản xuất nghiên cứu và sáng chế ra đầu đạn của hỏa tiễn đi theo điều khiễn của ống kính nhắm, không những vậy ống kính hồng ngoại tuyến có thể nhìn ban đêm dễ dàng, ống kính nhằm vào đâu là đầu đạn đi theo vào đó, chiến tranh Iraq loại hỏa tiễn này vẫn còn dùng, cùng một Chi Đội chiến xa M41 và hai Chi Đội Thiết Vận Xa tăng cường cho TĐ11ND, như vậy hỏa lực của tuyến đầu rất dồi dào, phần chuẩn bị chiến trường cũng tạm gọi là chu đáo. Ngay sau khi trình bầy kế hoạch hỏa yểm cho bộ chỉ huy Lữ Đoàn, TĐ1PBND đề nghị xin thêm một pháo đội của TĐ2PBND đang tại vùng tập trung vào vùng, để tăng cường hỏa lực cho LĐ2ND, được trên chấp thuận ngay, lúc đó LĐ1ND cũng như LĐ3ND chưa nhập cuộc, vì vậy chiều ngày 14 tháng 5 năm 1972 TĐ1PBND lại được tăng cường thêm một Pháo Đội nữa, như vậy nếu địch quân dại dột tấn công TĐ11ND, chúng sẽ phải nhận ngay phút đầu tiên là 30 trái đạn 105 ly và 6 trái đạn 155 ly dáng xuống đầu chúng, quả là một trận địa pháo vô cùng mãnh liệt, ít khi xẩy ra trên chiến trường miền Nam, (những tác xạ này, đạn khói white phosphorus ban 3 TĐ1PBND không dùng, vì tin rằng không hữu hiệu lại còn làm mất yếu tố nhanh chóng, chính xác, đạn khói phải bắn với yếu tố khác, khi cùng bắn chung với dạn nổ làm cho các pháo thủ dễ lầm lẫn) tất cả mục tiêu tiên liệu, vì chúng tôi có thời gian, nên đều đã điều chỉnh tác xạ trước, không thể nào địch quân có thể ngóc đầu lên được, khó có thể có sơ hở được, vì chúng tôi chuẩn bị rất kỹ càng, địch quân phải tiến vào trận địa theo ý của chúng ta, phối hợp nhịp nhàng với nhau từ trước khi chiến sự xẩy ra, cho nên khi chiến sự xẩy ra nhiệm vụ ai người đó làm, không còn phải xin lệnh hay hỏi ý kiến mất thì giờ vô ích, mỗi Tiền Sát Viên Pháo Binh có một Pháo Đội yểm trợ trực tiếp, nói cho rõ ràng hơn mỗi đại đội Nhảy Dù có một pháo đội yểm trợ trực tiếp, cho nên khi các TSV/PB thấy địch là có đạn Pháo Binh đến ngay, không phải đợi chờ như những chiến trường khác, Ngay cả tại Hạ Lào cũng không được dồi dào như vậy, tại chiến trường Hạ Lào bốn TSV/PB và một Sĩ Quan Liên Lạc cũng chỉ có một pháo đội yểm trợ trực tiếp mà thôi. Địch quân dù có nội tuyến cũng không hiểu được cách điều động hỏa lực này, cấp chỉ huy của chúng không biết người biết ta, chỉ biết đánh biển người, nên chúng gặp ngay biển Hỏa Lực vì vậy chúng phải thất bại ê chề là chuyện rất bình thường. Tại Triều Tiên năm 1952 khi Trung Cộng dùng biển người đánh với quân đội Đồng Minh do Hoa Kỳ chỉ huy, danh tướng Mc Arthur đã tuyên bố một câu để đời nếu địch quân dùng biển người tôi sẽ dùng biển lửa để thiêu sống chúng quả vậy khi Trung Cộng dùng hàng quân đoàn xung phong để tiêu diệt quân Đồng Minh liền gặp ngay những dàn súng phóng hỏa, tiêu diệt trọn bộ, chết thật thê thảm, Cộng Sản Việt Nam là đệ tử của Mao nên nhất nhất theo đúng chiến thuật của Mao, đầu óc của chúng không suy luận được, nên chỉ biết áp dụng chiến thuật của quan thầy mà thôi.

Tối ngày 14 rạng ngày 15 tháng 5 năm 1972 (tức nhằm ngày mồng 2 rạng ngày mồng 3 tháng 4 năm nhâm Tý) địch quân chọn những ngày đầu tháng cho nên trời tối có lợi cho cuộc chuyển quân của chúng, ta khó quan sát thấy địch, quan thầy (Nga-Hoa) dậy như vậy, chúng có biết đâu, mỗi tình huống một khác, chính trời tối cũng khó khăn di chuyển, nếu bật đèn xe thì chỉ có nước sớm trở thành âm binh về gác xác Bác nơi âm ty, chính trời tối lại có lợi cho ta, địch không thông thuộc địa thế, còn ta thì từng Mũ Đỏ thông thuộc địa thế đóng quân của mình, đó chính là vị trí của ta chọn lựa. Nhờ tai mắt của ta bên kia bờ sông Mỹ Chánh, quan sát được địch chuyển quân, ta kết luận có nhiều dấu hiệu địch quân sẽ tấn công TĐ11ND; lý do nữa là địch bị thiệt hại quá nhiều, do đoàn quân Mũ Đỏ gây cho chúng liên tục những ngày qua, chúng phải trả thù, chúng phải lập chiến công, bắt buộc chúng phải tấn công để lấy lại uy thế, cho dù cấp dưới của địch còn hoang mang, cũng phải thi hành lệnh một cách mù quáng. Còn ta nắm vững tình hình, cho nên mọi người đều thở ra nhẹ nhõm, tất cả đã sẵn sàng trong thế chờ địch, địch như con thú hoang đang tiến vào cạm bẫy của ta; ai có nhiệm vụ thì thức, ai không có nhiệm vụ vẫn có thể ngủ, như những ngày khác. Nhưng hôm nay ai cũng nôn nóng khó có thể ngủ được, ban 3 TĐ1PBND cho lệnh kỹ càng 5 Pháo Đội Trưởng 105 ly và một Pháo Đội Trưởng 155 ly, rõ ý định điều động hỏa lực của trung tâm phối hợp hỏa lực, chúng tôi đang muốn tìm xem tại sao đạn nổ với đầu nổ CVT (Control Variable Time) lại tiêu diệt được chiến xa địch, chúng tôi rất vui mừng vì các pháo đội trưởng đều một lòng, muốn tìm nguyên do đạn nổ với đầu nổ CVT lại có thể tiêu diệt chiến xa, lúc này ai cũng ao ước cho địch tấn công, nếu không may địch không tấn công thì đúng công của chúng tôi chuẩn bị thành công dã tràng, chúng tôi chỉ ao ước sao, thấy cho được chiến xa địch bị cháy, vì bất cứ nguyên do nào, để tìm hiểu và học hỏi, chúng tôi có được xem hình chiến xa địch, nhưng không biết là thùng chứa nhiên liệu của chiến xa địch lại nằm ngay trên nóc xe, vì hình chỉ phổ biến cho có lệ, ngày đó hình phổ biến bằng quay ronéo nên trông nó thê thảm lắm, không như hình của computer ngày nay đâu, không một chú thích về nơi đặt thùng xăng của chiến xa, nên chúng tôi vẫn tin tưởng rằng chiến xa của địch được thiết trí thùng xăng cũng nằm ở vị trí ngang hông như chiến xa của ta, nếu chúng tôi biết thùng chứa nhiên liệu nằm trên nóc xe, chúng tôi đă có kết luận nguyên do tại sao chiến xa của địch bị cháy tại Hạ Lào; khi đạn nổ với đầu nổ CVT bắn đi, từ đầu nổ sẽ phát ra chùm luồng sóng điện, khi luồng sóng điện này gặp bất cứ chướng ngại vật nào, dù là lá cây, ngay cả mưa nặng hột hay sương mù dầy đặc, máy bay, đàn chim...Nói chung bất cứ vật gì mà luồng sóng điện của đầu nổ chạm phải, lập tức có tín hiệu dội ngược trở lại và liền kích viên đạn nổ cách chướng ngại vật là 20 thước (mét) viên đạn nổ ra, theo sức phóng tới của viên đạn, nên tất cả mảnh đạn không tạt ngang, mà mảnh đạn lại phóng tới chụp vào mục tiêu, như một cái nơm chụp bắt cá của ngư phủ vậy, cho nên rất hiệu quả, vì một viên đạn có hàng trăm mảnh đạn đánh vào một vùng thâu nhỏ, chừng một vòng tròn 50 thước đường bán kính, hàng trăm viên đạn pháo binh bắn cùng lúc thì hiệu quả vô lường, mảnh đạn pháo binh khi nổ ra lại rất nóng đễ gây phát hỏa, không những vậy nếu chém vào sắt thì sẹt ra một tia lửa ngay, nếu chém trúng thùng nhiên liệu, nhiên liệu chảy xuống máy chiến xa đang nóng cũng phát hỏa, (kỹ thuật tác xạ pháo binh nghiêm cấm không được bắn đạn nổ với đầu nổ CVT khi trời mưa, trời có sương mù, qua mức chắn, hay khi bắn cho quan sát viên phi cơ) cho nên một máy bay dân sự rớt ở biển Đại Tây Dương gần Nữu Ước, cả máy bay không ai sống sót không kiếm ra mảnh máy bay, hay hộp đen của máy bay, người ta nghi ngờ do hỏa tiễn của Hải Quân Hoa Kỳ thực tập làm hại máy bay này, cũng không phải là điều không đáng nói tới.

Trở lại mặt trận bờ nam giòng sông Mỹ Chánh, hay mặt trận trên dãy đồi Trần văn Lý, một toán viễn thám của ĐĐ2TSND cho biết có đoàn chiến xa địch, di chuyển về hướng nam còn cách sông Mỹ Chánh khoảng 6 Km, vì toán viễn thám ở cách xa đường di chuyển của chiến xa địch, cho nên toán viễn thám không xác định được vị trí của chiến xa địch, cũng như không rõ loại chiến xa, bao nhiêu chiến xa, toán viễn thám nằm trên đất của địch, một toán nhỏ so với lực lượng địch nên không giám di chuyển nhiều; lúc đó là 2:00 giờ sáng ngày 15 tháng 5 năm 1972, nhận được tin chúng tôi cho lệnh vùi dập chúng ngay, nhưng mục tiêu này chỉ trong tầm 2 pháo đội 105 và pháo đội 155, sau khi bắn xong địch quân im lặng, sau đó chúng lại tiếp tục di chuyển, pháo của chúng đáp lễ các pháo đội của ta nên mọi việc đã rõ, chúng tôi đang gây khó khăn cho chúng nên chúng trả đũa, chúng tôi vẫn tiếp tục bắn chặn theo đường chúng có thể di chuyển, nhưng không ghi nhận được kết quả, khi một đại đội của TĐ3ND nghe thấy chiến xa địch di chuyển rất đông bên kia bờ sông, cũng không xác định vị trí địch vì chỉ nghe tiếng nổ của động cơ mà đoán chừng thôi; lúc 4:00 giờ sáng, lúc này đa số các cấp chỉ huy còn trên hệ thống chỉ huy, ngay lập tức 6 pháo đội khai hỏa, ba trăm cái nơm sắt thép chụp xuống mục tiêu, sau đó chiến trường hoàn toàn im lặng, chiến xa địch im hơi nhưng pháo địch phản ứng dữ dội hơn trước, ba pháo đội gần tuyến đầu bị ảnh hưởng pháo của địch nhiều nhất, mọi người đều cảm nhận thấy trận giặc sắp khai màn, chắc chắn có chiến xa tham dự, sẽ trong đêm nay thôi, tất cả anh em trên tuyến đầu, đều nô nức đợi chờ địch đến tấn công, cho khỏi bõ công chuẩn bị chiến trường lâu nay, không có dịp này khó có dịp may khác trả thù cho Charlie được, mọi người đều tỉnh táo, các Đại Đội trưởng kiểm soát lại tuyến phòng thủ lần chót cho an tâm hơn, nhắc nhở lại các ổ chiến đấu khi có chiến xa xuất hiện, chỉ khai hỏa khi chắc chắn chiến xa địch bị tiêu diệt, nhắc lại cho từng quân nhân biết tầm nhìn của chiến xa rất hạn chế, chúng chỉ thấy ta khi ta khai hỏa không trúng chiến xa địch, tất cả anh em Mũ Đỏ các cấp, trên tuyến đầu đã được huấn luyện nhuần nhuyễn, ai cũng đều nắm vững kỹ thuật tiêu diệt chiến xa địch, vì vậy vấn đề huấn luyện kỹ thuật tác chiến, phải chú trọng đặc biệt cho từng địa thế, từng trận đánh, phải tiên liệu tình hình trước để các cấp không ngỡ ngàng khi gặp đối phương, nhất là yếu tố tinh thần, cấp chỉ huy phải dũng cảm coi thường địch, quyết chiến là yếu tố chính quyết định chiến trường, anh em MŨ Đỏ ai ai cũng đều nhất quyết khi đã khai hỏa là chiến xa phải cháy, ai cũng ao ước được thử sức với chiến xa một lần cho biết, vì đa số anh em chưa một lần chạm trán với chiến xa địch, khi thấy tinh thần của anh em Mũ Đỏ như vậy, anh em Thiết Giáp cũng bừng bừng khí thế không sợ chiến xa T54 trên chân, hơn nữa các chiến xa của ta trong thế phòng thủ nên đều được ngụy trang và có ụ đất bao bọc kỹ càng .

Lúc 4:30 giờ sáng một đại đội khác của TĐ3ND lại báo cáo: Nghe thấy tiếng chiến xa địch sát bờ sông, xin tác xạ pháo binh, không bỏ lỡ một cơ hội nào cho dù không chắc ăn, tức thì ba trăm nơm sắt thép lại chụp xuống đầu địch, lần này địch trả đũa dữ dội, các pháo đội và tuyến đầu bị pháo dồn dập thêm nhiều vị trí pháo địch từ nhiều hướng mới, như vậy là chạm nọc rồi (chúng tôi tự nghĩ như vậy), cho nên ngay lập tức chúng tôi cho chụp thêm hàng trăm cái nơm sắt xuống, quả nhiên một chiến xa địch bốc cháy ngay bên bờ bắc sông Mỹ Chánh, chúng tôi mừng vô hạn, chúng tôi tin chắc những điều sơ đoán dù non nớt của mình đã trúng, lúc này chúng tôi tin tưởng rằng (đạn nổ với đầu nổ CVT tiêu diệt được chiến xa địch, nhưng vẫn chưa có kết luận vững chắc, vì câu hỏi tại sao chiến xa địch bốc cháy? Câu hỏi này làm chúng tôi nhức nhối cả hơn một năm nay) Tiền sát viên pháo binh đi với đại đội TĐ3ND lại báo cáo thấy nhiều tiếng chiến xa, chúng tôi ngại gì mà không bắn thêm, vì trời còn tối TSV/PB chỉ điều chỉnh đạn theo ước lượng khi nghe đạn nổ cũng như khi nghe tiếng chiến xa, cho nên không có kết quả trông thấy nữa, cánh quân của TĐ11ND vô cùng nao nức khi nghe tin chiến xa địch bốc cháy, vì họ không có dịp thi tài, nếu chiến thắng do TĐ3ND thì TĐ11ND cũng mừng, nhưng không vui bằng chính TĐ11ND rửa hận, nên cánh quân TĐ11ND đang háo hức trông chờ sự xuất hiện của chiến xa địch, lúc này là lúc mà sự quyết thắng sẽ thực hiện dễ dàng, vì lòng quân đang nung nấu chí phục thù, cho cánh chim đầu đàn không may gẫy cánh.

Mệt quá! mặc dầu chúng tôi uống Cà Phê Phin đến no bụng, điếu thuốc lá lúc nào cũng trên tay, vậy mà ngủ thiếp đi lúc nào không hay, tôi thấy mình đang du dương nghe Thái Thanh ca Tình Hoài Hương, tiếng vỗ tay vang dội, Jomarcel đang đôi điều cảm ơn; tôi đang bắt tay Nhật Trường, rồi Như Thủy cố kéo dài hơi

Thương ai về ngõ tối
Đường không có ánh trăng

Đang say sưa trong giấc mộng đẹp; Phú trực đài trung ương tác xạ lay nhẹ tôi dậy, anh cho biết Thanh Hà 101 báo cáo quan sát thấy chiến xa xuất hiện, tôi bốc máy liên lạc trực tiếp với Sĩ Quan Tiền Sát đi với Đại Đội 111ND, Thiếu Úy Thức chỉ danh của anh là Thanh Hà 101, giọng Huế thật nhẹ nhàng, bình thản Thức cho biết Trung Úy Đinh viết Trinh Đại Đội Trưởng đại đội111 dùng kính hồng ngoại tuyến thấy rõ ánh đèn của nhiều chiến xa, các chiến xa này đã sang sông và chuẩn bị tấn công vào tuyến của Đại Đội 111 Nhảy Dù, ngay tại tác xạ tiên liệu C308 đã điều chỉnh cả ba pháo đội, mắt thường chưa thấy vì trời còn tối. Sau khi nắm vững tình hình Thiếu Tá Tấn lập tức cho lệnh tác xạ TOT ngay trên điểm tiên liệu của ĐĐ111ND mà Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực chấp thuận những ngày trước và đã được Sĩ Quan Tiền Sát Viên Thanh Hà101 điều chỉnh bằng ba pháo đội của TĐ1PBND, đây là tác xạ gần quân bạn cho nên tác xạ này chỉ thi hành bằng ba pháo đội đã điều chỉnh rồi mà thôi, lệnh của Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực (TTPHHL) do Thiếu Tá Tấn Truyền đi.

- Hồng Hà, Hắc Hà, Thanh Hà đây Bạch Hà (Bạch Hà chỉ danh TĐ1PBND)
- Bạch Hà đây Hồng Hà (Hồng Hà chỉ danh PĐA1ND, vì dấu chỉ độ giạt mầu đỏ)
- Bạch Hà đây Hắc Hà (Hắc Hà chỉ danh PĐB1ND, vì dấu chỉ độ giạt mầu đen)
- Bạch Hà đây Thanh Hà (Thanh Hà Chỉ danh PĐC1ND, vì dấu chỉ độ giạt mầu xanh, bởi vậy mỗi khi nghe chỉ danh của TSV, biết ngay TSV đó thuộc Pháo Đội nào)

Xin tác xạ Mục Tiêu C308, tôi lập lại mục tiêu C308, 20 tràng, đầu nổ CVT, TOT theo lệnh tôi còn 8 phút nữa. (TOT= Time on target, có nghĩa là các pháo đội phải tính sao, khi TTPHHL đếm còn Zero tất cả các pháo đội thi hành tác xạ này phải có lọat đạn đầu tiên nổ trên mục tiêu cùng một lúc, đây là cách bắn làm cho địch quân phải kinh hoàng, quân đội của cả khối tự do đều đã làm và hiệu quả vô cùng.
- Hồng Hà Nhận Rõ
- Hắc Hà Nhận Rõ
- Thanh Hà Nhận Rõ

Sau đó hệ thống tác xạ hoàn toàn im lặng,

- Đây Bạch Hà TOT còn ba phút, còn hai phút, còn một phút, còn 57 giây, 55, 50... 1, zero.

Khi nghe được Zero tức là cùng một lúc ba trăm sáu mươi chiếc nơm sắt thay nhau chụp xuống, con cháu của Bác và Đảng lớp chầu diên vương, lớp chạy tán loạn không còn ai chỉ huy ai nữa, giống như một pass B52 không tan hàng sao được, đồng thời thêm một chiến xa bốc cháy, chính tác xạ TOT này do Đại Đội Trưởng 111 Nhảy Dù, Trung Úy Đinh Viết Trinh đã tiên liệu, tác xạ này làm hai chiến xa đi lạc bầy luôn và bộ binh tùng thiết hoàn toàn tan hàng không còn phối hợp với nhau được nữa, sau đó lệnh của TTPHHL cho các TSV liên lạc trực tiếp với pháo đội đã ấn định yểm trợ trực tiếp cho mình, ba pháo đội và ba tiền sát viên phải bẻ cổ sang tần số tác xạ đã ấn định, để cho hệ thống tác xạ bớt đi rối loạn vì có tới sáu đơn xin tác xạ cùng lúc, đài trung ương tác xạ có sẵn hai hệ thống tác xạ, để điều động hỏa lực, vì nhu cầu cần hỏa lực mạnh, chẳng hạn như trước mặt ĐĐ111ND trung tâm phối hợp hỏa lực vẫn điều khiển tác xạ TOT cả 6 pháo đội vào mục tiêu này, mấy ngày nay trên phương diện hỏa lực, chúng tôi hoàn toàn tự lực, không có một nguồn hỏa lực nào từ phía Hoa Kỳ cung cấp; dù không quan sát được rõ ràng, nhưng chắc chắn địch phải vào các tác xạ tiên liệu của ta, các lơm sắt không ngần ngại chụp xuống ngay, chính nhờ vậy mà trên một tuyến dài khoảng hai cây số đội hình Thiết Giáp- Bộ Binh của chúng bị tan hoang, bộ binh hoàn toàn bị tan hàng, tuy không bị tiêu diệt, nhưng đội hình chiến đấu không còn nữa, thiết giáp không có bộ binh tùng thiết , bộ đội trên thiết giáp địch lại không giám mở nắp thiết giáp, vì các mảnh đạn do đầu nổ CVT điều khiển chụp xuống như mưa rào, bất cứ một sinh vật nào trong vùng ảnh hưởng của các tác xạ của chúng ta, đều phải trúng mảnh đạn, không khác gì như địch quân đi dưới cơn mưa rào vậy, tất cả đều bị ướt, tất cả nắp trên pháo tháp đậy xuống tránh mưa, nên lúc này thiết giáp địch không khác gì người mù, đi mò trong thành phố lạ, khối sắt khổng lồ di chuyển không theo một hướng nào cả, trời tối không có người hướng dẫn khai hỏa lung tung, không biết đâu là hàng ngũ của các đồng chí và đâu là tuyến phòng thủ của các Thiên Thần Sát Cộng; có chỗ trong lúc thiết giáp của chúng đang lên dốc, chúng mất tinh thần khai hỏa bừa bãi, nên súng ngước lên trời, các loạt đạn đại liên nổ dòn dã, bay bổng lên trời trông thật đẹp mắt, những con rắn lửa vắt chéo nhau qua lại, chính nhờ vậy anh em tân binh, dù là lần đầu tiên thấy chiến xa địch, nhưng lại thấy chiến trận không có gì là đáng ngại cả, nên rất bình tĩnh dùng M72 bắn cháy chiến xa địch, tự cảm thấy trận mạc thật không khác gì trò chơi hú tim; không liên lạc được với quân tùng thiết, nên thiết giáp địch cán chết cả bạn, di chuyển lung tung không định hướng, không biết đâu là mục tiêu, cách duy nhất lấy lại tinh thần là khai hỏa bừa bãi, để rồi làm bia cho anh em Mũ Đỏ thực tập tác xạ, lần lượt từng chiếc bị tiêu diệt, từng chiếc lần lượt bốc cháy, giúp anh em Song Kiếm Trấn Ải thực tập bắn M72, sau khi đã tiêu diệt được chiếc đầu tiên, tinh thần anh em lên cao ngất trời, ai cũng muốn chính mình phải tiêu diệt được chiến xa, cho nên khi cuộc chiến tạm lắng dịu, chúng tôi chứng kiến hai tân binh, đứng trước một chiến xa của địch đã bị cháy, bằng hai vết M72, anh nào cũng nhận là mình bắn trước, và ai cũng tin tưởng M72 là khắc tinh của chiến xa địch, nếu chúng ta biết cách bắn, chúng tôi thích thú nghe hai tân binh tranh cãi, liền tham gia cho vui, tôi hỏi:

- Vị trí của hai em ở đâu,? Hai anh tân binh nhanh nhẹn chỉ vị trí tác chiến của mình, xong rồi phân trần theo ước tính của mình,

- Đích thân thấy không vết này phải là em bắn nó mới đúng hướng,

- Không phải đâu, đích thân thấy vết này nó thẳng góc với em hơn,

Các em đâu có biết khi trúng hỏa tiễn thì chiến xa vẫn còn di chuyển, nên bây giờ khó biết ai bắn trước ai bắn sau, tôi lên tiếng dàn hòa,

- Cả hai em đều bắn trúng như vậy là có chiến công bằng nhau, Đại Đội Trưởng (Hùng) xen vô cho vui vẻ cả làng,

- Cả hai tụi bay đều có công bằng nhau, tao cho hai đứa vừa thăng cấp lên binh nhất, vừa huy chương nữa chịu không, tôi thấy hai anh tân binh (bẽn lẽn) vui cười rồi chào chúng tôi đi về vị trí của mình.

Tôi nhìn đồng hồ 5:00 giờ sáng, tiếng Thiếu Tá Nguyển Trọng Nhi Trưởng Ban 3 Lữ Đoàn đang truyền lệnh cho ban 3 TĐ11ND, và Tiểu Đoàn Phó TĐ3ND đều đặn và chặt chẽ, tôi nghĩ thầm, chúng tôi liên lạc với nhau như vậy, chiến thắng đến là chuyện tất nhiên, nếu các đơn vị khác cũng chuẩn bị chiến trường chu đáo, phối hợp hỏa lực nghiêm minh, thì cũng phải chiến thắng như vậy thôi, điếu thuốc lá trên tay đỏ liên tục, cà phê hết ly này sang ly khác, rồi tình hình chiến sự lại sốt dẻo, nên chúng tôi rất tỉnh táo theo dõi cuộc chiến anh dũng của TĐ11ND và TĐ3ND, các tiền sát viên làm việc rất hữu hiệu, hôm nay mỗi đại đội đều được một pháo đội yểm trợ, ít có chiến trận được hỏa lực mạnh mẽ như vậy, vì thường một tiểu đoàn tác chiến mới được một pháo đội yểm trợ trực tiếp, từ lúc địch quân khởi sự tấn công TĐ11ND, chúng không pháo kích BCH/LĐ2ND và BCH/TĐ1PB nữa, chúng tôi không còn thấy mệt mỏi, tin vui đến liên tục, tôi dùng một máy truyền tin riêng, đưa tần số sang nghe hệ thống chỉ huy nội bộ của TĐ11ND, to miệng nhất vẫn là Trinh và Hùng hai anh chàng Đại Đội Trưởng này ganh nhau về tài diệt chiến xa, họ vui vẻ đánh cá nhau như cuộc vui chơi đua ngựa, nếu ai rang nhiều cua (diệt nhiều chiến xa) hơn, cứ một con cua rang muối là một két bia, nghe những mẩu đàm thoại ngắn gọn giữa các Đại Đội trưởng với nhau, ai cũng có thể đoán được trận chiến sẽ ngã ngũ ra sao, tôi nghĩ chắc địch quân không muốn sống nữa rồi, gần sáng mới tấn công, đúng là vào tử địa, tôi mỉm cười thầm chúc anh em TĐ11ND, những con chim trong đoàn Song Kiếm Trấn Ải, được toại nguyện (ngày hôm sau ta lần lượt khai thác tù binh mới biết địch cố gắng tấn công càng sớm càng tốt, nhưng chiến xa đồn trú tại khu vực gần La Vang, di chuyển lại Mỹ Chánh trước, thì lại sợ bị các toán viễn thám của ta phát giác, địch không giám di chuyển ban ngày sợ lộ, ban đêm không giám bật đèn lớn, chỉ giám bật đèn mắt mèo, và đi sát nhau sợ lạc nhau vì vậy mà đi chậm, cho nên thay vì giờ tấn công là 2:00 giờ sáng mà không làm đúng được, chúng đã coi kỹ sa bàn điểm đóng quân của ta, và đã phân chia nhiệm vụ cho từng đơn vị chiến xa và từng đơn vị bộ binh tùng thiết, như vậy kể như chúng đã thực tập tấn công trước trên sa bàn, chúng chuẩn bị chiến trường cũng chu đáo đấy , chúng có biết đâu vỏ quít dầy có móng tay nhọn, sa bàn của chúng không đúng với thực tế, những tin tức do chính các toán trinh sát của chúng nhìn thấy và vẽ lại đều sai, vì những điểm chúng quan sát được chính là những điểm ban ngày ta cố ý cho chúng quan sát, những vị trí thật được ngụy trang kín đáo và lùi vào phía trong, không một vị trí phòng thủ nào của ta sát ngay bờ sông như chúng đã vẽ lại và chúng đã cho thực tập vào vị trí nghi binh của ta, còn vấn đề vô cùng quan trọng nữa, bị xáo trộn không ít là khi chưa vượt sông đã bị các toán Viễn Thám bên kia sông, cũng như các toán tiền sát viên của ta bên đây sông, xin pháo binh bắn trúng đội hình, làm tổn thất một số đáng kể, ngay lúc đó chúng đã thấy chiến trường đêm nay, hoàn toàn bất lợi cho chúng, tinh thần có phần nao núng, vì chúng không có đơn vị trừ bị, để điền vào chỗ trống của một vài chiến xa cũng như một vài đơn vị bộ binh mới bị tiêu diệt, cho nên một vài mũi tấn công bị trống, trận chiến trở nên thiếu quân bằng, nhất là từ ngày vượt sông bến Hải, đơn vị của chúng chưa gặp một địch thủ nào, đã cản được bước tiến của chúng, cho nên tinh thần của địch đang cao trên đỉnh núi, bắt đầu đụng trận, thì tinh thần của chúng xụp xuống đáy vực, một xạ thủ đại liên trên chiến xa địch đã thổ lộ, anh không thấy một mục tiêu nào để bắn, mà chỉ bắn cho có tiếng nổ để giữ tinh thần, còn xạ thủ đại bác không dật trên chiến xa địch còn thê thảm hơn nữa, anh nói anh bắn gần hết số đạn đại bác trên xe mục đích là cho bớt sợ hãi, vì không thấy một mục tiêu nào cả).

Lúc Thiếu Tá Tấn ban 3 TĐ1PBND đang điều khiển tác xạ TOT cho 6 pháo đội thi hành, trời thương chúng tôi sương mù chỉ dầy đặc dưới thung lũng, còn các vị trí Pháo Đội lại quang đãng không có mây, cho nên các pháo đội tác xạ vẫn dùng đầu nổ CVT được như thường, chúng tôi nghe trên máy Thiếu Úy Thức báo cáo với Pháo Đội Trưởng yểm trợ trực tiếp Pháo Đội C1 Nhảy Dù, (lúc này Pháo Đội Trưởng Pháo Đội C1 Nhảy Dù là Đại Úy Nguyễn Cẩn Ngọc, Ngọc có biệt danh là Ngọc Thầy tu, vì tánh tình anh như một nhà tu hành, hơn nữa gia đình anh có 10 anh chị em, thì 5 người là Linh Mục, 5 người là bà Soeur, chỉ có một mình anh là Thiên Thần mà thôi, sau này anh là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó, hiện anh và gia đình ở tại Houston, Texas) Một cua rang muối như vậy là địch tổn thất thêm một chiến xa, trong khi các chiến xa của chúng chưa chạm trán trực tiếp với TĐ11ND, chúng tôi vô cùng sung sướng và nghĩ rằng khi chiến trường lắng dịu chắc chắn, chúng tôi phải tới tận nơi những chiến xa của địch, bị Pháo Binh tiêu diệt để tìm nguyên do tại sao chúng bị cháy như vậy, trời quả vẫn còn thương chúng tôi.

Khoảng 5:20 địch đồng loạt tấn công hai đại đội của TĐ3ND và ba đại đội của TĐ11ND, (còn một đại đội tác chiến của TĐ11 không ở trên tuyến đầu, ở phía sau làm thành phần trừ bị, bảo vệ bộ chỉ huy tiểu đoàn), chính toán cố vấn Hoa Kỳ xử dụng một cây Hỏa Tiễn TOW bắn cháy một chiến xa đầu tiên do đạn bắn thẳng và có quan sát được, chiến xa này cháy trước khi chúng tràn vào tuyến, Thiếu Tá Tấn phân chia mỗi pháo đội 105 ly yểm trợ một đại đội tác chiến, còn pháo đội 155 ly giao cho sĩ quan Liên Lạc của BCH/TĐ11ND.

Thiếu Úy Thức báo cáo chiến xa địch tràn vào trong nhưng không có tùng thiết, nên các chiến sĩ Mũ Đỏ của Tú Trinh (chỉ danh của Trung Úy Đinh Viết Trinh Đại Đội Trưởng Đại Đội 111Nhảy Dù, ngay sau trận diệt chiến xa anh được vinh thăng Đại Úy, anh có biệt hiệu là Trinh ba búa, anh bị thương mức độ tàn phế 90% tại trận Thường Đức, anh và gia đình hiện đang ở San Jose, tuy đời sống khó khăn nhưng anh lúc nào cũng mỉm cười) phải leo lên thiết giáp địch mở vung cho vào nồi muối M26 (lựu đạn M26) để rang cua, trong lúc đó cánh quân của TĐ3ND bị địch tấn công bằng bộ binh, chỉ có ba chiến xa cùng hòa đồng tấn công, nhưng đội hình phối hợp bị tan nát bởi các toán Tiền Sát Viên Pháo Binh của ta, điều chỉnh từng loạt đạn theo ý muốn, nhất là lúc này không phải là lúc, mà chiến xa có thể làm cho các chiến sĩ Mũ Đỏ nao núng, trái lại các anh em Mũ Đỏ còn mong cho chiến xa xuất hiện để được dịp thi thố tài năng, cho nên ngoại trừ rất ít chiến xa của địch bị Pháo Binh và hỏa tiễn Tow tiêu diệt, còn lại bao nhiêu chiến xa khác, đều bị các chiến sĩ Mũ Đỏ của năm đại đội Mũ Đỏ trên tuyến đầu tiêu diệt, chiến xa cháy ngay trên tuyến phòng thủ, hay chỉ cách tuyến phòng thủ chính không đầy 50 thước, sau khi cuộc chiến chấm dứt, lúc mà pháo binh của địch quân đang hoạt động trả thù, trời sáng trưng, chúng tôi tháp tùng theo Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng, nên có dịp được hỏi thăm những anh em khinh binh, tuy biết trước nhưng tôi vẫn đặt câu hỏi: Tại sao anh em lại để chiến xa vào gần như vậy, tất cả đều được anh em Mũ Đỏ 11 trả lời tương tự như học sinh lớp ba, cùng học một bài thuộc lòng do thầy giáo cho bài từ ngày hôm trước:

Đích Thân ơi nếu không để nó vào gần như vậy thì mình chết; chiến xa nó ở xa 100 thước chắc gì mình bắn trúng nó, hơn nữa bắn phía trước không hiệu quả bằng bắn ngang hông, không may bắn nó không cháy là mình bị lộ mục tiêu , như vậy là tiêu với nó ngay, không khác gì mình tự sát vậy; cho nên tụi em nhận được lệnh của trung đội trưởng, thằng nào mà bắn trật chiến xa là bị cấm phép; nên chắc ăn là để chiến xa nó vào gần mình rồi hãy bắn, để khỏi bị cúp phép. Một số ít chiến xa chưa khai hỏa nhiều, không may cho chúng vì chúng không thấy đường nên chúc đầu xuống hố, một trái M72 là một chiến xa dễ dàng, một trái M72 là phải tiêu diệt một chiến xa như hai với hai là bốn vậy, Chiến xa địch cũng có chiếc vào tới BCH/TĐ11ND nhưng bị bốc cháy tức thời, Chiến xa địch không phối hợp được bộ binh, cho nên yếu tố quyết định chiến trường không dành cho chúng, có thể vì các loạt đạn CVT của Pháo Binh đã làm chúng tan hàng ngũ, phối hợp giữa bộ binh và thiết giáp không còn, sau đó thiết giáp lên đồi chạy nhanh hơn bộ binh nên vào trước, còn bộ binh lúa quớ vào sau làm bia cho anh em Mũ Đỏ, yếu tố chính ta chiến thắng là do lòng quyết chiến quyết thắng của các anh em trên tuyến đầu, họ sung sướng khi thấy địch xuất hiện, họ không được vui cho lắm vì tiêu diệt được quá ít chiến xa, không đáng công phải chuẩn bị quá vất vả; còn bộ binh của địch thì hoàn toàn không đáng kể, địch tiến vào gặp ta bị chết bị thương mà vẫn chưa xác định được ta ở đâu; lúc này pháo của địch cũng hoạt động mạnh, nhưng thay vì yểm trợ cho địch, pháo của địch lại trở thành yểm trợ cho ta, các loạt pháo này đều rớt xuống sông Mỹ Chánh và bên bờ phía bắc, có lẽ do TSV/PB của địch đã bị tử thương trong đêm qua, cho nên không có ai điều chỉnh các loạt đạn, vì vậy pháo của địch chỉ bắn trúng địch, hay bắn trúng chỗ không người, pháo binh bắn theo bản đồ tin tức, hay bắn theo các đài quan sát trên dãy trường sơn, vì ta không có sơ hở cho đài quan sát ở xa thấy được, nên không may cho chúng là chẳng pháo trúng đoàn quân Mũ Đỏ, mà lại trở thành yểm trợ cho đoàn quân Mũ Đỏ.

Khoảng 5:50 sáng một đoàn Cobra vào vùng xin Pháo Binh ngưng tác xạ, đó cũng là lúc chiến xa địch đã hoàn toàn bị tiêu diệt, chiếc xe chỉ huy của trung đoàn phó chiến xa địch đã bị các chiến sĩ Mũ Đỏ của Tú Trinh làm thịt kể như là chiếc cuối cùng; tại tuyến của TĐ3ND ta diệt 3 chiến xa địch, tuyến của một đại đội của TĐ11ND tức là ĐĐ111ND ta tiêu diệt 8 chiến xa và một xe chỉ huy, hai hỏa tiễn TOW tiêu diệt tổng số 4 chiến xa, hai chiến xa địch đi lạc ra gần quốc lộ số 1, một chiếc bị bắn cháy, còn một chiếc đầu hàng còn nguyên vẹn; nói chung, chúng dàn chiến xa ra đánh dài trên tuyến đầu, cho nên đơn vị nào cũng được hân hạnh tiêu diệt chiến xa như nhau.

Đoàn Cobra vào vùng, mọi người ngạc nhiên, chính cố vấn Mỹ cũng không biết đây là đoàn Cobra do ai phái tới, sau một hồi mới hiểu ra đây là đoàn Cobra từ Sài Gòn gửi ra từ những ngày hôm trước, đậu sẵn tại hàng không mẫu hạm chờ lệnh từ Sài Gòn, chuyển lệnh qua cố vấn tại Quân Đoàn I, đoàn Cobra có chỉ danh là Red Team, mới được thành lập bên Thái Lan, cho nên các cố vấn cũng không rõ, đây là lần đầu xuất quân của họ, với nhiệm vụ tìm và tiêu diệt chiến xa địch, mỗi chiếc Cobra được trang bị rất tối tân, tất cả đều trang bị hồng ngoại tuyến để nhìn ban đêm, và sensor để tìm hơi nóng, do một sĩ quan cấp tá chỉ huy, đoàn này gồm có:

- 1 CNC chỉ huy và liên lạc
- 4 Cobra trang bị hỏa tiễn chống chiến xa và minigun
- 4 Cobra trang bị hỏa tiễn thường và minigun
- 3 trực thăng, chuyên chở trung đội cảm tử, nếu không may có một máy bay trong đoàn, bị trúng đạn phải đáp xuống đất, trung đội cảm tử này sẽ được thả xuống ngay để tiếp cứu, hoặc để chiến đấu chờ đợi tiếp cứu đến.

Đoàn máy bay Cobra săn chiến xa bắn thêm được 1 chiến xa đang tẩu thoát bên bờ bắc sông, họ bay theo vết chiến xa suốt từ Mỹ Chánh cho tới giáp ranh Quảng Trị, chỗ nào nghi ngờ họ đều tấn công ngay, kể cả bộ binh, khi không thấy còn chiến xa cũng như bộ binh địch hoạt động nữa, họ đã quay lại xin yểm trợ sát quân bạn và tiêu diệt một số bộ binh địch đáng kể, và họ cho biết họ đếm được tổng số 22 chiến xa bị tiêu diệt, về sau mới rõ còn 4 chiến xa địch không bị cháy đã đầu hàng, nằm ngay trên tuyến của ta nên đoàn Cobra săn chiến xa tưởng lầm đó là chiến xa của ta, họ đếm chiếc nào bốc cháy là của địch, chiếc nào còn nguyên vẹn là của ta, như vậy còn 4 chiến xa địch đã đầu hàng, nằm tại tuyến phòng thủ của ta, những chiến xa này không bị hư hại.

Tuy vậy địch vẫn chạy thoát 1 xe chỉ huy, Thượng Tá Trung Đoàn Trưởng chiến xa chạy thoát về tới La Vang và bị xử bắn ngay tại La Vang. Tài liệu này lấy được tại La Vang, khi tái chiếm Quảng Trị.

Chúng tôi gặp lại anh em trong Đoàn Song Kiếm, ai ai cũng hân hoan trước chiến công của mình, nhìn anh em tù binh đang lo sợ, cúi mặt không giám nhìn thẳng, tôi thầm nghĩ họ đâu biết được, là họ đã may mắn vô cùng, khi họ được anh em Mũ Đỏ bắt làm tù binh, mạng họ chắc chắn sống, họ sẽ không bị tra khảo, họ sẽ không bị ngược đãi, như các anh em của chúng ta, không may lọt vào tay địch, họ sẽ được giữ tại các trại tù binh chiến tranh, một ngày đẹp trời nào đó họ sẽ có cơ may gặp lại gia đình, sau này tất cả tù binh chiến tranh, đều được trao trả tù binh ngay trên bờ sông Thạch Hãn, Quảng Trị năm 1973; hay những địa điểm trao trả tù binh khác, như Lộc Ninh, Bình Long năm 1974.

Sau khi biết được tại sao chiến xa của địch cháy, chúng tôi thật vui, chúng tôi biết rằng kinh nghiệm này sẽ giúp cho anh em chúng tôi bớt đổ máu, chúng tôi đang vui như những ngày còn hẹn hò, bắt gặp một Mũ Đỏ trong đoàn Song Kiếm Trấn Ải mặt mũi vẫn còn lem luốc vì thuốc súng, đang mải mê biên thư, trông dáng điệu rất thư sinh, trẻ măng nên tôi dừng lại hỏi chuyện.

- Em biên thư cho ai đó? Tuy hỏi như vậy nhưng tôi cũng đoán được là biên thư cho ai rồi, tuổi còn nhỏ ngoài người yêu thì còn ai xứng đáng nhận được bức thư sau trận chiến, khi ngước mắt nhìn thấy tôi, anh vội vàng nghiêm chỉnh chào. Khuôn mặt còn rất non, anh lắp bắp không thành tiếng, tôi vịn vai thân mật bảo cứ ngồi xuống biên thư, nhưng anh vẫn đứng đó, mặt đỏ bừng:

- Dạ em biên thư ch... cho...
- Cho người yêu phải không?

- Dạ, anh ấp úng nhẹ nhàng đáp,
- Em sẽ nói gì với người yêu của em?

- Em sẽ nói em đụng trận với chiến xa địch...
- Em không sợ người yêu của em lo sợ hay sao? Vậy em có bắn cháy chiến xa nào hay không?

- Thưa các anh lớn dành hết nên em không bắn được chiếc nào cả, còn người yêu của em, cô ấy không sợ đâu đích thân, cô ấy rất hãnh diện là người yêu của Mũ Đỏ, cô ấy thích đội nón đỏ, nhưng em không giám cho cô ấy đội, cô ấy biết Mũ Đỏ là ở đâu cũng đánh trận mà, tôi mời anh điếu thuốc, tôi biết lúc này ai cũng đang thiếu thuốc, anh rụt rè đón nhận, nhìn mặt anh tân binh tôi biết anh còn trẻ lắm, tôi hỏi thăm ngay:
- Em đi lính được bao lâu rồi?

- Thưa em đi lính được hơn một năm rồi; tôi lấy làm lạ, như vậy không còn là tân binh nữa, đi lính hơn một năm rồi, một năm biết bao nhiêu lần chạm địch.
- Vậy sao? như vậy là em có tham dự trận Hạ Lào, trận Dambe và cả Charlie nữa?

- Em có tham dự trận Hạ Lào, trận Dambe em bị thương nên em không được tham dự trận Charlie.
- Bây giờ em đang mang cấp bậc gì?

- Em lên Hạ Sĩ rồi nhưng tụi nó cứ gọi em là Hạ Sĩ Sữa nên em không thèm mang lon.
- Năm nay em bao nhiêu tuổi rồi?

- Năm nay em mới có 17 tuổi, lúc em vào lính, em không đủ tuổi, em phải lấy giấy khai sinh của người anh của em, để đi lính, anh của em tên Nguyễn văn Trương, em tên Nguyễn văn Trường, nên không phải sửa gì cả, vì vậy năm nay em 20 tuổi rồi đó. Tôi liếc nhìn dòng chữ lớn trên bức thư dở dang, tay anh đang cầm; tôi tò mò hỏi:
- Tại sao em biên thư cho người yêu mà em lại viết Cây cà rem yêu quí ? Lúc này tuy anh rất bình tĩnh, nhưng Trường rụt rè không trả lời, mặt anh đỏ lên trông thật dễ thương, tò mò muốn biết sự thực vui vui này, nên tôi phải dụ,

- Này nói đi, anh sẽ tặng bao thuốc, Trường vui vẻ nhận lời,
- Thật không đích thân?

- Thật chứ.
- Này nhé... Trường cười hóm hỉnh rồi tiếp, Đích thân muốn ăn cà rem, cũng phải tay cầm lấy cây cà rem, rồi đưa lên miệng nhẹ nhàng thưởng thức hương thơm của cà rem, và vị ngọt dịu dàng của cà rem, em nghĩ đích thân cũng phải qua thời kỳ có người yêu như em, thì cũng tay ôm, miệng hôn để thưởng thức hương thơm từ miệng người yêu, kèm theo hương vị ngọt ngào, như em bây giờ, vì vậy em coi người yêu của em cũng như cây cà rem có khác gì đâu, phải không đích thân? Tôi thầm bái phục anh lính trẻ mà có tâm hồn rất ư là hồn nhiên, rất ư là lãng mạng, không thua gì các thi sĩ.

- Thế người yêu của em năm nay bao nhiêu tuổi rồi?
- Hồng năm nay 16 tuổi.

- Thế gia đình Hồng có ngăn cản cuộc tình của em hay không?
- Chúng em yêu nhau từ lúc em... mặc bộ đồ hoa nón Đỏ đi phép lần đầu tiên Hồng thấy em lớn hẳn ra, năm đó đúng ra em mới có 16 tuổi, Hồng thấy em mặc quân phục áo Hoa mũ Đỏ, Hồng thích em từ đó, gia đình Hồng chống đối dữ lắm.

- Thế trước đó em có biết Hồng hay chưa?
- Chúng em ở cùng xóm bàn cờ với nhau, nên chúng em trước đó cũng có quen biết nhau, tôi cảm ơn Trường đã kể cho nghe chuyện yêu đương của em, không quên đưa bao thuốc tặng Trường và rời vị trí TĐ11ND, Tôi còn muốn được nghe câu chuyện yêu đương của người lính trẻ, câu chuyện tình thật đẹp, nhưng thời gian không cho phép, rồi sau đó tôi không có dịp được gặp anh nữa, nhìn mọi người vui mừng vì đã trả được thù cho đơn vị, chúng tôi vui trong niềm vui chung đó.

Khi về tới Lữ Đoàn chúng tôi tới ngay các Pháo Đội, để được tận mắt nhìn thấy sinh hoạt của các Pháo Thủ, sau một đêm thi hành tác xạ yểm trợ không ngừng nghỉ, đó là lúc toán tiếp tế đạn bắt đầu hoạt động, từng chiếc xe đạn êm ả chạy vào vị trí pháo đội, địch không quan sát được cho nên không bị pháo kích, nếu lúc này một người lạ, dù là một quân nhân, hay thường dân đi lạc vào đây, quí vị phải vô cùng ngạc nhiên, không biết, đây là quân nhân thuộc binh chủng nào, quân nhân đến tiếp tế đạn ai cũng biết đó là, những quân nhân trong đoàn quân Mũ Đỏ, còn những ai kia vậy, quân phục mầu đen, mặt mày lem luốc, thưa không họ mặc áo hoa trên áo có huy hiệu đàng hoàng, nhưng bây giờ không ai còn thấy huy hiệu nữa, tất cả đều một mầu đen, mầu của khói súng, sau một thời gian dài tác xạ, khói súng đủ sức nhuộm mầu áo trận trở thành mầu đen bóng, đến áo lót của họ cũng trở thành mầu đen, chỉ còn hai con mắt tinh tường, nhưng cũng không còn nhanh nhẹn, sau một đêm thức trắng đêm, và nhiều đêm canh thức trước đó, bây giờ các Pháo Thủ Mũ Đỏ đã thấm mệt, nhưng đâu có được nghỉ, vì nhiệm vụ vẫn còn đòi hỏi họ phải chu toàn, sau một hồi tác xạ theo yêu cầu của Tiền Sát Viên, bây giờ sáng rồi địch quan sát được làn khói thuốc súng do bắn quá nhiều, những loạt đạn 130 ly ào ào đổ tới, ai giúp các pháo thủ, phản pháo bây giờ, thưa không có ai cả, vì không có Không Quân yểm trợ lúc này, mà pháo của ta thì ngoài tầm, đành nương theo khói đạn nổ của địch mà bắn yểm trợ cho quân bạn, các pháo thủ Mũ Đỏ dù nguy khốn như Hạ Lào, (vì đây chính là những pháo đội đã vào Hạ Lào rồi ra khỏi Hạ Lào) dù địch quân cố gắng diệt pháo của ta, các pháo thủ Mũ Đỏ cũng vẫn anh dũng tác xạ, dưới làn mưa pháo của địch quân, đã mang lấy nghiệp vào thân, làm sao ươn hèn cho được, dù rằng có khi không may, cả khẩu đội bị thương tích cùng một lúc; tiếng đạn rít trên không trung chúng tôi biết là địch pháo kích dài, đạn bay qua đầu, tiếng đạn pháo của địch nổ chát chúa bên phải và dài đối với pháo đội, chúng tôi hiểu ngay nãy giờ địch vẫn chưa pháo trúng chúng tôi, vì các pháo đội đã nương theo địa hình mà chiếm vị trí cho các khẩu đội, nên các đài quan sát của chúng không thấy được, chúng chỉ quan sát được khói súng và bắn để điều chỉnh trúng pháo đội của ta, khi chúng xác định được vị trí pháo của ta,vì đài quan sát của chúng tuy ở cao nhưng lại xa, trời buổi sáng vẫn còn chút sương rơi nên quan sát cũng khó mà chính xác cho được, bây giờ chỉ cần một sơ hở nhỏ trên vô tuyến là chết ngay với chúng, chúng sẽ khai thác ngay, chúng tôi biết như vậy, tôi liền lên tiếng than thở với Pháo đội là địch có đài quan sát nên nó quan sát chính xác quá, coi chừng bắn xong phải xuống hầm ngay, khai thác được sơ hở này, chúng bắn hiệu quả dồn dập ngay, chúng khôn nhưng không ngoan chút nào cả, chúng phải biết tôi làm sao sơ hở như vậy được, chúng rất rành giọng nói của tôi, chúng đã từng gọi tên và ngay cả chức vụ của tôi ra chúng chửi trên hệ thống Tác Xạ, chúng quên rằng chúng tôi được thụ huấn từ quân trường ra, chúng tôi đâu có được hân hạnh lên lon theo đảng tịch như chúng mà ngu dại như vậy; sau khi chúng pháo dồn dập tưởng rằng chúng tôi sẽ bị thiệt hại, những loạt đạn 130 ly đến tới tấp cách vị trí pháo đội trên 300 thước sai cả về hướng và cả về tầm, tôi la thất thanh trên hệ thống, cuống cuồng hỏi thiệt hại pháo đội, các pháo đội trưởng cũng vậy đâu có phải tay mơ mà nắm pháo đội, cũng trầy vi tróc vảy mới leo lên được chức vụ này, pháo đội trưởng hiểu ý ngay báo cáo thiệt hại nửa kín nửa hở, chúng tôi tin chắc là chúng sẽ mừng lắm, thất bại bộ binh chiến xa, nhưng gỡ lại được pháo binh chăng? Rồi chúng đâu có tha, chúng pháo dồn dập yếu tố có sẵn làm chúng tôi nhìn nhau cười, đó là lúc chúng tôi đang đứng bên nhau, bàn định chương trình vượt tuyến Mỹ Chánh nay mai, chúng tôi đang chờ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù ra đầy đủ là chúng tôi sẽ vượt tuyến Mỹ Chánh hỏi thăm chúng, đáp lễ cho đúng phép xã giao, hôm nay chúng đến đây hỏi thăm Song Kiếm Trấn Ải, chúng tôi sẽ hỏi thăm thật tận tình, chúng tôi không hẹp hòi gì mà không đưa cho chúng thật hậu hỹ quà cáp, hãy chờ quà xã giao của Mũ Đỏ.

Song Kiếm Trấn Ải đã rửa được hận Charlie, bằng một trung đoàn chiến xa và một trung đoàn bộ binh địch, TĐ11ND rửa hận dễ dàng như vậy là do tất cả quân nhân trong tiểu đoàn, một lòng một dạ như nhau, chuẩn bị chiến trường, bắt địch phải tiến quân theo ý ta, bắt địch phải đón nhận những trận đòn theo ý của ta, nói cho minh bạch hơn là do tài trí của các cấp chỉ huy, từ tiểu đội cho đến tiểu đoàn, chúng ta chiến thắng không bằng lấy thịt đè người, không bằng lấy hỏa lực để tiêu diệt chúng, chúng ta chiến thắng bởi những bộ óc tinh khôn, sáng suốt, nên chiến thắng trong vinh quang, không bằng đau thương cho thuộc cấp.

Vì quen ăn cua rang muối nên khi đánh ra La Vang TĐ11ND lại rang thêm một số cua sắt nữa chính vì vậy tết Quý Sửu Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù hân hạnh đón nhận quà của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, một số hiện kim và bằng tưởng thưởng ghi danh TĐ11ND là đơn vị diệt chiến xa số 1 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và cũng là để đoàn quân Mũ Đỏ chuẩn bị vượt sông Mỹ Chánh trong nay mai...

Trần Văn Lý
____________________ ____________________ _______

Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù

Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù được chính thức thành lập ngày 1 tháng 12 năm 1967 do Thiếu tá Nguyễn Viết Cần làm Tiểu Đoàn Trưởng đầu tiên tại Sài Gòn với huy hiệu Song Kiếm Trấn Ải và nằm trong hệ thống chỉ huy chiến thuật của Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù. Bản doanh của Tiểu Đoàn 11 là Trại Nguyễn Huệ trên đồi Tăng Nhơn Phú, Thủ Ðức. Cũng như các đơn vị Nhảy Dù kỳ cựu khác, sau khi thành lập và trải qua giai đoạn huấn luyện chiến thuật tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Vạn Kiếp tại Bà Rịa, đơn vị này đã được đưa ngay vào chiến trường đang sôi động khắp các mật trận và khắp bốn vùng chiến thuật với nhiệm vụ bảo quốc an dân.

Những trận đánh đáng ghi nhớ của TĐ11ND:

– Ngày 29-1-1968 Tết Mậu Thân, ngay đêm giao thừa trong lúc đang thụ huấn tại TTHL Vạn Kiếp chưa làm lễ xuất quân, TĐ11ND đã đánh tan một đơn vị tinh nhuệ cấp Trung Đoàn của VC tấn công vào quân trường này…

– Ngày 5-2-1971 TĐ11ND do Trung tá Ngô Lê Tỉnh làm Tiểu Đoàn Trưởng được không vận đến Đông Hà Quảng Trị để chuẩn bị tham gia cuộc Hành Quân Hạ Lào Lam Sơn 719.

– 12 giờ trưa ngày 8-2-1971, TÐ11ND được trực thăng vận thả xuống tại một địa điểm được chỉ định nằm cạnh QL9 và cách biên giới Lào-Việt khoảng 5km để thiết lập căn cứ hỏa lực Bravo yểm trợ cho cuộc tiến quân sang Lào.

– Ngày 4-4-1971, TĐ11ND do Trung tá Ngô Lê Tỉnh chỉ huy cùng toàn thể LĐ2ND được không vận lên Pleiku từ phi trường Đông Hà bằng phi cơ C141 của Hoa Kỳ tăng phái cho Sư Đoàn 22 Bộ Binh để mở cuộc Hành Quân Quang Trung 22/2 giải tỏa áp lực địch quân quanh Căn Cứ 6 ở Kontum.

– Ngày 25-3-1972 Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù do Trung tá Nguyễn Đình Bảo làm Tiểu Đoàn Trưởng vừa từ Sài Gòn ra Quân Khu II được trực thăng vận đổ ngay vào căn cứ Charlie thay thế TĐ2ND trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa tại mặt trận Tây Nguyên. Ngày 12-4-1972 khoảng 11 giờ trưa đạn pháo của địch quân đã đánh trúng vào hầm Trung Tâm Hành Quân của Tiểu Đoàn và Trung tá Nguyễn Đình Bảo đã bị tử thương.

– Ngày 8-5-1972, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù do Thiếu tá Lê Văn Mễ làm TĐT, từ mặt trận Tây Nguyên được không vận đến Huế tăng viện cho mặt trận QKI, ngay khi vừa đến Huế thì nhận được lệnh tái chiếm phía Nam sông Mỹ Chánh.

– Ngày 2 và 3 tháng 6/1972 Tiểu Đoàn 11 đã giao tranh dữ dội với Trung Đoàn 66 CSBV có chiến xa yểm trợ tại bờ Nam sông Mỹ Chánh. TĐ11 đã tiêu diệt hằng trăm quân CS bỏ xác tại trận, bắn cháy 19 chiến xa đủ loại và bắt sống 9 chiến xa khác.

– Ngày 2-7-1972, trong chiến dich Lôi Phong tái chiếm tỉnh Quảng Trị, TÐ11ND do Thiếu tá Lê Văn Mễ TÐT được trực thăng vận đổ xuống phía Bắc Sông Nhung dưới ánh nắng oi bức của mùa Hè đổ lửa làm trục chính cuộc tiến quân của Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù do Đại tá Trần Quốc Lịch chỉ huy, từ Hải Lâm tiến chiếm mục tiêu là nhà thờ La Vang.

– Ngày 4-4-1975 Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù do Thiếu tá Nguyễn Văn Thành TĐT, TT Nguyễn Văn Giới TĐP được lệnh khẩn cấp lên đường ra Phan Rang bằng phi cơ C130 và C119 với nhiệm vụ bảo vệ phòng tuyến Phan Rang.

Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù:
1. Thiếu tá Nguyễn Viết Cần (1967-1969) từ ngày thành lập đến năm 1969 thuyên chuyển về SĐ21BB.
2. Thiếu tá Ngô Lê Tỉnh (1969-5/1971) thay thế Trung tá Nguyễn Viết Cần đến sau trận giải tỏa căn cứ 6 Kontum.
3. Trung tá Nguyễn Ðình Bảo (5/1971 – 12-4-1972) thay thế Trung tá Ngô Lê Tỉnh sau trận đánh tại Căn Cứ 6 cho đến khi tử trận tại đồi Charlie.
4. Thiếu tá Lê Văn Mễ (12-4-1972-11/1972) thay thế Trung tá Nguyễn Đình Bảo tại đồi Charlie đến tháng 11/1974.
5. Thiếu tá Nguyễn Văn Thành (1974 – 16-4-1975) thay thế Trung tá Lê Văn Mễ từ tháng 11/1972 đến ngày 16-4-1975.

Hiệu kỳ của TĐ11ND được mang giây biểu chương màu Bảo Quốc huân chương đỏ chấm vàng với thành quả 6 lần tuyên dương trước Quân Đội.

Tài liệu tham khảo:
– Insignia of The Republic Of VietNam Airborne Division copyright @ 2002 by Harry F. Pugh.
– Phỏng vấn trực tiếp một số chiến hữu và Niên trưởng trong SĐND.

Đại Úy Võ Trung Tín - Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
Đại Úy Nguyễn Hữu Viên - Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-897-1435
Email: pvotin@gmail.com
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	96260.2td11.jpg
Views:	0
Size:	68.2 KB
ID:	1748665 Click image for larger version

Name:	96261.1td11.jpg
Views:	0
Size:	68.6 KB
ID:	1748666 Click image for larger version

Name:	96263.phuhieutd11nd.png
Views:	0
Size:	128.7 KB
ID:	1748667
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (03-01-2021), huudangdo1 (03-01-2021)
Old 03-06-2021   #671
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,388
Thanks: 21,683
Thanked 38,136 Times in 12,871 Posts
Mentioned: 635 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7243 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default KingBee PĐ219 và Lôi Hổ Nguyễn Cao Vỹ



Trong cái gọi là “Chiến tranh ngoại lệ”. Sự cải danh xưng là điều cần thiết … Từ những trại được gọi là FOB (Tiền doanh) đến CCN (Nhân viên kiểm soát Bắc) và nay cải danh là TF1AE (Lực lượng Đặc nhiệm 1). Người Mỹ bắt đầu chuyển giao phần nào lực lượng cho Nha-kỹ-thuật. Đơn vị phụ trách tình báo quân sự chiến lược của QLVNCH. Hai toán Thám-sát đầu tiên Thăng-long và Bắc bình. Nay thêm bốn toán nữa được chuyển giao với tên gọi mới là Hải-điểu, Hải-sơn, Hải-long, Hải-yến, Hải-sư, Hải-vân… Đại-đội B người Thượng cũng được chuyển giao. Trại còn lại hai mươi lăm toán thám sát và Đại đội A (Người Nùng và Miên) Vẫn do người Mỹ trực tiếp chỉ huy…Toán tôi Thăng-long được bổ sung quân số và đổi tên thành Hải-sơn. Thiếu úy Bửu Chính đi Kontum nhận lãnh nhiệm vụ mới. Thiếu úy Phạm ngọc Điệp thay thế làm toán trưởng, Trung sĩ Trần Quang, toán phó cùng sáu Biệt kích Quân (Special Commando Unit)…

Toán chúng tôi được lệnh về Long thành (Trung-tâm-huấn-luyện Biệt Kích) thụ huấn khóa Nhẩy dù. Năm ngày phép sau khóa học Nhẩy dù. Sàigòn với những đường phố hoa lệ. Cái sang trọng từ mọi nơi…Khách sạn, quán xá, cà phê, nhà hàng, rạp hát.v.v. Thảy đều mang tính khác thường. Chúng tôi như choáng ngợp bời sự sa hoa, sắc mầu…Giao kết mỗi người 5,000 đồng cho năm ngày phép (giá trị bằng một tháng lương người lính quân dịch độc thân). Tám người trong toán. Như những anh Mán rừng lên tỉnh, cuộc chơi cũng chỉ ở cấp xã vì túi tiền có hạn. Nguyễn duy Châu luôn phải tính toán trước những đề nghị này kia… Từ những nơi xa lạ, tụ nhau trong một nhà và cùng nhau chơi một trò chơi tạm gọi là cuộc đời… Ngày mai sẽ ra sao, ai biết?. Cuộc sống này về đâu?. Ai biết và tương lai nào cho ta… Mù mịt, chẳng cần biết!? Những con bạc cuộc đời vẫn dửng dưng chạy theo số phận. sống không cần ngày mai. Chết là cõi đi về… Cái khóa nào của thân phận con người… Ôi chỉ có Thượng-đế biết ! Ta chỉ là sản phẩm của Chúa… Vậy tùy vào cuộc chơi của Chúa… Trong chiến tranh quả thực nó đẻ ra lắm thứ đời thường. Đứa bé tập đi muốn vững chãi phải té ngã nhiều lần…Tới đây, an ủi một điều cái té của cuộc đời hôm nay sẽ mang lại kết quả tốt đẹp cho ngày mai. Năm ngày phép cho những đêm tình tạm bợ, bia bọt thâu đêm, suốt sáng. Cái thứ mùi son phấn, bia men hiển nhiên không thể thiếu. Nó như tô điểm đậm nét hay là gia vị của cái chơi mà theo sau phải là chữ bời. Những ngày phép qua mau, trình diện trả phép tại Sở liên lạc (Đơn vị chỉ huy) Nằm sát bên Sân vận động Quân-đội… Khoảng mười giờ sáng. Leo lên chiếc C123 (Blackbird) về lại Đà Nẵng.

Tiếp theo sau những ngày tháng của đời lính Biệt-kích. Hết huấn luyện rồi lại hành quân. Chương trình hoạch định và chỉ huy vẫn trực tiếp do người Mỹ đảm nhiệm…Toán Hải-điểu ở sát cạnh toán tôi vừa phải bổ sung. Chuyến xâm nhập vừa qua bốn chết một bị thương. Toán trưởng Thiếu úy Nguyễn Dứa tử trận. Cũng may toán bị địch theo dõi và tấn công ngay trên bãi đáp triệt xuất. Đoàn trực thăng rước toán can thiệp kịp thời. Bốc được toàn bộ toán về.

Đêm nay, từ khu cấm (Isolation). Toán chúng tôi được đưa ra phi trường Đà-nẵng. Trời lạnh lẽo, tay da xe lại, môi nứt nẻ. Chiếc C130 của Thủy-quân-lục-chiến Mỹ đang đợi. Cùng đi có một Trung đội Thám báo Mỹ. Yên vị trên máy bay, nhìn những ánh mắt của các binh sĩ Mỹ vẻ ngạc nhiên, thèm thuồng, nể nang trước sự trang bị hành quân của chúng tôi. Nhất là chỉ với bốn người… Họ cứ nhìn chăm chăm vào những cây súng Car 15 hay dây đai câu, găng tay đen…Đặc biệt không nón sắt. Trong quân đội họ biết chúng tôi đang phải thi hành nhiệm vụ hiển nhiên là trên mọi người lính… Máy bay đáp xuống phi trường, đồng hồ chỉ ba giờ sáng. Xe đón chúng tôi đến Căn cứ xuất phát 1 - Phú Bài. Đã ba ngày qua, nằm chờ thời tiết. Những chiếc Kingbee cứ sáng đến chiều về… Hôm nay trời hênh nắng, nhưng gió lạnh vẫn buốt da thịt. Thiếu Tá Phát (Vương vĩnh Phát) Sĩ quan điều nghiên không thám, đến gọi Thiếu úy Điệp và Trung sĩ Quang lên phòng thuyết trình Không Quân.

Do tính đặc biệt của mục tiêu, toán được khuyến khích đi bốn người, tuy ít nhưng êm ả, dễ lẩn trốn… Nhiệm vụ chính thám sát và phát hiện chỗ đặt khẩu phòng không loại mới nhất 100 ly mà cả đến F4 hay F100 cũng phải kiêng dè… Điều đáng nói là sau bao lần không kich. Khẩu phòng không ấy vẫn bình thường hoạt động lúc ẩn lúc hiện… Theo thuyết trình sáu chiếc Kingbee sẽ đưa chúng tôi bốn người vào mục tiêu. Sáu chiếc Kingbee sẽ đáp đất bằng sáu bãi khác nhau. Chỉ có một chiếc là thực sự có toán nhẩy…Covey chiếc OV10 đã bao vùng từ sáng. Báo về thời tiết đã cho phép. Sáu chiếc KingBee nổ máy, trong lúc hai Cobra và hai Huey Gunship đang vòng chờ phối hợp… Gio lạnh và sương găng bay tạt vào khung cửa, trực thăng lên cao, những đám mây trắng loang lổ dưới kia, ánh nắng chả đủ sức sua đi cái lạnh và mây mù bay lãng đãng…Núi cao sừng sững trước mặt. Dãy Trường sơn xanh thẵm, phía tà, phía hữu, núi nối nhau chạy dài không dứt…Băng qua và bỏ lại rặng núi cao. Trực thăng đang trên lãnh thổ nước Lào. Covey và bốn trực thăng võ trang đang bay tầm thấp. Sáu chiếc KingBee dần xuống quần đảo xác định bãi thả, mây mù bay bay loang loáng dưới ánh nắng yếu lan tỏa khắp núi rừng… Trực thăng võ trang không dọn bãi như thường lệ mà chỉ vòng ứng chiến phía trên. Hai chiếc Kingbee tách ngang đáp dần xuống đất và cứ thế tuần tự, sáu trực thăng đã đáp sáu nơi an toàn…Chiếc chở toán tôi xuống áp chót, đổ chúng tôi sát bìa rừng…Chỉ tích tắc toán đã biến vào rừng… Di chuyển thật nhanh, tôi gọi điện báo an toàn.

Núi rừng trở lại cái bình thường của nó, lạnh lẽo âm u đến khó chịu. Băng ngang con suối thấy toàn đá. Những chú cá thập thò kẽ đá nhìn chúng tôi xa lạ. Khu rừng rậm rạp cây cao… Châu dẫn đầu cứ phải lum khum tìm đường. Muỗi vo ve đâm sầm cả vào mặt, dưới chân đàn vắt uốn éo tìm mồi. Thoa vội thuốc trừ muỗi vào mặt, cổ và tay. Toán tạm nghỉ chốc lát… Một tiếng súng nổ chát chúa thật gần đã làm chúng tôi giật bắn người. Đứng lên tẽ sang hướng khác, di chuyển chậm, dò từng bước… Địch đang truyền tin và kiếm tìm từ bãi đáp xâm nhập chăng? Băng nhanh qua con đường rộng khoảng hai mét, nhìn dấu chân trượt mới mẻ, tôi rợn cả người…Có tiếng ai đó húng hắng ho sau lưng. Tôi bảo Trung sĩ Quang gài lại trái mìn M14 để xem có phải bị theo dõi rồi hay không và ra dấu đi thật nhanh tránh nơi nguy hiểm này. Vẻ yên ắng, an tâm phần nào bên gốc cây để ăn trưa. Địa thế không mấy rậm rạp, đủ che chắn, tầm nhìn tốt lý tưởng cho hành quân thám sát và tác chiến. Thiếu úy Điệp đang căn lại bản đồ, đánh dấu vị trí trái mìn M14 để báo cáo… Có thể toán chưa bị lộ tung tích. Vì nếu địch theo dấu di chuyển của chúng tôi ắt hẳn mìn phải nổ. Vội vàng di chuyển sau ăn trưa, toán tiến dần vào mục tiêu qua đi những đường mòn chằng chịt, lúc hướng này lúc hướng kia. Mọi sự đều suông sẻ, ánh mặt trời đã bị mây mù che khuất. Để ý thấy một địa điểm thuận tiện ra dấu hiệu cho máy bay. Toán dừng lại, chờ đêm tối. Có tiếng hú đáp lại sau tiếng hú gần đây ngân dài. Trong ánh sáng lờ mờ lành lạnh… Một hồi lâu ngồi nghe ngóng… Trung sĩ Quang gài trái Claymore phòng thủ. Trời đêm đen kịt, không trăng sao, chỉ còn tiếng thú rừng kêu, hú thênh thang, diệu vợi. Cảm tưởng như ở chốn ma quái, âm ty… Qua làn gió buốt lạnh, thu mình vào cái áo đi mưa, cố dỗ dành giấc ngủ.

Thức dậy vào lúc trời còn tối đen, tiếng gà gáy dồn dập, nhìn đồng hồ mới năm giờ sáng, nằm im bất động, suy tính việc ngày mới… Đúng kế hoạch hành quân. Sáng nay một cuộc không kích vào mục tiêu rồi tạo dựng giả định bốc toán ra khỏi khu vực, cốt để đánh lừa địch. Mặt trời đỏ lừ từ từ leo lên đỉnh núi. Bầu trời bỗng quang đãng, những đám mây đen nhỏ như vẩy con tê tê. Ca nước sôi cũng vừa nấu xong được đổ vào hai bịch gạo sấy, thêm ít nước lạnh cho vừa. Rồi ca cà phê thơm phức và một điếu Capstan cho phép… Tôi như quên đi thực trạng trong tiếng chim lao sao mừng ngày nắng mới. Đàn khỉ the thé, khịt khịt đuổi nhau trên cành cây. Ngay bên dưới một con trăn to lớn dài ngoằng cố leo lên cành cây to, hướng về đàn khỉ trên cao… Tháo trái Claymore phòng thủ. Toán di chuyển … Tiếng ì ì quen thuộc của Covey nghe rõ dần. Thiếu tá Phát đang gọi toán, tôi trả lời và chuyển ngay bức điện báo cáo tình hình… Hai chiếc F100 Super Sabres bay vòng gầm gừ trên cao. Covey gọi toán và xin mở cửa sổ (ý muốn thấy vị trí toán). Ra dấu cho Trung sĩ Quang, hắn bắt đầu chiếu gương. mặt trời chếch ngang mặt, cố gắng lẩn tránh những đụn mây đen lì lợm. Ngọn núi cao phía đông, đỉnh chỏm trắng xóa mây mù bấu chặt, chỉ cách ánh mặt trời trong gang tấc.

– Tango echo đây papa kilo thấy vị trí của bạn rồi, mục tiêu hướng bắc cách khoảng 1000 mét. Yên tâm, chúng tôi bắt đầu vũ điệu Disco.

Toán di chuyển trong tiếng bom đạn dậy đất trời, đợt tấn công thứ ba của máy bay chúng tôi đã nghe tiếng phòng không… Tiếng nổ chắc đục cách bắn như dè dặt sợ tốn đạn và có âm vang xa rộng. Chiếc Covey bay cao nhưng chậm chắc chắn là đang cố sức phát hiện mọi hoạt động của địch. Tôi báo cáo đã nghe tiếng phòng không nhập trận ngay tại vị trí đang oanh kích. Khu rừng tre hiện ra trước mặt. Xẹt qua đầu chúng tôi. Chiếc F100 cắt một lúc ba trái bom. Có lẽ hắn đã thấy được mục tiêu phòng không… Trên cao hai viên đạn xanh chỉ điểm đang vút lên máy bay. Một tiếng nổ ầm của động cơ phản lực, chiếc F100 tăng tốc vút thẳng lên cao. Những tiếng nổ rung rinh mặt đất…Châu đang so lại địa bàn bởi phải tránh những bụi gai dầy đặc. Thiếu úy Điệp đưa tay chỉ những mụt măng be bét trong bụi tre. Tôi cười lắc tay không sao đó là thú rừng. Còn nếu là người bẻ thì bằng bặn và gọn ghẽ. Qua khỏi được khu rừng tre, tiếp đến những gốc chuối chen nhau với cây rừng. Một cây cổ thụ to lớn dễ chừng phải vài người ôm mới hết vòng, tỏa những dây leo chằng chịt xuống tận gốc…Từ ngọn cây lao xao tiếng chim ca hót và trên cành cây lũ khỉ thi nhau chuyền cành. Hai chiếc F100 đã xong nhiệm vụ, trả lại yên tĩnh cho núi rừng, chỉ còn thi thoảng tiếng súng báo hiệu hay liên lạc của địch quanh đây. Âm thanh quen thuộc của Covey đang trở lại. Tiếng trực thăng khiêm tốn theo sau…Giai đoạn hai sắp được thực hiện. Ngồi nghỉ chúng tôi binh thản xem tuồng…Phút chốc đoàn trực thăng đã ở trên đầu. Hai chiếc Huey Gunship và bốn chiếc UH1 Huey được biệt phái từ Không quân Mỹ, dáng bè to, thấp sơn mầu ghi đậm truyền thống Không quân.Trận xạ kích bắt đầu rocket, tiếp sau khẩu 20 ly nổ dòn vào vị trí mà hôm qua chúng tôi xâm nhập. Sau đợt xạ kích thứ ba, một chiếc Huey tách đàn lao xuống. Hỏa lực trên Gunship hộ tống vãi đạn như mưa…Bằng suy đoán, theo tiếng trực thăng mà khi thấy khi không, diễn tiến tuần tự như quen thuộc và hình ảnh hiện lên trong trí chẳng mấy khác với tận mắt chứng kiến…Trực thăng đang dần lên trông thấy rõ bốn Biệt kích đang tòn teng trên dây câu. Gunship thứ hai đang đổ xuống những thép và lửa cùng tiếng phóng rocket xèn xẹt… Bốn Biệt kích đã an toàn trên cao. Đoàn trực thăng đang lập đội hình để bay về căn cứ với bốn Biệt kích… Bằng hình nộm… Chắc chắn họ sẽ mang cất lại vào trong kho… Chúng tôi nghe thấy xung quanh súng bắn truyền tin cùng lúc của địch…Kế nghi binh đã có hiệu quả. Địa thế hiểm trở bởi đá và dốc dưới những tàn cây cao xòe rộng, đường di chuyển mỗi lúc một lên cao làm trì nặng đôi chân, mặt trời vào trưa, ánh sáng chỉ đủ xuyên qua kẽ lá bởi làn gió lay động trên tàn cây, tạo sự lung linh, lấp lánh. Lẫn trong cái không gian mờ ảo ấy là những làn gió lạnh buốt từ dẫy đồi thấp thoai thoải chạy dài xa tít dưới chân… Một bóng mây đen xuất hiện di động dần lên in trên tầng cây xanh thẫm từ phía đồi ngang bên. Trung sĩ Quang thay Châu đi đầu, bốn đứa tôi lặng lẽ tựa bóng ma trơi di động trong cái âm u, tĩnh lặng quanh âm thanh huyền ảo của núi rừng. Trung sĩ Quang đưa tay ra dấu ngừng lại. Tiếng người ho nghe một rõ, rồi tiếng trò chuyện dần đi lên. Bây giờ đã nghe rõ bước chân “Này Thái, câu gì mà cậu vẫn thường ngâm của ông Quang-Dũng, tớ nghe hay lạ ngâm lại đi cho tớ nhớ…”

Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm



Tiếng ngâm trầm buồn, cảm xúc…Tại nơi hiu quạnh này, chúng tôi nghe không phải chỉ một lần, nhưng ba lần ngâm lại trầm bổng, nhỏ dần theo bước chân, gío chen vào, tiếng núi rừng hào nhịp vào mộng mơ đời thường. Cái sự buồn uể oải trong chất giọng gần như vuột khỏi ước mơ…Xem ra chỉ còn sự tẽn tò…Nuốt nước miếng!

Sau khi hội ý, toán quyết định lên thám sát con đường. Thiếu úy Điệp và tôi nhẹ nhàng tiến lên, được khoảng bốn, năm mét một con đường quá là rộng ập vào mắt. Lá cây rừng không phủ hết được mặt đường, dấu vết bánh xe đạp và dấu chân đi dép ấn xâu xuống mặt đường còn in rõ… Điệp lấy vội máy ảnh ra chụp… Rút về, bàn tính, không còn cách nào khác sau khi đã căn lại bản đồ. Toán vượt qua con đường. Ngồi nghỉ mệt bên tảng đá, có tiếng hú sau lưng từ con đường cất lên, theo sau là những lao xao tiếng người nói cười đùa giỡn… Nắng quá trưa tự dưng in rõ trên tàn cây cao rậm, phút chốc tắt đi trả lại mầu xanh đen thẫm, bên dưới đồi một làn mây trắng mỏng như cố nhô lên…Nghĩ bụng càng nhanh càng tốt chúng tôi vội rời xa con đường. Súng địch bắn báo hiệu cho nhau âm vang hẳn núi rừng… Một áp lực đang đè nặng mà chả ai bảo ai đều thể hiện trên gương mặt. Toán cố di chuyển thật êm cả buổi chiều bằng sự cẩn thận, trong trạng thái bất an, nôn nóng. Trời tối mờ mờ, chúng tôi ngồi ăn cơm và nghe động tĩnh. Thấy êm, di chuyển kiếm chỗ ngủ đêm quanh một tảng đá. Trung sĩ Quang đã gài xong trái mìn Claymore, cũng là lúc bóng đêm bao trùm. Bôi thêm thuốc trừ muỗi, quanh đây chỉ còn tiếng côn trùng và tiếng thú từ xa vọng lại… Kéo áo đi mưa đắp lên người tôi cố để đi vào giấc ngủ bằng hình dung bầu trời xanh ngắt, cao tít ngàn sao…Trước lúc ngủ, nghe thấy quanh đây có tiếng trở mình ,thở dài… Một con chim lợn đi ăn đêm, tiếng kêu thê lương. Thức dậy vào lúc trời còn tối, duỗi chân cho đỡ mỏi rồi nằm nghe gà gáy. Một làn gió đưa cái lạnh ập đến, bất giác rùng mình. Trong cái tỉnh lặng đen như mực bao quanh, tự nhiên tôi co người lại tay cố kéo đắp chặt thêm chiếc áo mưa, giật mình vì tiếng cười như ma trêu phát ra từ chỗ ngủ của Châu, tức mình tôi chép miệng ” Mẹ lại mơ thấy con ghệ nào rổi “Âm thanh tiếng cười như xoáy vào khoảng không rồi dội lại tạo một nỗi kinh dị trong trí mà tôi muốn thu xâu dán người sát đất… Đã có tiếng cựa mình thức giấc của đồng đội và tiếng Quang lầm bầm “Đù mẹ, ngủ cười chi rứa…” Theo sau là cái đá chân… Thêm một tiếng ú ớ nữa Châu mới tỉnh bật dậy. Cảnh vật mờ mờ rồi rõ hẳn, phút chốc tạm quên những suy nghĩ vẩn vơ. mọi người lục đục đun nước chế vào bịch gạo ăn trong ngày xong pha cà phê…Hút thuốc trong áo mưa trùm sát đất… Trung sĩ Quang vừa tháo xong trái mìn Claymore. Điệp đưa bức điện tin cho tôi và đang cùng Châu tính hướng đi. Tôi nhắc Quang nhớ gài lại hai trái mìn M14 trước khi di chuyển để chống theo dõi… Toán lên đường cũng vào lúc mặt trời lú lên đỉnh núi mờ từ xa…

Máy bay đã lên bao vùng, tiếng động cơ quen thuộc từ hướng đông vọng lại. Tôi bật máy chờ đợi. Tiếng gọi từ Covey vang trong máy… Đại úy Vỹ (Nguyễn-cao-Vỹ) trên phi cơ. Chuyển ngay bức điện. Toán chúng tôi ngồi chờ lệnh. Tiếng súng nổ phát một tứ phía truyền tin cho nhau… Đáng chú ý là hướng mà toán dự định đi tới. Tiếng gọi của Đại Úy Vỹ lại vang lên. Tôi nhận bức điện và chuyển ngay cho mọi người “Tiếp tục nhiệm vụ thám sát, yên tâm máy bay ứng chiến 100%” Vậy là đề nghị oanh kích đã không được chấp nhận… Chiếc Covey đã bao vùng khác, tiếng động cơ nghe rất nhỏ. Toán tiếp tục vào mục tiêu… Đàn chim bay xà xuống rượt đuổi nhau rồi lại vút lên cao. Đường dốc và đá lởm chởm đã làm sự di chuyển thêm khó khăn. Lắng tai nghe, gần như có tiếng động cơ xe chạy phía sau. Thiếu úy Điệp ra lệnh dừng lại để nghe ngóng lượng tình hình. Qủa đúng, tiếng động cơ mỗi lúc một rõ. Một tiếng gầm rú như xe đang lên dốc mà chở nặng… Ngồi bất động bên một gốc cây, chúng tôi im lìm chờ đợi tình hình… Chính xác là trên con đường hôm qua. Địch đang gọi nhau, lao xao bên cạnh tiếng ì ì nặng nề của xe. Con đường nghe ngâm thơ ngày hôm qua, giờ đang náo nhiệt. Vẻ chậm chạp di chuyển của địch làm chúng tôi sốt ruột…Ánh sáng từ cao chiếu xẹt tia nắng bởi luồng gió lốc ào ào trên tàn cây. Toán quyết định trụ lại để xem chừng hướng đi tới của đoàn xe địch. Tiếng xe và tiếng người mỗi lúc càng gần như sắp đâm thẳng vào chúng tôi. Con đường cong vòng ra sườn núi. Thấp thoáng đã thấy cành lá di động theo tiếng xe. Mọi cặp mắt chúng tôi chăm chú theo dõi và rồi đến một khoảng cây thưa thấp. Mầu áo xanh bộ đội hòa cùng cây lá như bóng âm binh nhảy múa. Chúng tôi giật mình vì đang ở sát bên con đường mà không biết… Hai chiếc xe đã đi qua và đang có vẻ lại lên dốc hòa lẫn tiếng hò dô như người đang trợ lực cho xe. Thiếu úy Điệp đang ghi chú trên bản đồ đánh dấu vị trí con đường. Tiếp tục di chuyển trong tiếng xe nhỏ dần…

Một con đường vận chuyển ngang sườn núi hướng Nam Bắc, chân bước mà lòng cứ mãi nghĩ và đặt ra nhiều giả thuyết… Áp lực thật nặng nề, bởi lâu lâu tiếng người hú gọi nhau… Mạn rừng này dễ di chuyển, nhưng khó thở… Một con chim xà xuống tíu tít liên hồi như gặp gì cấp bách. Châu và Điệp cùng ngồi xuống tay ra hiệu dừng lại. Tiếng người ho… Đúng như dự đoán, con chim trên cành gặp khách lạ. Một giọng người cất lên trong hai tay để sát miệng làm loa “Hú hú Mấm ơi, về ăn cơm” và rồi lại quay sang hướng khác lập lại, giọng đi về phía trước. Tiến thoái lưỡng nan… Bên đông là con đường xe, bên tây là địch…Chỉ còn liều mạng tiến lên. Tôi ra dấu ở đây nguy hiểm rồi phất tay đi về phía trước. Đường đi bị chắn ngang bằng những tảng đá to lớn dị thường cao bằng nóc nhà… Như lạc vào mê cung, toán dừng lại quan sát động tĩnh. vẻ yên lặng giờ này nghe rõ tiếng thở của bốn người. Một hồi kẻng vang lên không xa, rồi tiếng người lao xao nói cười. Tôi bảo Điệp soạn ngay bức điện báo tình hình và yêu cầu oanh kích… Nhìn địa thế nơi đây chiến đấu tốt. Tôi bật máy liên lạc Covey… Gọi đến năm sáu lần, tiếng Covey trả lời có vẻ hơi yếu, có lẽ đang bao vùng ở xa. Tôi chuyển bức điện yêu cầu rồi chờ đợi… Ăn vội bữa cơm, bên dưới kia tiếng lao xao không dứt như càng lúc tụ hội càng đông. Lại tiếng kẻng vang lên theo sau tiếng hô gì đó… Tình hình lúc này, chúng tôi có vẻ quen dần, không còn sợ để đổ mồi hôi như trước… Nửa tiếng trôi mau, trong máy Covey đang gọi. Tôi trả lời và nhận ngay một điện tin… Điệp đang dịch lại bằng khóa mật mã… Lời yêu cầu được chấp nhận. Toán chuẩn bị mục tiêu oanh kích trong thời gian ba mươi phút nữa… Thế có nghĩa là sự phối kiểm tin tức tức tại Trung-tâm hành-quân… Tin giữa toán và các máy từ Trung-tâm tác-chiến điện tử phù hợp nhau… Toán di chuyển nhanh tìm địa điểm thích hợp. Hai chiếc F4 đang bay vòng trên cao cũng là lúc chúng tôi có được địa điểm chiến đấu tốt và dễ dàng ra hiệu cho máy bay. Chiếc Covey đang bay trên đầu gọi toán xin mở cửa sổ. Tôi ra hiệu cho Điệp… Ánh sáng chiếu thẳng từ gương lên máy bay.

– Indian Alpha (tên toán) Tôi thấy bạn rõ, xin cho ngay mục tiêu.
– Kilo hotel (tên Covey) đây Indian Alpha. Mục tiêu hướng Tây cách chúng tôi ba trăm mét.

– Indian alpha, hãy cho tôi biết đã đúng mục tiêu chưa?

Covey xà xuống trái rocket được bắn ra và một cột khói trắng bốc lên. Máy bay đang nghiên lao vút lên…Tiếng lao xao của một số đông người kèm theo tiếng kẻng đánh gấp rút, người ta đang hú gọi nhau cùng lúc những đàn chim bay táo tác tìm chỗ ẩn.

– Kilo hotel, kéo về hướng đông một trăm mét.

– OK Indian alpha, ẩn núp cho kỹ, mục tiêu rất gần với anh… Cho panel đỏ hồng.
– OK Kilo hotel, xin cho tác chiên, toán sẵn sàng, đã có panel theo yêu cầu.

Covey bắn trái rocket thứ hai, tiếp ngay sau chiếc F4 lao xuống gầm thét loạt đại bác và cắt một lúc hai trái bom. Kinh thiên động địa, tiếng nổ tạo chấn động đến tức cả ngực, khói lửa bao trùm trước mặt và từ từ cuộn lên cao. Chiếc F4 đang trên cao như xem kết quả và chờ lệnh Covey… Bất chợt sau lưng tiếng ầm vang, xẹt qua đầu ngọn cây và hàng bom trút xuống bên dưới lửa khói lan tràn… Loạt napalm đang thiêu hủy mục tiêu, theo sau là những tiếng hét la vang dội góc rừng và tiếng súng của địch bắn lên… Chiếc F4 vừa ghim thêm ba trái bom và đang lao lên bằng tiếng gầm rú của động cơ phản lực… Giật mình nghe rõ tiếng súng bắn phầm phầm, nhát gừng, chậm rãi không bắn từng loạt… Nhìn ra chiếc F4 kéo theo sau hàng khói đen và kìa chiếc dù đang tòng teng kéo chiếc ghế của phi công. Một tiếng nổ vang trời dội đến, ngoài xa cột khói bốc cao.

– Kilo hotel đây Indian alpha, khẩu phòng không đang ở hướng bắc cách chúng tôi 300 mét.
– Indian alpha nhận rõ và sau đây cho biết ý kiến. Đảo nửa vòng chiếc Covey từ trên cao phóng trái rocket xuống mục tiêu vừa được chỉ dẫn. Nhìn làn khói bốc lên tôi ước lượng.

– Kilo hotel, kéo về hướng nam 150 mét.
– Indian alpha, quá gần vị trí của bạn, bạn thấy thế nào cho biết. trả lời…

– Kilo hotel, không sao đã có những hàng đá bảo vệ…Chơi đại đi.

Thế rồi theo sau trái khói chỉ điểm lần hai, chiếc F4 còn lại mở một
lúc bốn trái bom… Liên tục tiếng tiếng nổ động trời… Một luồng kình lực mạnh khủng khiếp dồn ép, dội đến…Rất khó thở và đau đau ở ngực…Nhưng trước bom nổ, tiếng phòng không rất rõ, nặng nề và tròn ấm vang dội. Đảo một vòng trên cao chiếc F4 như người lữ hành ngắm cảnh nhìn Covey đang săn sóc người phi công mới đáp đất… Nhàn nhã chẳng bao lâu…Chiếc F4 đang hung hăng như điên tiết lao xuống. Một loạt đại bác và thêm những trái bom thả ra từ bụng… Máy bay cứ tầm thấp mà bay rồi mới tăng tốc vụt lên. Bên dưới lửa văng xa lan rộng. Chỗ nằm của chúng tôi, đột nhiên sức nóng lan tỏa nhanh, tôi còn cảm thấy tóc trên đầu nong nóng… Thời gian như ngừng lại, trận địa bỗng yên tĩnh lạ…Gió ở đâu lốc từng cơn. Mặt trời bị che bởi cơn mây đen. Ánh sáng phản chiếu từ chiếc Covey đang săn sóc người phi công, trên trời cao chiếc F4 vòng vòng và bên dưới này chúng tôi hoang mang chờ diễn tiến.

– Indian alpha đây Kilo hotel, tôi sẽ đến với bạn trong tích tắc, phiên làm việc mới của tôi…Bạn đã nhận ra tôi chưa?

Tiếng nói của Đại úy Vỹ (Nguyễn cao Vỹ) trên phi cơ và chiếc O2 xuất hiện theo sau bốn trực thăng càng lúc càng gần. Hai A1 Skyraider đồng hiện diện…Chiếc F4 mất bạn đang lẻ loi trên cao, có thể anh ta cố chờ xem trực thăng cứu viên phi công để yên tâm trở về. Một chiếc F100 vừa lên từ vị trí phi công lâm nạn và cái bóng trực thăng đang lên cao. Viên phi công đã được cứu.
- India alpha, xin cho biết tình hình.

– Kilo hotel tôi đã bị lộ diện, yêu cầu triệt xuất vì áp lực địch bao quanh. Cho đánh phá mục tiêu hướng tây 300 mét và mục tiêu hướng bắc 300 mét. Covey lao xuống mục tiêu hướng Tây nhìn trái khói trắng bốc lên, tôi gọi.

– Kéo về hướng Đông 100 mét.

Trái khói thứ hai đúng mục tiêu… Chiếc F100 xuống với thép và lửa bao trùm khu vực và địch đồng loạt súng nổ bắn đuổi theo máy ba. Chiếc O2 Covey vừa hoàn chỉnh mục tiêu thứ hai và đang bốc ngược lên. Tiếng đại bác 20 ly dòn dã và rồi từ chiếc A1 Skyraider thêm loạt bom chùm (cluster) như đàn ong bị vỡ tổ dăng dăng lao chụp xuống mục tiêu… Covey hoàn thành xong màn chỉ điểm đang ung dung trên kia điều nghiên oanh kích. Tôi vẫn nghe rõ mọi điện đàm giữa Covey và máy bay oanh kích, đôi lúc có tiếng của Đại úy Vỹ chen vào… Trận địa lại trở nên sôi động. Gio hất lên quật lại cái mùi khét của bom đạn. Tiếng nổ dữ dội động địa của bom hủy diệt và trước mặt hướng bắc lửa chạy dài bởi bom napalm. Chúng tôi nằm đây chứng kiến xung quanh cảnh địa ngục và địa ngục nếu có thì chắc cũng chì như thế.

– India alpha, tôi đã trúng đạn…

Hoảng hốt ngẩng đầu nhìn lên, chiếc O2 như một cột khói đen xì lao thẳng xuống đất. Không thấy cái dù của phi công… Qủa thật nhìn cuộn khói lúc máy bay rớt… Bị bắn ngay đầu, họ chẳng kịp nhảy dù… Không như loại OV10 sử dụng loại ghế thoát hiểm tự động. Chiếc O2 trường hợp khẩn phi công phải mở cửa nhẩy dù… Sự bạo tàn của cuộc chơi chiến tranh, với ai cho là thích thú, riêng tôi lúc này lòng chán nản, dạ hoảng kinh như đang ngồi trên lửa. Mọi liên lạc đã bị cắt đứt. Toán nằm bẹp chịu trận…Hai bên mục tiêu ba máy bay oanh kích vẫn tiếp diễn những màn bổ nhào trút xuống bom đạn. Tôi tự hỏi và nghĩ lại, không nghe tiếng phòng không sao chiếc O2 vô cớ lại bị trúng đạn…Một bí mật nào đó cần được sáng tỏ bởi nhân viên phòng Hành-quân… Ba máy bay lúc này thay đổi chiến thuật… Không oanh kích dồn dập mà quan sát kỹ mục tiêu rồi mới tấn công. Hiển nhiên cũng như chúng tôi đang chờ một sự gì đó… Hướng tây sau cái bốc lên như mũi tên, máy bay F100 dựng đứng rồi tiếng nổ loại bom 500 cân rung chuyển mặt đất bắn tung lên rất cao bụi đất và khói lửa mịt mù… Tiếp sau hàng loạt tiếng nổ long trời to rồi nhỏ, nhỏ rồi lại to xen kẽ… Kho đạn dược của địch trúng bom phát nổ… Mặt đất liên tục rúng động, áp lực không khí đè nặng gây khó thở. Thiếu úy Điệp mặt xanh tái ngửa cổ hít thở, miêng giơ ra cái răng khểnh như nanh. Trần Quang đã đen giờ lại đen thêm. Châu tay ôm lấy ngực mặt nhăn nhó… Tiếng xè xè trong máy làm tôi bừng tỉnh, sau cái ảo ảnh dấu hết… Mặc, tôi đứng bật lên tay chân làm động tác thể dục, hít thở nhẹ nhàng cảm thấy thoải mái… Ngồi xuống tiếp tục chịu trận. Trong máy đã có tiếng gọi tên, chụp vội cái ống nghe tôi trả lời… Một sự trấn an, năm phút nữa tôi sẽ đến… Kho đạn của địch vẫn ầm vang không dứt thi thoảng có tiếng nổ lớn rung động…Hai chiếc A1 vẫn dán sát vào mục tiêu phía bắc đặt súng phòng không…Nhưng tới giờ phút này chúng tôi không còn nghe tiếng súng phòng không. Họ đang cố gắng tìm vị trí đặt súng, chiến thuật tấn công và phát hiện đang được áp dụng. Covey đang trên đầu gọi tôi. “India alpha đây Kilo hotel, chuẩn bị triệt xuất bằng câu dây…rõ trả lời.” “Kilo hotel, toán đã sẵn sàng”. Hai đai dây dù qua háng đã được chúng tôi gài vào đúng vị trí của nó, trở thành liền lạc ôm lấy người từ vai đến qua mông…Ngưới ta thiết kế riêng cho cái dây đeo đạn và bình nước bằng dây đai dù dẹp bản, mà khi sử dụng để câu dây thì chỉ gài móc hai sợi dây dù qua háng.

Đoàn trực thăng bay trên cao, thêm hai A1 đang bay song song như anh em sinh đôi. Sáu Kingbee, bốn UH1 Huey và hai Huey Gunship… Covey bay thấp đang cố phát hiện xác chiếc O2… Quần đảo nhiều vòng, hai chiếc Gunship đang xạ kích loạt rocket đầu tiên xuống mục tiêu phía bắc. Một chiếc Huey tách đàn. theo sau chiếc Gunship yểm trợ đến thẳng chỗ chúng tôi. Từ trực thăng bốn sợi dây câu được thả xuống. Móc hai cái móc sắt từ hai vai vào móc dây câu… Thiếu úy Điệp nhìn kiểm soát xong, ra hiệu trực thăng bốc lên… Loạt đại liên và đạn M79 (40ly) tự động cày phá dưới đất… Từ bầu trời nhìn về phía Covey vẫn đang có vẻ chưa tìm thấy xác chiếc O2. Sáu chiếc Kingbee bay trên cao như chờ lệnh… Thế rồi càng lúc càng xa theo trực thăng bay thả chúng tôi về nơi xuất phát… Căn cứ Quảng-trị. Trực thăng Kingbee đang lần lượt đáp xuống bãi. Đổ xuống Trung đội gác đài tiếp vận Hickory… Người ta điều động ngay Trung đội không tác chiến này vào việc gấp rút lấy xác phi công bị rơi. Toán chúng tôi được lệnh trở về CCN Đà nẵng, sáu chiếc Kingbee sẵn sàng đưa chúng tôi về… Hỏi người xạ thủ (Mê vô) trên Kingbee. Anh ta nói rằng rừng quá rậm nên chưa thể lấy xác người phi công và Đại úy Vỹ, sĩ quan không thám… Một nỗi buồn chợt đến như thay lời vĩnh biệt Đại úy.

Hài Đen Chiến Đòan 1 Xung Kích
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1608420031-2bv.png
Views:	0
Size:	636.8 KB
ID:	1751160 Click image for larger version

Name:	1608420057-3bv.png
Views:	0
Size:	461.3 KB
ID:	1751163
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (03-06-2021), huudangdo1 (03-06-2021)
Old 03-06-2021   #672
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,388
Thanks: 21,683
Thanked 38,136 Times in 12,871 Posts
Mentioned: 635 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7243 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Phòng Thủ Mỹ Chánh - Quảng Trị



1. Thiếu Tá Huỳnh Văn Phú sinh năm 1940 tại Nha Trang, khóa 19 Võ bị Đà Lạt. Khóa 19 là khóa tình nguyện về Thủy Quân Lục Chiến đông nhất, với 30 sinh viên sĩ quan kể cả thủ khoa Võ Thành Kháng. Thiếu úy Huỳnh Văn Phú về Tiểu đoàn 5 TQLC làm Trung đội Trưởng năm 62 rồi nhiều năm sau giữ chức Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến TQLC cho đến 30 tháng 4. Sau 75 tù đày từ Nam ra Bắc, Thiếu Tá Phú còn là tác giả đã nhận giải thưởng Phóng sự Tiền phong 1972 do Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị QLVNCH trao tặng. Tuy nhiên, bút ký Chiến Trường Trị Thiên và Những người lính Mũ Xanh in tại Sàigòn tháng 4-1975 đã không kịp phát hành. Thiếu Tá Phú định cư tại Philadelphia từ 1990.

Cùng với tuần san Trẻ, xin phép ông cho đánh máy lại Thủy Quân Lục Chiến đã phòng thủ Mỹ Chánh như thế nào trong Tuyển tập Bút ký Phóng sự Chiến trường 1972 của Nxb Văn Nghệ Dân Tộc in năm 73 mà tôi may mắn tìm lại được.



Giòng Sông Mỹ Chánh
Ðiều mà ít ai ngờ đến đã biến thành sự thật, một sự thật tàn khốc trong cuộc chiến tranh diệt chủng hiện tại. Ðó là việc Hà Nội công khai xua quân tràn qua con sông ngăn cách Bến Hải với hàng ngàn xe tăng, đại pháo 130 ly và hỏa tiễn xâm lăng miền Nam. Và nếu chiến cuộc không bùng nổ lớn như thế, cái tên Mỹ Chánh cũng như bao nhiêu địa danh xa xôi khác trên phần đất khốn khổ này đã không trở thành quen thuộc với mọi người như hiện tại.

Vào những ngày đầu tiên của tháng 4-72 khi trận chiến bùng lên dữ dội, các căn cứ hỏa lực của ta nằm dọc theo khu phi quân sự bị thất thủ, sự sinh hoạt ở Mỹ Chánh vẫn bình thường. Người ta vẫn tấp nập đi đi về về, và giòng nước vẫn lặng lờ chảy ra Phá Tam Giang. Và cũng không ai có thể nghĩ rằng một tháng sau đó, con sông Mỹ Chánh đã đi vào huyền sử đấu tranh của dân tộc. Bây giờ thì bất kỳ người lính Thủy Quân Lục Chiến nào cũng có quyền hãnh diện khi nhắc đến địa danh đó. Nơi đây gót giày xâm lăng của quân Cộng Sản đã chùn bước và đã bỏ lại dọc theo giòng sông đó hàng trăm chiếc xe tăng đủ loại, hàng ngàn xác chết của đồng bọn khi chúng mưu toan tiến sâu hơn về phía Nam. Trong bài viết này tôi sẽ ghi lại một cách tóm lược trong trường hợp nào mà con sông Mỹ Chánh trở thành phòng tuyến bảo vệ cố đô Huế từ sau cuộc lui binh của Sư đoàn 3 Bộ Binh ra khỏi tỉnh Quảng Trị ngày 1-5-72 cùng những diễn biến tổng quát và những người lính TQLC đã chiến đấu như thế nào để giữ vững phòng tuyến này.

Ngày 15-4 tôi từ giã Sàigòn ra đơn vị trong khi học “nửa chừng” khóa học “điều chỉnh” rất ư là “Cultivateur” tại trường Bộ binh Thủ Ðức, một quân trường mà buổi sáng ngủ dậy đã có gánh hàng rong bán bánh cuốn, bún riêu la ơi ới ở đầu giường, buổi trưa thì đậu hủ và chè cháo loạn xạ. Khoảng thời gian này, từ 10-4 đến 30-4-72, Lữ đoàn 369 TQLC với các Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 5, Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 9 TQLC đang hoạt động ở phía Tây và Tây Bắc Mỹ Chánh trong một khu vực rộng chừng 200 cây số vuông gồm các căn cứ Nancy, căn cứ Barbara và căn cứ Ðộng Ông Ðô nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của Cộng quân từ mặt Tây Nam Quảng Trị. Ðơn vị tôi thì đóng tại căn cứ Nancy nằm bên trái Quốc Lộ 1, cách cây cầu Mỹ Chánh chừng một cây số về phía Tây Bắc, sau đó di chuyển ra đóng ở một ngôi làng nhỏ, kín đáo sát bên cạnh đường rầy xe lửa.

Gần một tháng trời chịu trách nhiệm khu vực trên, các đơn vị thuộc Lữ đoàn 369 TQLC đã chiến đấu trong những hoàn cảnh cực kỳ gian khổ. Hàng ngày chạm địch liên miên từ cấp tiểu đoàn trở lên, đại pháo 130 ly của địch nã như mưa bấc, mọi công tác tải thương đều phải di chuyển bằng đường bộ, khiêng hoặc cáng đi trên một quãng đường dài gần 10 cây số đường núi vì trực thăng không có. Nhưng dù thế nào mặc lòng, các chiến sĩ TQLC cũng đã chiến đấu hăng say trong hoàn cảnh eo hẹp đó và mọi cố gắng của địch tiến quân ra vùng đồng bằng thuộc quận Hải Lăng đều bị chặn đứng hoàn toàn. Vì ai cũng hiểu rằng nếu để địch xâm nhập thì Quảng Trị bị cô lập ngay và Quốc Lộ 1 bị cắt đứt. Do đó địch quân cay cú, hằng ngày chúng gia tăng pháo kích các đơn vị của ta. Các pháo đội của Tiểu đoàn 1 Pháo Binh TQLC phải thay đổi vị trí đặt súng ngày một, nhưng di chuyển đi đâu cũng đều bị chúng pháo theo. Tiền sát viên của địch bám rất sát mọi sự xê dịch, di chuyển của ta. Lâu lâu quân ta bắt được một vài tên có máy móc vô tuyến đàng hoàng nhưng cường độ pháo kích của địch vẫn không hề suy giảm.

Tôi đã từng nghe những tiếng nổ, tiếng rít của các loại hỏa tiễn 122 ly, 240 ly, nhưng lần này tiếng rít xé gió đi trong không khí cũng như tiếng nổ của loại đại bác 130 ly (bắn xa 27 cây số do Nga-Sô chế tạo) nghe thật khiếp. Tiếng rít xé gió bay qua đầu, tôi có cảm tưởng như là tiếng phản lực bay trên trời. Rồi tiếp theo là tiếng nổ thật lớn nhưng ấm, mảnh văng tung tóe rơi trên những mái nhà tôn như có ai lấy thật nhiều đá ném lên. Mảnh nào mảnh nấy to bằng cái chén và văng ra xa trong vòng bán kính 200 thước. Chẳng có ai biết chúng đặt súng ở đâu cả (biết thì còn nói làm chi nữa) nhưng nghe được tiếng départ ở đâu trong dãy núi xa xa rồi sau đó khoảng chừng 5, 7 giây là đạn bay đến nổ ầm rồi.

Thường thì chúng cứ bắn hai quả một. Lính tráng hễ nghe hai tiếng départ ùng ùng thì la to “Một cặp” đó các anh em ơi! Thế là mọi người chui lẹ vào hầm. Ðịch bớt pháo thì chui ra. Cứ chui ra chui vào như thế suốt ngày. Cái hoạt cảnh lên hầm xuống hầm có lẽ tôi chẳng bao giờ quên được, nhất là khi một mảnh đạn văng rơi trên cái mũ sắt của tôi đánh cồng một tiếng như tiếng chuông chùa. Ôi ta thương cái mũ sắt biết chừng nào! Có hôm mấy trăm quả nã vào đơn vị của tôi, ôi thôi tơi bời hoa lá nhưng khi kiểm điểm lại thì chỉ có 1 chết và 3 bị thương vì đạn rớt trúng ngay hầm. Giữa lúc bị pháo kích, ai nấy ở trong hầm tinh thần căng thẳng nhưng khi nghe một quả bị rớt không nổ thì mọi người lại vỗ tay cười.

Tôi cũng không biết họ nghĩ sao mà lại cười như thế, có lẽ cười vì cái khôi hài của chiến tranh tự nhiên khi không bắn giết nhau. Riêng tôi thì tôi thương cái hầm của tôi hết sức, hôm nào đổi vị trí đóng quân, tôi không tiếc cái gì hết chỉ tiếc có cái hầm mà mấy thầy trò, anh em tôi đã đào đắp công phu. Nhiều khi nhìn nó, tôi nghĩ đến sự nhiệm mầu của đất. Ðất nuôi sống con người, cứu vãn con người và khi người ta buông xuôi cũng trở về với 3 thước đất. Trên cõi đời ô trọc và buồn phiền này có gì tồn tại hơn là đất cát. Và đó có lẽ là cái ý nghĩa sau cùng của con người, nhưng buồn thay không mấy ai để ý đến, chỉ lo đi tìm những cái ảo ảnh, danh vọng để lừa dối, phản bội và bắn giết nhau.

Hành Lang Máu
Khoảng thời gian đó, ngày cũng như đêm đối với tôi thật dài. Ngày thì nóng, nóng tàn nhẫn. Trời không một cơn gió. Mồ hôi vã ra như tắm. Bên tai lúc nào cũng nghe tiếng súng, tiếng pháo của ta và tiếng pháo của địch xen lẫn những tiếng súng nhỏ của các đơn vị đang đụng độ. Ban đêm thì trời trong, sao giăng mắc. Chùm Ðại Hùng Tinh với ngôi sao Bắc Ðẩu in rõ trên nền trời, còn chùm sao Hiệp Sĩ nữa, cả hai đều chỉ về phương Bắc, nơi đó thành phố Quảng Trị đang cố đẩy lui các cuộc tiến công của Cộng quân. Hỏa châu thả sáng đầy trời, thỉnh thoảng ở phía Ðông những lằn lửa xẹt lên ngang bầu trời rồi vụt tắt. Có lẽ đó là Hải Pháo đang bắn đi từ ngoài biển, đôi khi tôi cũng thấy những cụm lửa thật to của chiếc hỏa tiễn SAM của địch bắn lên các phi cơ.

Cho đến giờ phút đó, phòng tuyến ở phía Tây Mỹ Chánh do TQLC trấn giữ vẫn vững như bàn thạch. Và không một ai nghĩ rằng Quảng Trị sẽ bị thất thủ cả. Nhưng đùng một cái, trong các ngày 28, 29 và 30-4, Cộng quân pháo kích dữ dội vào thành phố Quảng Trị. Thế là dân chúng hoảng hốt, bồng bế nhau chạy đi về Huế lánh nạn. Không thể nào kể hết những thảm cảnh của đám dân chạy nạn đó. Trong hai ngày 29 và 30-4, trên quãng đường dài từ Quảng Trị đến Mỹ Chánh, người ta đi chen chúc nhau chật cả quốc lộ từ sáng đến chiều vẫn chưa dứt. Thôi thì đủ các loại xe lớn nhỏ nối đuôi nhau đi nườm nượp về Nam. Nhưng người đi bộ gồng gánh vẫn nhiều hơn. Dưới mắt tôi, đó là một “con rắn người” khổng lồ ngoằn ngoèo dài đến hàng mấy chục cây số. Ðây, một người thanh niên cõng một người mù vừa đi vừa thở, đàng kia là một người đàn bà gánh đôi thúng, trên đó một em bé chừng 4 tuổi đang vốc cơm ăn ngon lành.

Chỗ khác, hết cả một gia đình đang ra sức đẩy một cái xe bò chất đủ thứ áo quần, bàn ghế và một con heo nằm co quắp ở phía trước. Một ông già, hình như là chủ gia đình, đang kéo chiếc xe một cách mệt nhọc. Chiếc máy ảnh cầm trên tay, tôi đến trước mặt ông và bấm một “bô”. Ông cố nở một nụ cười đau khổ. Không biết ông cười vì được chụp ảnh hay cười vì cảnh đời dâu bể này? Và trong ánh nắng hoàng hôn của ngày 29-4, một bà già có tật đang khấp khểnh đi nhờ chiếc gậy trên tay, cái bóng đổ dài trên mặt đường. Bà ta đi chừng mười bước thì lại dừng. Xa hơn một chút, một ông già và hai cháu nhỏ đang ngồi thở dốc trên vệ đường.

Ngay trước vị trí đóng quân của Tiểu đoàn 5 TQLC, các anh chiến sĩ đem mấy thùng nước ra để bên đường cho dân uống. Có anh đem cả phần gạo sấy của mình chia cho những gia đình đang đói lả. Dù sao, đây cũng là những người còn được ít nhiều may mắn vì đã vượt về đến Mỹ Chánh. Một số lớn dân chúng bị kẹt trong vùng giao tranh giữa ta và địch tại cây cầu Bến Ðá, 6 cây số bắc Mỹ Chánh. Ðó là khoảng đường “hành lang máu” của hàng ngàn dân vô tội chết oan trong khi đi lánh nạn. Lợi dụng một lỗ hổng nhỏ do sự rút quân của Tiểu đoàn 7 TQLC để đi ra tăng cường mặt trận Quảng Trị, Cộng quân đã xâm nhập được cây cầu Bến Ðá và từ đó chận đốt những đoàn xe chở dân chúng cũng như bắn giết dân chạy nạn không tiếc tay.

Dân chúng đang đi trên đường thì bị hàng loạt đại bác 130 ly ngã ra chết. Những cái chết vô lý bủa chụp xuống đời họ như những nỗi kinh hoàng. Họ có biết gì đâu. Có cả một chiếc xe bị bắn lật nhào xuống hố kéo theo 30 mạng người và cái hố đó là mồ chôn chính họ luôn. Trên khoảng đường này không có một gia đình nào nguyên vẹn, kẻ mất người còn và thất lạc tứ tung. Ðấy, sự nghiệp giải phóng của đoàn quân miền Bắc là như thế đó. Giải phóng người sống mau về bên kia thế giới, giải phóng tất cả sự nghiệp của mọi người trở về hai bàn tay trắng. Những hình ảnh đó, có lẽ suốt đời tôi không thể nào quên được. Mỗi ngày, tôi từ vị trí đóng quân ra ngồi trên con đường sắt, con đường mà ngày xưa xe lửa đã chạy ra đến Hà Nội, nhìn đám dân lũ lượt kéo nhau đi mà trong lòng nghe chua xót. Tôi cố tìm trong đám người đi đó xem có ai quen thuộc không, nhưng không, không có ai cả. Tôi muốn chia sẻ những nỗi khổ đau với họ nhưng tôi đã hoàn toàn bất lực.

*****

2. Tháng 5-72, Thủy Quân Lục Chiến là hy vọng cuối cùng của Quân đoàn I. Cộng quân đã vượt Hải Lăng áp sát sông Mỹ Chánh. Trong chưa đầy một tháng tin tức chiến trường ập xuống như bão lửa. Cồn Thiên, Khe Gió, Ba Hô, Gio Linh, Cửa Việt đồng loạt thất thủ. Tồi tệ hơn nữa: Trung tá Phạm Văn Đính, trung đoàn trưởng Trung đoàn 56 VNCH mà về sau thành Trung tá Việt cộng đầu hàng tại Camp Carroll. Mất tấm khiên chắn phía Tây, Sư đoàn 3 Bộ Binh không thể giữ Đông Hà và Ái Tử. Với dân Thừa Thiên, an nguy trao hết cho người lính mũ xanh. Phần bút ký tiếp theo của Thiếu Tá Huỳnh Văn Phú ghi lại những ngày này.


Bên này sông, bên kia sông
Giữa đoàn người đi hỗn độn đó, Tiểu đoàn 5 TQLC tung quân lên cầu Ðập Ðá để giải vây áp lực địch. Tại đây, Tiểu đoàn 7 TQLC khi đi tăng cường cho mặt trận Bắc Quảng Trị vẫn còn bị kẹt lại hai đại đội ở khúc đường này. Hai đơn vị phối hợp nhau đánh bật địch quân về phía Tây, cuộc giao tranh kéo dài suốt ngày, các chiến sĩ TQLC đã thanh toán hết các phần tử địch vừa xâm nhập ở đây.

Cho đến giờ phút đó, mặt trận ở phía Tây Mỹ Chánh vẫn vững như vách núi Trường Sơn, nhưng việc gì đã xảy đến. Ngày 1 tháng 5-72 các đơn vị tử thủ Quảng Trị rời bỏ thành phố di chuyển về Nam. Cuộc lui binh mà trước đó mấy ngày ít ai nghĩ đến đã thành sự thật. Và tình hình bây giờ đổi khác, Lữ đoàn 369 TQLC trở thành tuyến đầu ngăn chặn địch tại Mỹ Chánh, không còn một đơn vị bạn nào khác nữa.

Bám sát các cánh quân của ta vừa di tản chiến thuật ra khỏi tỉnh Quảng Trị, Cộng quân lần tiến theo cho đến quận Hải Lăng. Tại đây, các đơn vị thuộc Lữ đoàn 369 TQLC một mặt “tiếp rước” các đơn vị bạn từ Bắc xuống, mặt khác cố đánh bật địch dội ngược trở lên. Nội trong buổi sáng ngày 1-5 Tiểu đoàn 9 TQLC đã dùng súng M72 hạ một lúc 9 xe tăng T54 của Bắc Việt chặn đứng hoàn toàn sức tiến của địch. Tiểu đoàn 9 và Tiểu đoàn 2 TQLC đã quần thảo với địch suốt trong ngày dài nhất đó với một mục đích duy nhất: Không cho chúng tiến thêm một tấc đất nào nữa kể từ khu vực này.

Sau đó cây cầu Mỹ Chánh được giật sập ngay trong đêm và các đơn vị TQLC thiết lập một phòng tuyến mới ở bên này con sông. Theo sát những diễn biến, tôi đã nghĩ rằng nếu ngày hôm ấy mà không có các Tiểu đoàn 2 và 9 TQLC kiên trì chận đứng được địch quân tại Mỹ Chánh giữa cơn ngặt nghèo đó thì không biết chiến trường trong những ngày kế tiếp sẽ diễn biến ra sao và đến đâu. Một Nguyễn Kim Ðể của Tiểu đoàn 9, một Nguyễn Xuân Phúc của Tiểu đoàn 2 TQLC tại mặt trận Mỹ Chánh ngày 1-5 cũng như một Ðỗ Hữu Tùng của Tiểu đoàn 6 TQLC trong trận “xa chiến lớn” tại căn cứ Phượng Hoàng ngày 9 tháng 4 là những đơn vị trưởng đã góp công không nhỏ trên chiến trường Trị Thiên suốt 60 ngày chiến đấu đẫm máu.

Họ là những sĩ quan có đầy đủ kích thước, tài ba và mưu lược để chỉ huy những đơn vị cỡ trung cấp. Ðại Tá Phạm Văn Chung, Lữ đoàn Trưởng Lữ đoàn 369, người chỉ huy trận đánh và đơn phương quyết định phải ngay tức khắc chận địch tại tuyến Mỹ Chánh cũng đã không tiếc lời khen ngợi hai đơn vị nói trên. (bây giờ Ðại Tá Chung về Bộ Tư Lệnh Sư đoàn TQLC làm Tham Mưu Trưởng Hành Quân, Trung Tá Nguyễn Thế Lương thay thế).

Buổi chiều, khi tôi rời Mỹ Chánh để về đóng quân tại Phong Ðiền, ánh nắng vàng vọt buồn bã ngả dài trên những dãy núi phía Tây lỗ chỗ những vệt xanh vệt trắng. Nhà cửa hai bên đường không một bóng người, quang cảnh thật thê lương. Ðã nhiều lần tôi bắt gặp lòng mình lắng sâu trong cảnh vật bởi tôi đã đi trên cái hoang vắng đó. Trên con đường nhựa duy nhất một ông già với chiếc bị da đã ngả màu trên vai, đi âm thầm trong ánh nắng hoàng hôn sắp tắt.

Ông già đã đi giữa buổi hoàng hôn của cuộc đời và hoàng hôn của đất trời. Nhưng ai biết được ông đi về đâu? Tôi quay về phía sau, bóng những người lính in lên trên nền trời đang dần dần đổi sang màu đen của bóng đêm. Xa hơn, về phía Bắc những cụm khói đen khổng lồ bốc lên cao cùng những tiếng nổ ì ầm. Quảng Trị đã xa tầm tay! Ít ra trong phút này, niềm mơ ước có phút rỗi rảnh nào đó được “dzọt” lẹ về thành phố này uống một chai bia, ăn một tô bún đã không thể thành tựu được nữa.

Và cái truyện Bên Kia Giáo Ðường của tôi cũng tan thành mây khói, không biết đến bao giờ mới xong vì nhân vật chính đã phiêu bạt ở phương nào rồi. Tôi cũng ước mong được trở lại căn nhà mà tôi đã trú đóng bên kia sông Mỹ Chánh, không biết để làm gì, vì nơi đó không phải là quê hương của tôi nhưng tôi mong muốn như thế, sớm hơn. Niềm mong ước đó cũng giống như hàng vạn người dân Quảng Trị mong sớm được nhìn về giòng sông Thạch Hãn của họ. Nhưng tôi tin chắc rằng niềm mong ước của họ lớn lao hơn, to tát hơn. Trong buổi chiều đó, khi đi ngang qua cây cầu, tôi đã “tức cảnh sinh tình” và rất lẩn thẩn “mần” ra mấy câu “thi” thuộc loại siêu tự do, siêu khôi hài mà chỉ có những đại thi sĩ cỡ “khều mặt trời” mới mần ra nổi. Bài thơ như sau:

Tôi ở bên này sông Mỹ Chánh
Anh ở bên kia sông
Đứng bên này sông
Nhìn thấy bên kia

Đứng ở bên kia
Trông thấy bên này
Lội ra giữa giòng sông
Nhìn thấy cả hai bên

Lặn xuống nước
Chả trông thấy bên nào cả!

Một quan niệm về phòng thủ tấn công
Ðoàn xe chở chúng tôi rời Mỹ Chánh chừng 3 cây số về phía Nam thì thay vì chạy trên đường lại rẽ trái chạy trên khoảng đất song song với đường nhựa. Có lẽ khúc đường này bị đặt mìn chưa sử dụng được. Ðoàn xe chạy trên đường đất chừng 100 thước thì ầm ầm, những tiếng nổ vang dội ở trước đầu xe, bụi tung bay mù mịt không trông thấy gì cả. Ngay quả nổ đầu tiên, trong trí óc của tôi lúc bấy giờ, tôi tưởng rằng đoàn xe đã bị địch phục kích và trong giây phút, tôi cố chờ đợi những tiếng đại liên xổ ra như kinh nghiệm cho thấy những lần bị phục kích. Nhưng may quá, không có đại liên và súng nhỏ. Rồi những tiếng nổ ì ầm tiếp theo. Tôi nhận ra tiếng nổ ấm và rất quen thuộc của loại đạn M79. Tôi chợt yên tâm hơn, phía trước 3 chiếc xe chạy đầu vẫn tiếp tục chạy, một chiếc xe Jeep đã bị nổ lốp nhưng vẫn cứ phom phom. Tôi giục tài xế: “Tống hết ga chạy nhanh lên”.

Chiếc xe chồm lên chạy giữa đám khói mịt mù cùng những tiếng nổ tiếp theo. Khổ quá! Vài người “anh em thù nghịch” mò ra ở khu rừng thấp bên phía Tây bắn M79 vào đoàn xe của chúng tôi chơi cho vui giữa lúc bóng đêm sắp sửa xông lên từ lòng đất. Ðến quận Phong Ðiền, kiểm điểm lại chỉ hai người bị thương nhẹ ở đùi mà thôi. Những chiếc xe chạy ở phía sau cũng đã đến an toàn. Buổi tối đó, tại Chi khu Phong Ðiền, Thiếu Tá Bích, Quận Trưởng, một niên trưởng của tôi, đã mời chúng tôi mấy chai bia. Chưa bao giờ tôi thấy bia ngon như đêm hôm đó.

Vài ngày sau, tôi có dịp đi Huế để nhìn ngắm kết quả của cuộc lui binh ngày 1 tháng 5 ra khỏi Quảng Trị. Phố xá tiêu điều, hàng quán đóng kín cửa, chợ Ðông Ba bị đốt cháy nám đen. Huế lúc đó là một thành phố chết, không thể mua được một cái gì cả. Giòng sông Hương đã vắng bóng những con đò, “Ðệ Thất hạm đội” của “chị em ta” lừng danh một thuở cũng đã xuôi giòng ra cửa biển mất tăm! Huế của lãng mạn, của thơ mộng với những tà áo trắng phất phơ bay trên cầu Trường Tiền, chiếc nón bài thơ e ấp không còn nữa. Ít ra là ở trong giây phút đó.


Tuyến phòng thủ Mỹ Chánh đã đứng vững và được kéo dài thêm ra đến biển với hai Lữ đoàn 258 TQLC và Lữ đoàn 369 TQLC chịu trách nhiệm. Với một quan niệm là phòng thủ nhiều khi cũng phải tấn công để gây rối loạn hậu tuyến địch, phá vỡ việc địch tập trung để tấn công Huế và cho địch hiểu rằng ta muốn lấy lại những phần đất đã bị mất bất cứ lúc nào: ngày 13-5-72 Lữ đoàn 369 TQLC đã bất thần mở cuộc phản công vào quận Hải Lăng, bằng cách trực thăng vận đổ Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 6 TQLC xuống trận địa. Trong khi đó thì Tiểu đoàn 9 TQLC lại vượt qua sông Mỹ Chánh tiến lên phía Bắc để giao tiếp với các đơn vị bạn.

Trước đó sự phối hợp yểm trợ hỏa lực phi pháo cũng như của B-52 thật chặt chẽ. Trận đột kích đã gây náo loạn cho hàng ngũ Cộng quân, khi các trực thăng khổng lồ đổ những người lích TQLC xuống thì quân Cộng sản Bắc Việt tan rã hàng ngũ bỏ chạy tán loạn ra các cánh đồng, trong khi đó dân chúng cũng bắt đầu chạy về hướng TQLC. Một sự kiện lạ là trong khi Cộng quân bỏ chạy trước các cánh quân của Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 6 TQLC ở phía Bắc thì địch lại chịu chạm súng với Tiểu đoàn 9 TQLC lúc đơn vị này vừa qua sông. Trung Tá Nguyễn Kim Ðể, Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 9, người hùng trong trận đánh chận đứng địch tại Hành Lang Máu ngày 1-5 đã quyết định táo bạo khi cho các “con cái” của ông vượt sông lúc 5 giờ sáng thay vì 7 giờ như đã ấn định.

Chính quyết định này đã gây hoàn toàn bất ngờ đối với địch quân và giảm thiểu mức độ thiệt hại quân bạn. Cuộc hành quân đã gây những yếu tố tâm lý quan trọng hiện tại và là một cuộc hành quân được phối hợp tuyệt vời nhất, kín đáo nhất. Hơn một ngàn ba trăm dân đã được giải thoát nhờ cuộc hành quân này.

Địch mưu toan chọc thủng phòng tuyến Mỹ Chánh
Cuộc hành quân kéo dài trong ngày và các đơn vị TQLC lại về phòng thủ tại tuyến Mỹ Chánh. Trong suốt một tuần lễ sau đó, lằn mức giao chiến giữa ta và địch tại con sông Mỹ Chánh cứ nhập nhằng, thỉnh thoảng địch cố mở vài mũi dùi dò la sức phản công của ta rồi im lặng. Cho đến ngày 22-5, trận chiến dữ dội mở màn ghi một điểm son trong pho quân sử của binh chủng TQLC. Trận đánh đã xảy ra 24 giờ đồng hồ trước khi những nút chai sâm banh được mở ra để đãi vị Tổng Thống Hoa Kỳ R. Nixon trong một bữa tiệc tại thủ đô Nga Sô mà 23 xe tăng PT76 và T54 của Cộng sản đã bốc cháy cùng 130 xác đồng bọn bỏ lại trên trận địa dọc theo phòng tuyến.



Theo ước tính của tình báo, lẽ ra trận tấn công trên của địch diễn ra ngày 19-5-72 nhưng không biết vì trục trặc gì đó mà trễ mất 3 ngày. Và người ta nhận định rằng chỉ có khoảng thời gian đó là thuận tiện cho việc tấn công vì ý đồ của Hà Nội đã thấy rõ: Muốn biến cuộc gặp gỡ thượng đỉnh Nga-Mỹ thành một hội nghị Genève mới. Và nếu để sau ngày Nixon Nga du thì mọi việc kể như xong rồi.

Ngày 21-5, Bắc Việt tung quân bộ chiến có xe yểm trợ tiến đánh một đơn vị Ðịa Phương Quân tại 9 cây số Ðông Bắc Mỹ Chánh. Lực lượng này không chịu nổi sức tấn công của địch đã phải tháo lui về phía sau phòng tuyến 2 cây số. Tiểu đoàn 9 và Tiểu đoàn 3 TQLC đã tức tốc đem quân chận đứng địch, đồng thời trám lại một lỗ hổng nhỏ trên tuyến phòng thủ chính. Hậu quả của sự tháo lui của lực lượng Ðịa Phương Quân này là một toán chốt của địch đã xâm nhập được phía Nam sông Mỹ Chánh. Do đó, con đường huyết mạch để tiếp tế cho các đơn vị TQLC từ quận Phong Ðiền đến phía Ðông Bắc phòng tuyến bị gián đoạn trong 3 tiếng đồng hồ.

Bộ Tư lệnh liền quyết định tung thêm Tiểu đoàn 39 Ðịa Phương Quân tăng cường cho Lữ đoàn 369 TQLC. Tiểu đoàn này di chuyển bộ từ Phong Ðiền đến tiếp giáp với Tiểu đoàn 8 TQLC đang trú đóng tại 3 cây số Nam phòng tuyến để phối hợp với đơn vị này càn quét và thanh toán chốt vừa xâm nhập đêm qua. Trong khi đó thì Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 9 TQLC vẫn giữ mặt Bắc không cho địch tràn xuống. Mục đích của địch là cho các toán chốt xâm nhập trước để quấy rối ta rồi sau đó các đơn vị hỏa lực với tăng và pháo yểm trợ chọc thủng phòng tuyến.



Trong ngày 21-5, quân ta đã thanh toán xong các toán chốt của địch lẩn quất trong vùng. Bây giờ lằn ranh giao tranh giữa hai bên vẫn là con sông Mỹ Chánh. Ngay trong buổi chiều hôm đó, Tiểu đoàn 3 TQLC tung thêm một đại đội xa hơn về phía Ðông vượt qua con sông Ô Lâu; nhánh của Phá Tam Giang ăn thông với sông Mỹ Chánh nằm chặn địch tại đó. 23 giờ ngày 21-5, khoảng 30 xe tăng PT76, T54 và PT85 của Cộng sản với tùng thiết (bộ binh tháp tùng xe tăng) chia làm 2 mũi dùi từ Bắc và Ðông Bắc Mỹ Chánh ào ạt tiến xuống. Trận chiến bắt đầu từ giây phút này.

Ðêm ấy tôi hoàn toàn thức trắng ngồi tại T.O.C. theo dõi diễn biến trận đánh. Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 3 TQLC Lê Bá Bình cho lệnh các đại đội của ông sẵn sàng M72 và chờ cho chúng đến gần 100 thước mới khai hỏa. Ngay phút đầu tiên, 7 PT76 bị hạ. Nhằm không cho các đơn vị của ta tiếp ứng lẫn nhau, Cộng quân đã pháo kích dữ dội vào vị trí của các đơn vị Tiểu đoàn 9 TQLC trong khi tiến đánh Tiểu đoàn 3 TQLC. Sau 3 giờ giao tranh, một đại đội của Tiểu đoàn 3 TQLC đã phải lui về phía sau con sông Ô Lâu một cây số. Một phi cơ soi sáng từ Ðà Nẵng được gọi lên vùng, hai bên lại tiếp tục quần thảo. Một mũi dùi khác thọc xuống phía Nam né tránh hoàn toàn giao tranh với Tiểu đoàn 39 Biệt Ðộng Quân.

Ðến đây thì cái mấu chốt của sự thảm bại của Cộng sản Bắc Việt bắt đầu.

*****

3. Mỹ Chánh là chiến thắng của Thủy Quân Lục Chiến. Để hiểu tầm quan trọng của chiến thắng này cần nhìn thấy rõ nỗ lực của Bắc quân. Đích thân Lê Trọng Tấn, tay Tướng được xem dũng lược nhất của Hà Nội nắm quyền Tư lệnh Chiến dịch Trị Thiên Xuân - Hè 1972. Cuối tháng 3 Lê Trọng Tấn ném 3 sư đoàn chính quy Bắc Việt 304, 308, 320B qua sông Bến Hải, tăng cường thêm 2 sư đoàn 324 và 325 sau khi chiếm Quảng Trị. Sư 304 là sư đoàn chuyên đánh đồng bằng. Sư 308 là sư đoàn đầu tiên của Việt Minh thành lập từ 1949 mà bộ chỉ huy Pháp đặt tên Division d’Acier, tức Sư đoàn Thép. Sư đoàn 320B thoát thân từ Sư đoàn 320 là sư đoàn cũ của Văn Tiến Dũng. Sư đoàn 324 “chuyên trị” “Nam-Ngãi-Bình-Phú” và Sư đoàn 325 danh hiệu Đại đoàn Bình-Trị-Thiên. Tất cả, nói lên ý chí chiếm Huế của Lê Duẫn.

Cả 5 sư đoàn trên đều dày dạn trận mạc. Nếu 304 và 308 từng đánh Điện Biên thì 3 sư đoàn còn lại am tường địa thế miền Trung. Bên cạnh, 2 trung đoàn chiến xa 202 và 203, rồi 4 trung đoàn Pháo binh gồm 408 đại bác mà 68 khẩu là pháo 130 ly, cộng 93 khẩu 122 ly Sô-Viết cùng 247 khẩu sơn pháo 76 và 85 ly, không tính súng không giật SKZ cũng như súng cối nặng 120 ly của bộ binh. Thêm 2 sư đoàn cao xạ 367, 376 và 2 trung đoàn tên lửa 238, 237 với hỏa tiễn SA-2. Tỉnh đoàn Thừa Thiên cung cấp thêm Trung đoàn Độc lập 559 Chủ lực Miền. Một ưu thế tuyệt đối.

Chính với ưu thế này mà Lê Trọng Tấn đã tự tin đánh dàn trận bằng chiến xa và cũng lần đầu tiên Bắc-Việt sử dụng rộng rãi pháo 130 ly. Chỉ trong ngày đầu tiên của Chiến dịch Bão Táp, đã pháo 11,000 quả đạn đủ loại.

Phía VNCH, đầu tháng 4 gánh nặng trên vai Sư đoàn 3 Bộ Binh, là một sư đoàn tân lập đã phải thâu nhận khá đông đào binh, quân phạm từ các Trung tâm Cải huấn. Không thể xem quân phạm tác chiến kém. Sau cải hối, mỗi người lính là một binh sĩ Quốc Gia ngang đồng vị trí. Nhưng các sĩ quan cần thời gian để tái huấn luyện, thiết lập kỷ cương. Chính thời gian là điều Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai không sở hữu, vì chưa đầy 6 tháng sau thành lập với đảm trách nặng nề của vùng hỏa tuyến, đã phải đương đầu với tổng tấn công của Bắc Việt. Thêm nữa, bội phản của Trung Tá Phạm Văn Đính đầu hàng tại Camp Carroll đã tạo ra khoảng trống cạnh sườn phía Tây Quảng Trị. Từ đây, Bắc quân tràn vào như thác.

Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai bị phòng Thanh Tra của Bộ Tổng Tham Mưu VNCH câu lưu và đưa ra tòa án binh vì đã để mất tỉnh địa đầu. Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm bị cách chức, thay thế bằng Tướng Ngô Quang Trưởng. Các sự kiện trên, nói lên tình hình nguy ngập cùng cực khi TQLC nhận vùng trách nhiệm Mỹ Chánh. Nếu TQLC buông tay, Lê Trọng Tấn sẽ vinh quang vào giải phóng - thảm sát Huế thêm lần nữa. Nhưng chính tại Mỹ Chánh, vào tháng 5-1972, những người lính TQLC đã giữ vững phòng tuyến và cùng lúc giữ vững danh tiếng của binh chủng này. Chính chiến thắng Mỹ Chánh đã cho phép Tướng Trưởng củng cố Quân đoàn I và tái chiếm Quảng Trị. Cũng chính Mỹ Chánh, đã giúp Tổng Thống Thiệu có thể quỳ xuống giữa giáo đường La Vang về sau. Mỹ Chánh, là một phá lam đã làm gẫy mũi giáo phương Bắc.

Trần Vũ

Gài địch vào vùng tập trung hỏa lực
Cánh quân thứ hai của địch tưởng rằng đã chọc thủng được phòng tuyến rồi nên chúng cố thọc sâu hơn về hướng Nam từ lúc 4 giờ sáng ngày 22-5. Vùng tập trung hỏa lực của LÐ 369 TQLC tại hơn 3 cây số về phía Nam phòng tuyến với Tiểu đoàn 8 TQLC, hai pháo đội của Tiểu đoàn 3 PB/TQLC và một số chiến xa. 5 giờ, phi cơ bắt đầu soi sáng vị trí của Tiểu đoàn 8 TQLC.

Khi trái sáng cuối cùng vừa dứt, tôi nhìn đồng hồ: 5 giờ 55 phút. Mặt trời chưa lên, đó là lúc “bình minh hàng hải” vừa để đủ trông thấy mọi vật một cách lờ mờ. Cánh quân của địch vừa thoát xuống chia làm hai mũi dùi tiến thẳng tới vị trí của Tiểu đoàn 8 và hai pháo đội của Tiểu đoàn 3 PB/TQLC. Lúc bấy giờ mọi người đã sẵn sàng. Xạ trường ở phía trước trống trải toàn là đồng ruộng, xa hơn chừng 500 thước là những lùm cây thấp. Xe tăng địch lù lù tiến đến với tác xạ dữ dội với đủ mọi loại súng đặt trên xe cũng như của quân di chuyển bộ. Các chiến sĩ Tiểu đoàn 8 TQLC và Tiểu đoàn 3 PB/TQLC vẫn bình tĩnh chờ đợi, không một ai nao núng.

Xe tăng địch còn cách 500 thước, 400 thước, 300 thước, 200 thước rồi 150. Tất cả súng M.72 đồng loạt khai hỏa, các khẩu pháo binh 105 ly thì bắn trực xạ. Ngay trong phát đầu tiên, các pháo thủ của pháo đội K do Trung Úy Vũ Quang Vinh chỉ huy đã hạ được một chiếc PT76 bốc cháy. Rồi lần lượt các chiếc chiến xa khác của địch trên một trận tuyến dài 500 thước đều bị bắn cháy. Tiếng súng hai bên vẫn nổ ròn. Trước mắt tôi chừng 500 thước một chiếc PT76 bị bắn cháy nhưng vẫn còn chạy được trông không khác gì một con chuột bị người ta tẩm xăng đốt cháy. Chiếc hỏa tiễn TOW, loại vũ khí chống chiến xa mới nhất do Hoa Kỳ cung cấp, đặt từ trong tuyến phòng thủ phóng bồi thêm một quả nữa. Chiếc xe tăng của địch đang chạy bỗng khựng lại, ngọn lửa bùng cháy cao hơn. Lúc bây giờ chung quanh tôi rào rào tiếng vỗ tay reo hò của lính.

Một chiếc T54 khác thì thê thảm hơn: Bị bắn cháy lật nằm nghiêng, ngọn lửa bùng lên từng chập như có ai đổ dầu thêm. Trong vòng 15 phút đồng hồ, tất cả xe tăng của địch đều bị hạ. Mọi người ai cũng thấy phấn khởi và lên tinh thần. Hai chiếc tăng khác hoảng sợ không dám tiến vào nữa mà ẩn núp sau lùm cây thấp và bị phát giác nhờ chiếc ống nhắm của hỏa tiễn TOW khi thấy hai cái ăng-ten của hai chiếc xe ló lên. Lập tức, hai chiếc phản lực cơ được gọi đến hạ ngay tại chỗ. Lúc này thì trời đã sáng, ánh sáng tạm đủ để nhìn thấy cảnh vật qua lớp sương mờ mờ. Vài chiếc tăng không bị trúng đạn cố gắng tháo chạy về phía Bắc cũng bị phi cơ đuổi theo oanh kích cháy nốt.

Trải dài trước mắt tôi, dọc theo tuyến phòng thủ thành một hình vòng cung là 9 xác xe tăng của địch vừa PT76 vừa T54 nằm la liệt, lửa từ trong các xe bốc lên hừng hực. Trận chiến xảy ra như một cảnh trong cinéma. Tôi nghĩ rằng chỉ có trong ciné mới có thể có được những cảnh đó nhưng sự thật đã diễn ra trước mắt tôi và có lúc tôi tưởng rằng đó là cơn mê. Một giờ sau, Trung Tá Nguyễn Thế Lương, Lữ đoàn Trưởng Lữ đoàn 369 TQLC tung quân truy kích địch. Cuộc chạm súng lẻ tẻ trong vòng bán kính 800 thước lại xảy ra. Các chiến sĩ Tiểu đoàn 8 TQLC của Thiếu Tá Nguyễn Văn Phán như say men chiến thắng ào ạt tiến lên tiêu diệt nốt những tên còn sót lại. Thiệt hại về phía TQLC chỉ có 3 chết và 5 bị thương, một số tổn thất coi như không đáng kể. Tôi không nhớ rõ các chiến sĩ Tiểu đoàn 8 TQLC đã tịch thu được bao nhiêu súng cộng đồng và cá nhân nhưng chỉ biết là khá nhiều. Tôi cũng như bao nhiêu người khác lúc đó chỉ khoái chú ý đến những chiếc xe tăng của địch còn bốc khói nghi ngút. Ðặc biệt trong số này có một chiếc PT85. Thứ này na ná như chiếc M113 của ta nhưng “đẹp” hơn nhiều. Chiếc xe đó đang được kéo về triển lãm ở Huế.

Tôi cũng không thể hiểu được Cộng quân điều binh theo cái lối nào mà kỳ quặc đến thế: cho xe tăng dàn hàng ngang trước một tuyến hoàn toàn trống trải để đưa lưng mà nhận lãnh đạn. Ðiều đáng ghi trong trận đánh này là sự bình tĩnh vô cùng của các chiến sĩ TQLC. Một chi tiết đáng ghi khác là khi chiếc xe tăng đầu tiên của địch bị hạ, không một quân nhân nào của Tiểu đoàn 8 TQLC còn núp ở trong hầm, tất cả đều đứng thẳng lên, M72 trên vai ngắm xe tăng mà bóp cò. Có anh bỏ vị trí chạy ra bờ ruộng để bắn gần cho chắc ăn.

Vài giờ đồng hồ sau đó, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư đoàn TQLC đã có mặt tại trận địa bên cạnh những chiếc xe tăng của địch còn cháy nghi ngút để khen thưởng các chiến sĩ thuộc Lữ đoàn 369 TQLC và đồng thời quyết định những kế hoạch kế tiếp.

Với chiếc máy ảnh trên tay, tôi mò ra chỗ những chiếc xe tăng bị hạ. Xác chết của địch nằm la liệt. Chung quanh những chiếc xe tăng, chỗ này 30 xác chết, chỗ khác 11 xác. Rất ít xác còn được nguyên vẹn. Có xác bị cháy đen thân thể co quắp lại như một đứa con nít. Nhìn họ, bỗng tôi nhớ đến buổi nói chuyện với một tù binh Cộng sản, Thượng sĩ viên giữ chức vụ Ðại đội phó thuộc Tiểu đoàn K.2 Trung đoàn 3 CSBV.

Anh nói với tôi “Tôi cũng biết rằng vào đây không có đánh Mỹ nữa vì Mỹ đã rút quân dần ra khỏi miền Nam rồi, nhưng lệnh bảo đi thì đi. Thế thôi, muốn cưỡng lại cũng không được. Rốt cuộc, chỉ chúng ta là những người Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc bị chết trong cuộc chiến này”. Cũng trong trận đánh trên, TQLC tịch thu được hai khẩu súng SA7 (còn có tên là STRELLA) đó là loại hỏa tiễn giật tay “dò tìm hơi nóng” để bắn phi cơ. Ðây là lần đầu tiên, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa tịch thu được loại vũ khí đó trên chiến trường. Thảm bại của CSBV lần này còn nặng nề hơn ngày 09-04-1972 mà Tiểu đoàn 6 TQLC đã dùng súng M72 hạ hàng loạt chiến xa địch mở đầu cho chiến dịch thi đua diệt xe tăng Cộng sản Bắc Việt.

Những ngày kế tiếp, suốt dãy tuyến phòng thủ dọc theo Mỹ Chánh từ Quốc Lộ 1 ra đến biển, ngày nào cũng có xe tăng địch bị hạ, khi thì 2 chiếc, khi thì 3 chiếc. Nếu không bị các đơn vị của Lữ đoàn 258 TQLC quất sụm thì cũng bị Lữ đoàn 369 TQLC đốn ngã hay do phi cơ oanh kích cháy.

Ngày 25-05-1972, Lữ đoàn 147 TQLC lại mở một cuộc tấn công khác sâu hơn vào hậu tuyến địch bằng trực thăng vừa đổ bộ bằng tàu của Ðệ Thất Hạm đội Hoa Kỳ, tung các Tiểu đoàn 6, Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 4 TQLC vào khu vực 15 cây số Ðông Quảng Trị. Trước đó vài giờ, toàn bộ Ban chỉ huy của Trung đoàn 66 CSBV bị B.52 cày nát. Mặc dù vẫn có giao tranh ác liệt giữa các đơn vị TQLC với Cộng quân khi tiến sâu về phía Bắc nhưng điểm chính yếu ghi nhận được là phần lớn địch đã cố tình né tránh các cuộc tấn công của ta và đã rời bỏ vị trí tháo chạy.

Cuộc hành quân trên đã đạt được một kết quả đáng kể: hơn 5000 dân chúng đã theo các đơn vị TQLC về quận Hương Ðiền an toàn. Ðiều đó một lần nữa chứng tỏ rằng dân chúng không thể nào sống trong vùng Cộng sản kiểm soát.

Ðến nay thì sau những lần mưu toan chọc thủng phòng tuyến Mỹ Chánh để tiến về Huế của địch đã thất bại, thêm vào đó là Cộng quân nơm nớp lo sợ không biết ta tung quân tấn công lúc nào nên khi tôi viết những dòng này chiến trường ở phía Ðông Bắc Mỹ Chánh đã bớt sôi nổi. Mặc dù vậy, địch cũng đang cố hướng mũi dùi về phía Tây, nơi đó Lữ đoàn 258 TQLC đang ngày đêm chặn đánh kẻ thù và mọi cố gắng xâm nhập của địch đều hoàn toàn bị chặn đứng tại đây.

Ngày mai trời sẽ sáng.

Khác với mọi lời tiên đoán bi quan lúc đầu khi thành phố Quảng Trị bị thất thủ là cố đô Huế bị đe dọa nặng nề và không biết sẽ mất lúc nào, tình hình chung bây giờ đã sáng sủa. Những cố gắng của địch đều bị phá vỡ. Phòng tuyến Mỹ Chánh đã đứng vững. Sự sinh hoạt ở Huế đã trở lại bình thường. Nếu bỏ qua một phần những giải pháp chính trị cho cuộc chiến Việt Nam (…) theo đó sự tái chiếm Quảng Trị chưa cần thiết thì trên bình diện quân sự, việc tái chiếm Quảng Trị và những phần đất đã mất chỉ là vấn đề thời gian. Việc tiếp liệu về lâu về dài cho các đơn vị CSBV trên chiến trường miền Nam đã là một vấn đề nan giải trong cường độ oanh tạc miền Bắc của không lực Hoa Kỳ hiện tại.

Mặt khác, theo một nguồn tin tình báo Hoa Kỳ thì Cộng quân sẽ đánh mạnh để chiếm Huế trong khoảng thời gian từ 03-06-1972 đến 10-06-1972. Tuy nhiên, dưới con mắt nhìn của các giới quan sát quân sự thì việc đó đối với Cộng quân khó có thể xảy ra trong thắng lợi được vì sự thiệt hại của địch quá lớn lao sau gần 2 tháng xâm lăng, tinh thần cán binh thấp xuống đến mức e ngại mà theo tin tức thì các vị Tư lệnh chiến trường của CSBV đã khuyến cáo Hà Nội cũng nên tìm một giải pháp nào cho chiến cuộc này khác hơn là ở trên chiến trường. Thế nhưng chiến trường nào cũng có thể có những diễn biến bất ngờ và sự bất ngờ đó đối với Hà Nội chỉ có trong trường hợp Tướng Võ Nguyên Giáp có được chiếc đũa thần.

Ðể kết thúc, tôi xin ghi lại ở đây nội dung buổi phỏng vấn Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư đoàn TQLC, của phái viên “đầu bạc” Nguyễn Tú của nhật báo Chính Luận ngày 27-05-1972, theo đó vị Tướng Tư Lệnh Sư đoàn TQLC cho rằng:

– Vấn đề chống địch, phản công địch, diệt địch không khó. Ðiều quan trọng là nắm vững tình hình địch, điều quân mau lẹ như chính ông (phái viên Chính Luận) đã thấy tại trận địa và nhất là sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị bạn. Ðiển hình là hành quân Sóng Thần 06-72 tấn công Hải Lăng ngày 25-5-72 đã được thiết kế và quyết định trong 24 tiếng đồng hồ.

– Còn tương lai?

– Ông không thấy trời rất đẹp sao?

Trần Vũ
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1537224539-1pt.jpg
Views:	0
Size:	102.4 KB
ID:	1751166 Click image for larger version

Name:	1537224588-7pt.jpg
Views:	0
Size:	81.8 KB
ID:	1751167 Click image for larger version

Name:	1537224596-8pt.jpg
Views:	0
Size:	72.7 KB
ID:	1751168
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (03-06-2021), huudangdo1 (03-06-2021)
Old 03-06-2021   #673
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,388
Thanks: 21,683
Thanked 38,136 Times in 12,871 Posts
Mentioned: 635 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7243 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Người Chỉ Huy Về Già - Trung Tá Đào Văn Hùng

Có thể nói sếp cũ của tôi là một ông già, già nhất trong những người giữ nhiệm vụ chỉ huy đơn vị tác chiến. Ông đi lính từ một thuở thật xa, lâu lắm, cách đây hơn hai mươi năm lúc quân đội chỉ độc các loại Commando, Lê Dương, Nhảy Dù thuộc địa... Đánh nhau bằng súng mút-cờ-tông từng phát một hay những cây FM đầu bạc bắn gật gù như ông già ho lao. Lúc chiến tranh còn nằm tít trên biên giới Lào – Việt – Trung, trận đánh toàn một cách xung phong ầm ầm, ào ào để giữ những làng, thị trấn mang tên lạ hoắc như Bản Hiu-Siu, Mường Phen, Thất Khê...



Ông già sếp tôi thuở đó khởi nghiệp nhà binh với lon Cai ở Commando. Không rõ những ngày ở đơn vị đó ông có những gì đặc biệt, chỉ biết ông ta nhắc lại đoạn đời qua bằng một câu thật gọn: Cai thậttrẻ… Giọng Bắc Kỳ khàn khàn xuống mạnh vào chữ mang đầy kiêu hãnh và tự tín. Tước hiệu “cai thật trẻ” hình như là nỗi hãnh diện đầu tiên và đích thực nên sau này khi đã đóng đến lon “quan Năm”, lúc say rượu, dù cơn say vào độ tơi bời tàn khốc, ông vẫn còn nhớ được: “Tao là Cai Hùng, đếch phải là trung tá cái củ c. gì ráo...”. Cai Hùng! Cai Hùng! Một tuổi trẻ gió bão nào đó đã đi qua.

Lúc tôi đến đơn vị này, ông năm mươi tuổi; năm mươi tuổi để tất cả đầu tóc bạc trắng và những nếp nhăn cày sâu trên mặt, nhưng ông vẫn còn nguyên vẹn thái độ nồng nhiệt đối với đời sống của ngày trai trẻ. Thời gian về trước ông đã nổi tiếng với những câu chuyện như sau: Quan Ba Nhảy dù nhưng vẫn đánh một chiếc xe đạp thổ tả cọc cà cọc cạch rong chơi với một con gà ở đằng sau porte-bagages. Thú nuôi gà của ông đã lên đến cao độ đến nỗi ông ta mang biệt hiệu “Hùng gà chọi”.

Nghe tiếng một con gà nào đó ở Bà Điểm nổi danh vì ngón đòn, ông lọc cọc chiếc xe vượt qua một quãng đường dài lồi lõm sống trâu để chứng kiến cho được ngón đòn của gà... Hãy nghe ông “luận” về gà: Nó là một guerrier, đấy là một combattant, không bao giờ lùi không bao giờ chịu thua... Đến chữ “thua” ông đưa một quả đấm lên trời, mắt long lên sòng sọc. Đúng là hình ảnh của một con gà chọi. Chẳng hiểu thằng nào gán cho ông cái biệt hiệu thật đúng phong phóc!!! Nó là một tay gan lì! C’est un type! Dù có bị đánh lê nhê, máu me đầm đìa, hắn ta vẫn nhẫn nha chiến đấu… Có con gà bị đánh mù mắt, hắn ta mù nhưng vẫn lừa đối thủ để kẹp lấy chiếc cổ và thế là a-lê-hấp nó phản đòn ngay. Ông có thể luận về gà đầy đủ chi tiết, nhại lại thế đứng,một ngón đòn hay của con gà… Không có gì phải bất tiện, hai tay là hai cánh gà, hai chân biến thành một cặp chân tưởng như có đủ cựa nhọn, đầu cúi xuống, ông diễn tả nhiệt tình và chi tiếp hấp dẫn của mỗi trận đấu. Thế giới loài gà nếu biết được sự ái mộ nồng nhiệt đó chắc hẳn không bao giờ buồn phiền nếu ở trong tường hợp “à la casserole” hay “à la gamelle”… sau khi bị thua trận. Sau đá gà là rượu, rượu là nước của ông, chiếc bi-đông sau lưng bao giờ cũng đầy rượu đế ngâm vài cục đường phèn. Nhấp một tí rượu, cắn một miếng cóc nhỏ là đủ sức đi thêm một đoạn đèo, vượt một rặng núi. Dừng quân, cởi chiếc nón sắt, ông rút bi-đông làm ngụm rượu, đốt điếu thuốc, loại thuốc đen Mélia hay Bastos ngồi lim dim đôi mắt...

Anh lính cần vụ lân la đến hỏi:
– Trung Tá có ăn cơm không?

– Tớ đ... cần!
– Trung Tá có mệt không?

– Mệt chó nào được, ngày rút từ Lào về tớ chạy bộ suốt bao nhiêu ngày đêm cũng chẳng bõ bèm gì...
– Chết mẹ... – Tụi lính xì xào…

- Ông già lại nói chuyện bản Hiu-Siu thì chết cả lũ!

Đúng ngay bong! Ông bắt đầu kể chuyện Bản Hiu-Siu ở bên Lào...

– Lúc đó tớ là Thiếu úy, ban đêm Việt Minh ùa vào, dây kẽm gai giăng thấp chừng này, lính Bayonnette au canon! À la grenade… En assaut... Việt Minh lùa vào, mặc, tớ cứ tương lựu đạn đều đều...

Ông ta đứng dậy ngay trên sườn núi biểu diễn thế ném lựu đạn và đâm lưỡi lê, ngừng một chút để hớp thêm tí rượu. Thiếu tá cố vấn Mỹ đến hỏi một điều gì đó, ông cụt hứng gắt um:
– C... Đ.M cứ lẩm cà, lẩm cẩm cả ngày...


Trung Tá Đào Văn Hùng và viên Cố vấn Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù


Anh cố vấn de lui, mặt mũi thộn ra trông “quê” một cục. Ở Phú Thứ, Thừa Thiên năm 1967, ông chỉ huy tiểu đoàn tôi cùng Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù tiến đánh vào khu giải phóng của vẹm, lúc Tiểu đoàn 7 đụng trận, ông đứng trên thiết vận xa nhảy cỡn lên vì thích thú...
– Đấy, tớ biết ngay, các chú (Việt cộng) đang ở chỗ này, nhất định là ở chỗ này… Thằng Bảy đụng ở đây, tớ dàn cậu (chỉ tiểu đoàn trưởng tôi) ở chỗ này là đi đoong đời các chú, tớ nghiền… Nghiền nát các chú ấy.

Chữ “nghiền” được diễn tả bằng hai bàn tay bóp chặt vào nhau và kéo dài theo hơi thở, mồm ông méo hẳn lại để diễn tả cảnh tan nát của các anh Việt cộng. Đại loại là như thế, ông sống ở đời với thái độ “Tiếu Ngạo Giang Hồ”, nhân vật Lão Ngoan Đồng Chu Bá Thông chắc cũng đến độ của ông già sếp tôi mà thôi. Năm 1965 hành quân tại Đức Cơ khi rút ra Pleiku nghỉ, không hiểu bị lôi kéo thế nào ông đi theo mấy đại đội trưởng vào hội quán Phượng Hoàng để khiêu vũ! Lệnh ông tướng vùng bấy giờ cấm mặc quân phục vào hội quán, anh Quân Trấn Trưởng nói năng ra làm sao, ông nổi sùng...
– Đ.M! Hùng đi hành quân chỉ có mỗi bộ quần áo nhà binh, không cho tớ mặc đồ trận thì tớ cởi truồng sao?

Thuận tay ông đưa luôn một qua direct, anh Quân Trấn Trưởng nằm thẳng cẳng. Đóng quân ở Hương Trà, Huế, tiểu đoàn tôi làm tiệc mời ông ra hát. Hát không được thì tớ múa vậy! Nói là làm, ông đi một đường flammenco cũng lắc mông, lắc ngực, và kết thúc là một bài thuyết trình “Qu’est ce que l'armée?” Tiếp theo là những lời sỉ vả tàn tệ vua quan sĩ thứ người trong nước, ông nhớ đến ai ông chửi tơi bời hoa lá, chửi đích danh, chửi ngon lành, chửi như một cơn giận từ bao nhiêu lâu che dấu nay cho tuôn ra như dòng sông được mở... Đầu năm 1968, gần Tết Mậu Thân, lữ đoàn ông hết nhiệm vụ, từ Huế trở về Sài Gòn. Ông Tướng Khu Chiến Thuật nhắc ông ở lại Huế để đón Tổng Thống cùng Thủ Tướng, ông hạ ngay một câu:
– Tớ hết hành quân là tớ về, Tổng Thống đâu có thương tớ bằng mẹ đĩ được!

Nói xong ông leo lên tàu bay đi thẳng. Có một anh nhà báo lân la đến phỏng vấn...

– Xin Trung Tá cho biết ý kiến về cuộc hành quân vừa qua?
– Ý kiến hả?

Đợi cho anh nhà báo sửa soạn ghi chép, ông “tuyên bố”:
- Sướng nhất là đêm Noel tớ say rượu gọi máy truyền tin qua Bến Hải chửi Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh!!

Nhưng đằng sau những cơn say, những màn tiếu ngạo ồn ào trên, thật dễ dàng nhận được niềm thiết tha, mối nhiệt tình nồng nàn đối với quân đội và quê hương. Thật lạ lùng với hai mươi năm ở đơn vị tác chiến, thời gian bằng số tuổi của một gã trai trẻ, một gã trai trẻ cỡ tôi nhưng lòng hiu hắt như cơn nắng quái sắp tàn. Hơn hai mươi năm nhà binh với năm mươi tuổi, một mái tóc bạc trắng, ông vẫn có một nụ cười thật tươi để thêm vào câu chuyện. Thế nào là một cán bộ giỏi? Thế nào là những nguyên tắc căn bản để chỉ huy? Thế nào là DOC (Dirriger, Organiser, Controller) ông nói say sưa, dẫn giải từng điểm chi tiết về bổn phận của người Trung đội Trưởng, Đại đội Trưởng. Khói thuốc lá làm ánh mắt thành hiền hòa, ông nói sang sảng, trình bày mạch lạc. Ông gây nơi tôi một sự xúc động kỳ lạ, nỗi xúc động khám phá được niềm tin vẫn còn trong lòng một người giáo tóc bạc da nhăn với hơn hai mươi năm đi khắp rừng sâu núi cả quê hương. Hơn hai mươi năm gánh chịu cơn đau yếu đỏ lửa của tổ quốc, cơn đau yếu nhọc nhằn của dòng sống dân tộc chông chênh. Chiến tranh vẫn chưa đốn ngã niềm tin trong lòng ông... Tớ chỉ là Cai Hùng... Cai thật trẻ!!

Sau này ông bị ra khỏi binh chủng vì một lý do nào đó tôi không hiểu nhưng điều này chắc chắn là một vết thương lớn nhất trong đời ông. Ông im lặng ngồi trong chiếc phòng con nhìn xuống chân đồi doanh trại cười gằn uất nghẹn đau đớn. Làm sao nói cho hết nỗi cay đắng của người lính già khi phải từ bỏ đơn vị, binh chủng cùng sống trên hai mươi năm lúc tóc còn xanh như niềm hy vọng đến nay mái đầu nhuốm bạc trắng. Không những vì một tuổi già nhưng cũng là lớp sương giá chồng chất lên sau khỏang thời gian binh biến. Thường ngày trong cơn say ông hay mò đến văn phòng chúng tôi để tìm người nói chuyện, nhưng trong thời gian này ông ngồi im như một kiêu hãnh bị xúc phạm, tiếng hét được ghìm xuống giữa kẽ răng thành những tiếng cười gằn nhức nhối như lưỡi dao đâm vào qủa tim đang mở miệng cười.

Ông ra khỏi binh chủng, chỉ huy một đơn vị Bộ Binh nhưng vẫn mặc đồ ngụy trang và đội nón đỏ. Đâu còn là những kích thích về hình thức quyến rũ đối với ông. Nhưng phải nghe ông ta nói: “Tớ là Nhảy Dù... Tớ là Cai Hùng...” Tiếng “Nhảy Dù” nghe ngắn, chắc như xác định niềm hãnh diện có thật của một người đã sống hết đời cho tập thể. Sau một thời gian ở trung đoàn này ông bị tai nạn trầm trọng, tất cả cơ quan trong người bị đảo lộn. Ông phải chịu nhiều cuộc giải phẫu, thị giác trở nên yếu kém, mất phần lớn ý niệm về sự việc. Lúc chúng tôi đến thăm, ông không nhận ra, nhưng trong nỗ lực của trí nhớ, bỗng nhiên ông nhận ra Vinh “con”, viên sĩ quan nhỏ tuổi nhất được ông thương mến như con cháu. Ông nhận ra nó đồng thời với một giọng nói run run:

– Tớ lúc này chỉ thấy mờ mờ nhân ảnh!

Trong tận cùng của đổ vỡ, ông cũng không mất đặc tính khôi hài, dấu hiệu của tâm chất dũng mãnh dù hoàn cảnh đã đẩy đưa vào hố thẳm của tuyệt vọng. Sau này khi nhìn thấy được cảnh vật nhạt nhòa, ông đến trại thăm lại nhà cửa, hỏi thăm các hạ sĩ quan và lính cũ. Trí nhớ chưa phục hồi hẳn, ông mệt nhọc hỏi từng người với những câu nói rời rạc hỗn độn, sau cùng ông nói với tôi để xin người lính về giúp ông công việc riêng tại nhà. Lần đầu tiên nghe ông nói công việc liên quan đến gia đình. Khi tôi bảo người lính theo ông về nhà, ông vui vẻ ra mặt:

– Quý hóa quá, thế mới biết anh em Nhảy Dù luôn giúp đỡ nhau...!

Lòng tôi trùng xuống như cơn mưa của ngày đông buồn bã. Tiễn ông xuống đồi, bóng người lính già khuất bụi mờ. Sau kiếp người đằng đẵng gian lao cho Tổ Quốc một khỏang trống xám đặc bụi mù.

Phan Nhật Nam
Tháng 5-1969. Hậu cứ Long Bình

Hậu Từ: Về Trung Tá Đào Văn Hùng, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn II Nhảy Dù

– Sau 30/4/1975, lực lượng Cộng sản vào khu Ngã Ba Ông Tạ truy lùng và xét xử ông cùng gia đình. Do thương trận từ trước (bị mù mắt và tê liệt) nên bộ đội CS chỉ xử tử người con trai của ông tại Lăng Cha Cả ngay sáng ngày 30-4-1975.
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1605078635-dvhung1.jpg
Views:	0
Size:	51.1 KB
ID:	1751174 Click image for larger version

Name:	1605078653-dvhung2.jpg
Views:	0
Size:	76.9 KB
ID:	1751175
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (03-06-2021), huudangdo1 (03-06-2021)
Old 03-06-2021   #674
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,388
Thanks: 21,683
Thanked 38,136 Times in 12,871 Posts
Mentioned: 635 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7243 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Hành Quân Salem House Cam Bốt 161



Ðầu năm 1969, hải cảng Sihanoukville nhộn nhịp qua lại với những chiếc tầu chở hàng đến từ những quốc gia Ðông Âu. Hàng đoàn xe vận tải của công ty Hak Ly chờ bốc hàng, sau đó dùng đường số 4 đến Nam Vang. Ðoàn xe rẽ vào một kho tiếp vận quân sự ở ngoại ô thành phố, giao đồ tiếp liệu cho bọn cộng sản Bắc Việt.
Những kiện hàng bí mật chứa vũ khí, đạn dược được tiếp tục vận chuyển suốt đêm trên đường số 7, băng qua đồn điền cao-su đến vùng biên giới rậm rạp thuộc tỉnh Kompong Cham hay khu vực Lưỡi Câu. Khu vực này do đơn-vị Hậu Cần 70 chăm sóc, gồm nhiều kho lương thực tiếp vận yểm trợ cho các công trường 5, 7 cộng sản bắc việt và công trường 9 việt cộng để bọn chúng xâm lăng Miền Nam Việt Nam.
Tất cả vũ-khí, đạn dược vào đến lãnh thổ Quân Khu III và IV đều qua ngả Cambodia. Sau hai mươi mốt tháng bí mật xâm nhập, đơn vị SOG đã khám phá ra nhiều mật khu chứa tới 200 ngàn quân xâm lược CSBV và Việt-Cộng. Hành quân xâm nhập vào đất Miên có tên là Daniel Boon, đến mùa thu năm 1969 cải danh thành Salem House để bảo mật.

Sự hiện diện của bọn cộng phỉ Bắc Việt được xác định ngày 2 tháng Ba, 1969, khi một toán biệt kích SOG thuộc Bộ Chỉ Huy Nam (CCS) bị địch phát giác, truy kích kết quả chết hai quân nhân Mũ-Xanh Hoa-Kỳ là Trung-Sĩ William Evans và Micheal May. Xác của họ không tìm ra.

Tổng Thống Hoa-Kỳ Johnson ra lệnh cho pháo-đài bay B-52 bí mật thả bom khu vực Lưỡi Câu gây ra 73 tiếng nổ phụ. Chỉ có viên phi công và sĩquan navigator biệt mục tiêu của trận ném bom. Một tháng sau, Tổng Thống Johnson ra lệnh cho B-52 thả bom trên mục tiêu do tướng Abram đề nghị. Trung Ương Cục Miền Nam (COSVN) do một hàng binh chỉ điểm. Mục tiêu này cách Memot 14 dặm về hướng đông nam, trên đất Cambodia, cách biên giới một dặm. Trận đánh bom này xẩy ra ngày 24 tháng Tư, 1969.





Chuẩn Tướng Phillip B. Davision – Trưởng Phòng Nhì Cơ Quan MACV yêu cầu đơn vị SOG cho một đơn vị nhẩy vào thanh toán chiến trường sau khi trận ném bom B-52 chấm dứt. Ðại-Tá Cavanaugh ra lệnh cho Bộ Chỉ Huy Nam (CCS) chuẩn bị cho một đại đội Hatchet Force nhẩy vào.

Trong khi đó nơi Bộ Chỉ Huy Nam, nhiệm vụ được giao cho ‘Mad Dog Shriver’, một huyền thoại sống. Taị căn cứ Fort Braggs (Bộ Chỉ Huy LLÐB/HK) không ai biết đến đơn vị SOG cũng như hành quân Daniel Boon hoặc Salem House, nhưng đều biết Trung Sĩ Nhất Jerry Shriver mà bọn cộng sản Hà Nội gọi là ‘Chó Ðiên’.
‘Mad Dog’ Shriver cũng là người phát ra câu nói nổi tiếng trong lịch sử đơn vị SOG. Toán của anh ta bị địch bao vây, phi cơ điều không FAC cho Shriver biết ‘Tình hình coi bộ rất xấu’, anh ta trả lời tỉnh bơ ‘Không, không có gì đâu. Tôi phải đánh nhau với tụi nó tại chỗ tôi muốn – (Bị bao vây cứng bên trong lòng địch)’.

Sáng ngày 24 tháng Tư năm 1969, trong khi các phi cơ B52 cất cánh từ đảo Guam, Đại Đội Xung Kích Hatchet Force thuộc Bộ Chỉ Huy Nam (CCS) tập họp trên phi đạo Quản Lợi cách bộ chỉ huy trung ương cục miền nam khoảng 20 dặm. Ðại Đội Xung Kích này có nhiệm vụ vào thanh toán chiến trường, sau khi B-52 ném bom.

Năm chiếc trực thăng Green Hornet chỉ đem được hai trung đội vào vùng hành quân. Trung Đội 3 do Thiếu-Úy Bob Killebrew phải ở lại phi trường Quản-Lợi. Trung Đội 1 của Trung Úy Walter Marcantel và Trung Đội 2 do Trung-Úy Greg Harrigan nhẩyxuống bộ chỉ huy trung ương cục. Khi hai trung đội lên máy bay, các pháo đài bay B52 sửa lại đội hình lần cuối trước khi đến mục tiêu. Trận ném bom vừa xong, các trực thăng đáp xuống thả hai trung-đội xung kích rồi bay đi.

Rồi thì súng đạn vang dội nổ khắp nơi, các biệt-kích quân vội nhào xuống các hố bom hoặc nằm sau những thân cây mới bị B-52 đốn ngã để tránh đạn. Nằm cuối đoàn quân, Shriver gọi máy cho biết có khẩu đại liên của địch phiá trước bên trái. Khẩu này trấn áp không cho toán của Shriver ngóc đầu lên được,trong khi đó Ðại Úy Cahill, Trung Úy Marcantel và y-tá Trung Sĩ Ernest Jamison báo cáo cũng bị địch đàn áp. Jamison chạy ra để cứu người bị thương bị bắn gục tại chỗ.

Không ai có thể di chuyển được. Nổi điên, Shriver cùng một biệt kích quân Thượng chạy lên để thanh toán khẩu đại liên. Cả hai biến mất, không tìm ra xác. Jamison nằm chết cách hố bom chừngvài thước, Ðại Úy Cahill nghe từng tràng đạn AK, B-40 của địch cầy nát mặt đất, khi ông ta ngóc đầu lên, một viên AK xuyên qua miệng, đi ngược lên trên làm hư một mắt. Bị thương nặng, ông ta gục xuống.

Trong một hố bom khác, Trung-Úy Harrigan đang điều khiển trực thăng võ trang bắn rocket và minigun cản những đợt xung phong của địch. Harrigan báo cáo đã thiệt hại hơn nửa trung đội chết hoặc bị thương. Nhờ bìnhtĩnh điều không, Trung-Úy Harrigan cầm cự được khoảng 45 phút, sau đó trúng đạn tử trận.

Ðại-Úy O’Rourke bay trên đầu muốn xuống nhưng chiếc trực thăng chở ông ta không qua khỏi màn lưới lửa của địch quân. Trung-Tá Earl Trabue, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy Nam cũng không xuống được, biết phe ta đang bị tàn sát ở dưới họ đành bó tay.
Cuối cùng chỉ còn Trung-Úy Marcantel còn sống, anh ta điều khiển luôn mất chiếc B57 Canberra của Úc-Ðại-Lợi thuộc Phi Đoàn số 2 cất cánh từ Phan Rang vào đánh giải vây cho trực thăng vào đem rađược Trung-Úy Marcantel đã bị thương cùng chín biệt kích quân Thượng. Ba chiếc khác vào đem ra được thêm 15 quân nhân bị thương cùng xác Trung-Úy Harrigan. Cuộc hành quân coi như chấm dứt

Ðại-Tá Cavanaugh đến thăm hỏi các quân nhân sống sót, sau đó nói với Tướng Davidson ‘Nếu tôi biết kết qủa sẽ như vậy, tôi sẽ không đưa họ vào chỗ chết’. Tướng Davidson nhận trách nhiệm về chuyến hành quân vào bộ chỉ huy Trung Ương Cục Miền Nam. Trung Úy Marcantel bình phục, ông ta chết khoảng sáu tháng sau trong một chuyến nhẩy dù trong căn cứ Fort Davens, tiểu bang Massachusetts. Ðại-Úy Cahill giải ngũ vì vết thương. Xác Ernest Jamison thâu hồi được ít lâu sau. ‘Mad Dog’ Shriver cho đến nay vẫn không tìm ra xác.

Ðược báo cáo về số tổn thất của đơn vị SOG, Tướng Abrams ra lệnh cho cơ quan MACV phân tích về sự thiệt hại của đơn vị SOG trong vòng hai tháng đầu năm 1969. Kết quả 15 quân biệt-kích Mũ-Xanh Hoa-Kỳ chết hoặc mất tích, 68 bị thương và mười trực thăng bị rớt. Ðổi lại, biệt kích SOG tiêu hủy 13 xe vận tải Molotova, giết 1400 tên cộng phỉ xâm lược, chỉ điểm mục tiêu cho phi cơ đánh bom hủy diệt các vị trí đóng quân của bọn cộng phỉ 455 lần.

Tổng Thống Nixon ra lệnh cho B-52 thả bom bí mật lần thứ ba trên lãnh thổ Cambodia đầu tháng Năm. Lần này trên nhiều mục tiêu trong đó co căn cứ của trung-đoàn 27 Cộng-Sản Bắc Việt. Toán biệt-kích Illinois xâm nhập vào mục tiêu, phối kiểm trận đánh bom. Toán trưởng là Trung-Sĩ Ben Thompson, toán phó là Trung-Sĩ George Bacon III xuống mục tiêu hai mươi phút khi trận đánh bom chấm dứt.

Chưa được nửa ngày, toán biệt kích vừa bắn vừa chạy lấy thân, điều này chứng tỏ bom thả trên mục tiêu có nhiều địch quân. Vài tháng sau, ngày 25 tháng Tám, toán biệt kích Florida do Trung-Sĩ Ken Worthley làm trưởng toán xâm nhập vùng đông bắc Cambodia, nơi tình nghi có trung-đoàn 66 CSBV. Toán này có thêm Trung-Sĩ Bob Garcia, Dale Hanson và bốn biệt-kích quân Việt-Nam, tổng cộng bẩy quân nhân.

Họ xuống bãi đáp an toàn vào lúc trưa và bắt đầu leo lên một dốc núi cao. Ðến hai giờ chiều, toán biệt kích đang ngồi nghỉ trên một sườn núi, Garcia trông thấy hai lính Bắc Việt đang dò tìm dấu vết của họ để lại. Anh ta bắn gục một địch quân, rồi thì đạn AK nổ tứ phiá, thì ra cả một đại đội lính Bắc Việt đang dàn quân ra bao vây toán biệt kích.
Trong khi chạy, người hiệu thính viên Dale Hanson trúng một viên AK mất ngón giữa bàn tay trái, vừa chạy vừa băng bó, Garcia phải thay anhta mang máy. Ðến gần tối, trưởng toán Worthley quyết định trốn trong một thung lũng qua đêm, họ đã rải hơi cay mắt để đánh lạc hướng chó.

Sáng sớm hôm sau, họ băng qua khu rừng, khoảng 9:30, toán đang di chuyển trên một sườn đồi bỗng người dẫn đạo ra dấu im-lặng. Worthley bò tới trước trông thấy hai tên lính Bắc Việt nơi một con đường mòn. Họ khai hoả giết cả hai tên, biệt kích quân hướng đạo bị thương nơi tay.

Quần áo cho thấy một tên địch quân là cấp chỉ huy, đeo súng lục có thể mang cấp bậc đại-tá, tên kia có lẽ là cận vệ. Toán biệt kích lấy được túi đeo da có đựng tài liệu của tên sĩ quan Bắc Việt. Ðơn vị SOG sau khi xem xét tài liệu cho biết toán Florida đã giết được một tên sĩ quan tình báo cao cấp của địch.

Tất cả sau đó đều được trực thăng thả dây cấy cứu kéo lên. Khi về đến Kontum, một chiếc ‘Chim Ðen’ C-130 của đơn vị SOG đến đem chiếc túi da của tên sĩ quan Bắc Việt về Saigon. Tài liệu trong túi da có một danh sách những điệp viên nằm vùng của địch tại Miền Nam.

Tài liệu này cũng xác nhận về chuyện Thái Khắc Chuyên bị Ðại Tá Robert Rheault cựu Chỉ Huy Trưởng Liên Ðoàn 5 LLÐB/HK ra lệnh hành quyết vào tháng Năm 1969. Vài tháng sau, Ðại Tá Rheault được tự do, ông ta cũng không biết nhờ công của toán biệt kích Florida.

Trong một chuyến đàu tiên xâm nhập Cambodia năm 1970, toán biệt kích Vermont trên Kontum nhẩy xuống khu rừng rậm rạp trong tỉnh Ratanakiri ngày 5 tháng Giêng tìm kiếm căn cứ binh trạm của địch. Trưởng toán là Trung-Sĩ Franklin ‘Doug’ Miller, người biệt kích hướng đạo dẫm lên một sợi dây giăng ngang đường, tiếp theo là một tiếng nổ lớn làm bốn biệt kích quân bị thương.

Trong phút chốc một nửa toán viên bất khiển dụng và địch đã phát giác sự hiện diện của toán. Miller phụ giúp băng bó cho những người bị thương rồi ra lệnh cho toán phó dẫn toán lên đồi lập vị trí phòng thủ, còn anh ta ở lại, đương đầu với địch quân.
Vừa bắn cầm chừng vừa lui về chỗ phòng thủ, Miller liên lạc yêu cầu triệt xuất toán, sau đó dẫn toán di chuyển đến bãi trực thăng nơi một hố bom lớn cách đó khoảng 175 thước. Khi chiếc trực thăng định đáp xuống bốc toán biệt kích, địch bắn lên xối xả đuổi chiếc trực thăng bay ra chỗ khác rồi tiếp tục tấn công toán Vermont.

Toán biệt kích núp trong hố bom chống trả quyết liệt mặc dầu tất cả đều bị thương, kể cả trưởng toán Miller trúng đạn AK nơi tay trái. Anh ta vẫn tiếp tục hướng dẫn toán đến một bãi đáp trực thăng khác, sau đó được một toán cấp cứu Bright Light đem ra an toàn. Miller đem về cho đơn vị SOG huychương danh dự thứ bẩy.

Vùng đông bắc Cambodia rất ‘nóng’ (nguy-hiểm). Ngày 9 tháng Giêng, một toán biệt kích thuộc bộ chỉ huy Nam do Trung-Sĩ Nhất Larry Barlett làm trưởng toán, toán phó là Trung-Sĩ Richard Thomas trên đường di chuyển đến bãi đáp cách nơi toán Vermont bị tấn công khoảng 30 dặm về hướng nam. Toán này bất ngờ bị một đơn vị địch tấn công chết cả hai quân nhân Mũ-Xanh Hoa-Kỳ. Toán cấp cứu Bright Light vào chết thêm một biệt kích quân Thượng trước khi đem xác họ ra.

Ngày 11 tháng Ba năm 1970, đảo chính bên Cambodia, hàng ngàn người Miên đập phá toà đại sứ Bắc Việt và Việt-Cộng ở Nam Vang, Hoàng-Tử Sihanouk chạy qua tỵ nạn bên Pháp. Ba hôm sau, toán biệt kích Pennsylvania do Trung Úy Jerry Poole làm trưởng toán xâm nhập vùng rừng núi trong ttỉnh Ratanakiri. Toán này có thêm hai quân nhân Hoa Kỳ là Trung Sĩ Nhất John Boronski, Trung-Sĩ Gary Harned.

Sau ba ngày hoạt động, họ được một trực thăng vào bốc. Khi chiếc báy may bay lên cao khoảng 100 bộ, trúng một quả B-40 nổ tung, tất cả quân nhân trên máy bay gồm toán biệt kích Pennsylvania cùng phi hành đoàn gồm Ðại úy Michael O’Donnell, Chuẩn Úy John Hosken, Rudy Becerra, và Berman Gande Jr. đều thiệt mạng. Không thâu hồi xác họ được.

Tin tức tình báo cho biết bọn cộng sản Bắc Việt đang mở rộng vùng kiểm soát trên đất Miên về phiá bắc và tây. Bọn chúng chiếm lấy tỉnh Svay Riêng trong vòng mấy ngày, trong khi đơn vị Bắc Việt khác lấn xuống phiá nam giao tranh với quân đội Cambodia vùng Mỏ Vẹt.

Trong vòng hai tuần lễ, bọn cộng sản Bắc Việt chiếm được hai trong số mười bẩy tỉnh của Miên và bao vây thêm năm tỉnh khác, yểm trợcho quân Khmer Ðỏ. Chính phủ mới bên Miên báo động cho thế giới biết về sự xâm lăng ngang ngược của bọn quân đội Bắc Việt, và Hoa Kỳ bí mật gửi sang Miên 3000 khẩu AK.

Trong trung tâm nước Cambodia, ba Trung-Sĩ Troy Gilley, Ben Lyons, và Charles Chapin bí mật xâm nhập để phối kiểm tin tình báo về một binh trạm dành cho sĩ quan cao cấp Bắc Việt. Họ được bốc ra và ba hôm sau thả xuống một nơi gần những chòi dành cho cấp lớn của địch. Họ gặp lính Bắc Việt di chuyẻn cùng với voi chở đồ. Quân biệt kích phục kích đánh bọn lính bắc việt một trận tơi tả, sau đó họ gọi trực thăng lên bốc về căn cứ an toàn.

Troy Gilley về Saigon báo cáo về chuyến đi, anh ta biết thêm đơn vị Bắc Việt có voi tải đồ bị chận đánh có nhiệm vụ hộ tống hai tướng lãnh Bắc Việt và cả hai đều chết trong trận phục kích vừa qua. Khi bắt đầu trận đánh qua đất Miên do Quân-Lực VNCH và Hoa-Kỳ đảm trách, đơn vị SOG ra lệnh đưa mấy toán biệtkích ngoài Ðà-Nẵng và trên Kontum vào Ban Mê Thuột trợ lực cho bộ chỉ huy Nam (CCS).
Sau đó, ngày 30 tháng Sáu, 1969, đơn vị SOG chuyển năm toán biệt kích ra Bộ Chỉ Huy Bắc, năm toán khác lên Bộ Chỉ Huy Trung, giao đất Miên hoàn toàn do QL/VNCH đảm trách.

(Sài Gòn trong tôi/ A-244 Dak Pek/ Posted by Nguyễn Phúc An Sơn)
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	157763392_2308103246001161_2892546019227188108_n.jpg
Views:	0
Size:	80.2 KB
ID:	1751580 Click image for larger version

Name:	157511727_2308104602667692_6691435074792808144_o.jpg
Views:	0
Size:	951.9 KB
ID:	1751581 Click image for larger version

Name:	157861495_2308100506001435_829231377219936645_o.jpg
Views:	0
Size:	389.5 KB
ID:	1751582
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
huudangdo1 (03-06-2021)
Old 03-06-2021   #675
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,388
Thanks: 21,683
Thanked 38,136 Times in 12,871 Posts
Mentioned: 635 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7243 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default SINH NAM . . . TỬ BẮC



Kinh dâng anh linh các Chiến hữu:

Nguyễn Chuyên - Ðinh Như Khoa - Nguyễn Hữu Thảo
và các Chiến hữu đã yên nghỉ trong lòng đất mẹ.

Cá kình NGUYỄN VĂN TRÂM

(Sở Bắc và Sở Khai Thác Ðịa Hình)

Buổi chiều cuối Hạ bên bờ biển Mỹ Khê, trong ngôi nhà nghỉ mát yên tịnh. Nó không ồn ào rầm rộ như một cuộc hành quân qui mô, nhưng rất quan trọng, tỷ mỷ cẩn thận với những trang bị đặc biệt và mìn định giờ.

Tại căn cứ nầy có anh Ba là người điều khiển và huấn luyện Toán Công Tác cùng với ba người Mỹ tên Bil, Dan và Bob phụ trách kỹ thuật và thực tập. Anh Phan điều khiển và huấn luyện Toán Biệt Hải.

Toán Công Tác người nhái có nhiệm vụ phá hoại gồm bốn người: Tôi (anh Tư) và anh Năm, hai đứa chúng tôi từ Liên Ðoàn 77 Sở Khai Thác Ðịa Hình, còn anh Sáu và anh Bảy do Hải Quân gởi qua. Toán Biệt Hải gồm mười hai người có nhiệm vụ lái tàu hoặc thuyền đưa Toán Công Tác đi hoạt động dẫn đường đi và đón về.

Sau nhiều tháng thực tập, nghiên cứu địa hình, địa thế, không ảnh, kiểm soát lại dụng cụ, hôm nay là thời điểm xuất phát vào cuối mùa Hạ năm 1962.

Dưới ánh sao lờ mờ, một chiếc thuyền lớn trang bị máy chạy dầu với lưới đánh cá nằm gọn dưới cột buồm. Thủy bàn gần tay lái. Một chiếc thuyền cao su chưa bơm hơi và chiếc thuyền gỗ nhỏ sức chứa độ mười ngưới. Ở giữa thuyền gỗ có một lỗ vuông thòng xuống nước là chỗ để gắn máy nổ nhỏ cho Toán Công Tác và người hướng dẫn di chuyển trong sông. Thuyền được cải trang thành thuyền đánh cá của ngư dân trong vùng trên bờ nhìn xuống không thể phân biệt được là thuyền của Toán Công Tác. Toán nầy thương xuyên công tác ở Vịnh Hạ Long, Móng Cái, Bạch Long Vĩ.

Toán Công Tác được trang bị gọn và nhẹ gồm: Hai đèn bấm điện tử để liên lạc giữa hai thuyền. Súng lục để tự vệ khi cần. Mìn đặc biệt định giờ có thể sử dụng từ 5 phút đến 30 ngày. Một đơn vị hỏa lực nhỏ cho tập thể sử dụng khi cần để tháo chạy.

Màn đêm phủ xuống, những bóng đen bắt tay từ giã trong tiếng "Good luck" của ba anh bạn Mỹ.

Tiếng sóng vỗ nhẹ vào mạn thuyền nghe lách tách,thuyền hướng mũi ra khơi. Bầu trời đầy sao, nhìn quanh là biển cả bao la, với bản tính tự tin, dày dạn với công tác thường xuyên nên một số đã an giấc. Riêng mấy anh em chúng tôi còn ngồi hướng tầm mắt về phía trước tuy chưa phải lúc cảnh giác địch vì một đêm và một ngày sau thuyền mới tới địa điểm công tác. Mặc dù vậy, chuyến đi bí mật vào đất địch, đầu óc luôn suy nghĩ kỹ lại những việc phải làm trong đêm mai. Ðang triền miên suy nghĩ, có tiếng nhắc nhở các anh nên nghỉ đi để đêm mai mà công tác chứ.

Chiều ngày hôm sau, thì anh thuyền trưởng và thợ máy nói đến rồi. Lúc nầy thuyền còn đang ngoài hải phận quốc tế từ từ tiến vào bờ, khi nhìn thấy lờ mờ một giải màu xanh đậm thì đúng chín giờ tối. Thuyền lớn thả neo, thuyền máy nhỏ đã được hạ thủy. Nhanh nhẹn mà không gây một tiếng động. Bốn chúng tôi qua thuyền nhỏ cùng ba người hướng đẫn viên nhắm cửa Sông Gianh tiến vào. Tiếng máy nổ rất nhỏ mà thuyền lướt đi rất nhanh đã qua khỏi khu Phà, chúng tôi quan sát thấy trên bờ mấy bóng đèn như đom đóm.

Yên tâm, chúng tôi bắt đầu mang trang bị, dụng cụ sẵn sàng. Khi chúng tôi nhìn qua ống dòm thấy bóng đèn xanh nhỏ phía trước. Nếu không để ý kỹ, nó như một ngôi sao trong đêm tối phía dưới là ba bóng đen đậm, đúng là tàu hải quân Cộng sản rồi, chúng đang neo tại vị trí đúng như trong không ảnh. Cho thuyền chạy qua để quan sát thật kỹ, trở lại ghi nhận điểm tiếp đón, rồi quay lại điểm thả. Anh Bảy xuống trước, đến tôi, sau cùng là anh Sáu. Lặng lẽ bơi đến gần tôi thấy rõ mục tiêu mới lặn để khỏi lạc vị trí. Tôi lặn tới gắn mìn vào thân tàu phía dưới gần chân vịt là nơi có buồng máy.

Khi tôi bắt đầu tìm hướng lặn ra xa thì thình lình một tiếng nổ lớn vang lên. Tôi cảm thấy đầu óc choáng váng rồi bất tỉnh một hồi lâu. Khi tỉnh lại tôi biết là mìn nổ quá sớm. Nhờ những lườn tàu nằm cách nhau khá xa nên tôi đã thoát chết. Kế hoạch đã bị lộ. Tôi cố gắng trấn tĩnh tinh thần lặn tới vị trí tiếp đón. Khi đã xa vừa nhẹ trồi đầu lên để quan sát thì thuyên tiếp đón đã không còn nữa, lại nghe một tiếng la thất thanh ở trên bờ và tiếng chân chạy vội, tôi liền lặn ra xa bờ. Lúc nầy đầu còn choáng váng căng thẳng, chưa tính lên bộ hay tiếp tục đi dưới nước. Quyết định là phải thoát bằng đường bộ, ngày trốn nghĩ tối đi. Từ vị trí công tác vào sông Bến Hải chỉ có một trăm cây số.

Càng lo khi nghe tiếng máy động cơ của tàu địch. Nguy rồi, đèn của địch chiếu sáng rọi quét toàn vùng và di chuyển dần ra cửa biển. Khoảng cách giữa tôi và tàu không quá ba mươi thước. Hễ khi ánh đèn quét về phía tôi, thì tôi lặn xuống, ngửa mặt nhìn lên khi không còn ánh sáng, ngoi lên mặt nước quan sát. Cứ thế nhiều lần như vậy. Giữa khoảng thời gian nầy tôi nhìn thấy hai chiếc xà lan không người tôi liền đứng vào giữa khe ẩn nấp. Aùnh sáng đèn vẫn tìm kiếm, càng lúc tàu chạy càng xa dần cho đến khi yên lặng. Tôi lần mò ra phía sau. Cuối xà lan thì giật mình vì hai chiếc thuyền của dân cột gần đó. Im lặng quan sát hồi lâu thì ra trên thuyền không có người. Bơi nhẹ đến gần. Một chiếc có mui kín, chiếc bên cạnh không mui, nhìn vào khoan thuyền, một tia hy vọng mỏng manh, tôi liền nhẹ nhàng nhổ cây sào lên, đẩy ra giữa giòng sông mới trèo lên thuyền. Dưới cái nón lá là cái rổ có ít tôm, rổ thứ hai là cá nhỏ, thực phẩm đây rồi. Nắng nóng mùa Hạ cứ phơi khô, gặm nhắm dần cũng được mấy ngày. Dấu vật dụng xuống dưới chổ đứng, tôi lắp chèo vào. Lúc nhỏ tôi đã thạo chèo ghe. Cứ chèo ra ngoài hải phận quốc tế thì yên tâm. Trong người độc nhất chiếc quần xà lỏn. Lấy nón đội lên, nhờ xuôi nước nên thuyền đi khá nhanh.

Trời đêm ba mươi tối đen như mực, thuyền đã ra gần cửa biển. Bất thình lình hai ngọn đèn pha chiếu sáng ngay vào thuyền của tôi. Nguy rồi, bọn chúng đã đón ở cửa sông. Thoáng nghĩ nhanh. Ngồi xuống thả bình hơi, thủy bàn, đồng hồ chỉ còn lại cây súng lục. Dự tính ít nhất cũng hạ được mấy tên, dành cho mình một viên. Suy nghĩ đổi thế thì lỗ quá. Qua bao nhiêu tháng, năm được đào tạo, học tập, huấn luyện mà trả với cái giá như thế sao? Ðến lúc nào đó quá sức chịu đựng thì tự sát. Nhưng ánh đèn pha chói sáng choang không nhìn thấy tên nào cả, đành phải thả súng xuống nước luôn.

Có tiếng hỏi từ trên tàu: Ai? Ði đâu đó?

Tôi trả lời: Tôi đi mừng lưới.

Hỏi: Tại sao đi có một mình?

Trả lời: Hôm nay vợ con bệnh, mừng chung với người ta.

Dưới ánh sáng đèn pha chúng đã phát hiện ra cái áo cao su và chân vịt (chưa kịp thả, có thả nó cũng nổi trên mặt nước) dưới chổ đứng của tôi nên chúng la lên tên Biệt Kích đây rồi. Không biết bao nhiêu tiếng lên đạn, sẵn sàng nhả nạn nếu tôi có hành dộng gì. Chưa tính ra phải làm gì trong lúc cùng, thì bốn, năm tên nhảy qua thuyền đánh đập tới tấp vào người tôi, bảo đầu hàng.

Bọn chúng lấy giây trói khuỷu cánh tay tôi lại đưa vào bờ. Hai tên cầm súng chỉa vào tôi và cầm chắt sợi giây thừng khoảng cách 3, 4 thước. Trời vẫn chưa sáng. Hừng đông dẫn tôi đi, sáng ra thì chúng bịt mắt. Trong lúc khập khễnh từng bước, bên tai nghe tiếng nói của dân đi làm hỏi ai đó các anh : Biệt Kích đó. Có tiếng ồ, to béo quá, đen thui. Ðến khi chúng nó bảo dừng lại, ngồi trên chiếc ghế, trói vào một cây cột. Không nghe tiếng nói, mà chỉ nghe tiếng chân đi lại nhiều. Chiều thì chúng đưa tôi lên vào trại Quảng Bình. Phòng nhỏ hôi hám, lại bị cùm cả hai chân, chúng mới mở mắt cho tôi. Phần ăn là bát cơm gạo lức đỏ, mấy cọng rau muống, làm sao nuốt vô được. ôn lại càng thắc mắc. Tại sao qua bao nhiêu ngày tháng tôi và Bill đã kiểm tra thử đồng hồ rất chính xác. Vậy tại sao?

Không kể ngày đêm chúng đều kêu lên hỏi cung. Trước mặt là cái bàn nhỏ, bàn đối diện là năm tên hỏi cung, hết tốp nầy đến mấy tên khác. Chúng hỏi đơn vị, nơi xuất phát, bao nhiêu người, nhiệm vụ làm gì ?

Tôi chỉ trả lời ra thám sát bến phà Sông Gianh, đo độ dốc bờ sông, mức nước, độ sâu. Trách nhiệm cấp trên giao cho tôi chỉ có vậy thôi. Còn để làm gì thì tôi không biết. Vì tôi bị bắt tại cửa sông mà.

Mở ngoặc ở đây một tí. Chúng hỏi tôi trong Nam ăn tiêu chuẩn bao nhiêu? Ngẫm nghĩ hồi lâu tôi trả lời: Tiêu chuẩn là gì? Xã hội tự do làm gì phải có tiêu chuẩn. Tên ngồi giữa đập bàn cái rầm, làm gì có ăn uống bừa bãi vậy. Rõ ràng mấy tên nầy đều bị mù quáng cả trong sinh hoạt.

Trải qua đã hơn mười ngày. Chúng không khai thác được gì ở tôi. Cuối cùng chúng đưa toàn bộ vật dụng hình ảnh ra chứng minh và nói rằng anh là một người đại ngoan cố, tất cả đều bị bắt hết rồi. Gây tội lỗi trong Nam chưa đủ còn ra phá hoại thành quả Xã Hội Chủ Nghĩa ở miền Bắc! Cuối cùng tôi nhận là ra phá tàu hải quân.

Một trò hề mà tôi đã ý thức được như sau:

Một người độ hơn 50 tuổi, tự giới thiệu là luật sư, cùng đi với một người nữa độ chừng 30 tuổi, xưng là thư ký. Mỉa mai quá! Thư ký mà mang xắc cốt công an. Tôi cũng thừa biết CS làm gì có luật để mà cãi chứ, mà có phát biểu cũng phải nói theo đường lối CS mà thôi. Ông ta nói một hơi. Tôi liền trả lời. Việc tôi làm đã rõ ràng, không cần phải biện hộ. Tự bản thân tôi trả lời cũng đủ rồi. Mấy lần sau trong câu nói của luật sư như khẩn thiết, cho nên tôi nói nhiệm vụ của ông được họ giao phó thì tùy, hiểu biết như thế nào thì nói như thế đó, tôi không xin xỏ, không bào chữa, vì tôi làm việc cho Tổ Quốc, thi hành nghiêm chỉnh kỷ luật Quân đội đã giao phó.

Hai mươi ngày sau thì mở phiên tòa.

Tám giờ sáng, chúng còng tay tôi và dặn nếu trên đường đi mà đồng bào có hành động gì thì không được chống đối lại. Ðến đây tôi mới biết mọi người đều bị bắt. Không có anh Năm và anh Bảy. Sau nầy ở chung trại tôi mới biết anh Bảy chết tại chỗ vì mìn nổ, còn anh Năm tử thương sau khi chống trả quyết liệt với chúng trên biển. Các anh kể lại rằng khi biết bị lộ, nhân viên thuyền nhỏ chạy ra thuyền lớn nhổ neo chạy thoát. Thuyền chạy cả máy lẫn buồm suốt đêm hôm đó cho đến gần trưa hôm sau thì tàu Hải quân CS chạy máy lớn hơn nên đuổi kịp, ban đầu thì chúng nó bắn bao vây, cố ý muốn bắt sống tất cả. Anh em trên thuyền bắn trả lại bằng trung liên BAR, súng phóng lựu. Hai bên vừa chạy vừa bắn nhau như trong phim.Vũ khí trên tàu CS thì lớn hơn và đầy đủ, con bên thuyền thì chỉ bắn để phòng thân, cuối cùng hết đạn. Lúc nầy anh Năm trúng đạn, vài người khác bị thương, quyết định của thuyền trưởng là lao mũi thuyền đâm vào tàu địch, hai bên cùng tan vỡ. Vị trí lúc nầy gần Cồn Cỏ, nơi ranh giới Nam - Bắc. Tàu Hải quân máy mạnh, nên nhanh hơn. Thuyền của ta luồn lách mãi sau cùng bị tàu địch càn lên chìm. Lập tức chúng bắt những người còn sống đưa lên bong tàu phủ bạt kín, vội vã trở ra Bắc.

Thường trong cái xui, còn có cái hên cho một người. Anh ta lặn núp vào trong cánh buồm. Vì đây là ranh giới giữa hai bên, bọn chúng sợ quân ta có thể tấn công nên vội vàng rút lui. Anh ta sống lênh đênh trên biển cả một ngày một đêm với một tấm ván thuyền, và vớt được vài trái cam. Nhờ tàu Hải Quân mình đi tuần, anh ta cởi áo lót vẫy và được Tàu Hải Quân ta cứu thoát.

Trở lại phiên tòa quân sự Quân Khu IV. Viên Trung tá chánh án, hai Ðại úy phụ thẩm, viên Thiếu tá Viện Kiểm Sát, một Thư ký, hội trường đông nghẹt người. Chúng bắt loa ra cả sân Vận Ðộng cho dân chúng nghe. Quay phim, chụp hình. Mục đích của chúng bày trò cho thật to chuyện để nói với thế giới là miền Nam xâm phạm miền Bắc.

Ghê rợn nhất là lời buộc tội của viên công tố, thôi thì đủ điều để mà phát biểu, gán ghép bao nhiêu điều ác cho Chánh phủ VNCH. Hai luật sư biện hộ cho hơn mười người đều nói theo bản luận tội, nói là biện hộ cho nó có lệ thôi, chớ chế độ Cộng Sản làm sao dám đưa luật ra mà cãi, dám nêu lên cái đúng cái sai nếu không muốn gỡ lịch hàng năm. Phiên tòa kéo dài hai ngày đêm. Trước khi nghị án, tôi phát biểu một công dân sống trong chế độ phải làm tròn nhiệm vụ, kỷ luật Quân đội, phải thi hành trách nhiệm được giao phó. Việc tôi làm đã rõ ràng. Tòa xử như thế nào thì tùy tòa mà thôi.

Uất ức, tức tối muốn điên cả cái đầu. Nếu phá được cả ba chiếc tàu không bị lộ thì phiên tòa hôm nay dành cho bọn chúng, chứ không phải mà anh em Chiến hữu chúng tôi.

Kết thúc phiên tòa: Tôi, tù chung thân; anh Sáu, tù 20 năm; thuyền trưởng, tù 16 năm; thuyền phó, tù 6 năm; thợ máy kiêm hướng dẫn viên, tù 18 năm; hai anh tù 5 năm; bảy anh tù 3 năm; một anh tù 2 năm vì anh này chưa đến 18 tuổi. Bản án là một trò hề. Hai năm hay chung thân đều cùng chung một số phận ở tù từ 18, 20, 22 năm mới ra tù..

Sau đó chúng đưa đi các trại tù lao động khổ sai. Thôi thì không kể xiết những cảnh lao lý cực hình mà bọn chúng đã hành hạ chúng tôi. Ðúng! Ai có nếm mới biết mùi. Tôi muốn nêu lên vài điểm để làm sáng tỏ vấn đề thực tế cho những ai còn mơ tưởng về chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa nó ác độc như thế nào.

Chúng tôi đã trải qua các trại như Sơn Tây, hai lần trại Hà Giang thường gọi là cổng trời. Hà giang Bắc một đi có, về không. Trại Phú Lu Lào Cai, Tuyên Quang là trại cuối cùng. Về đây vì CSVN sợ Trung Quốc tấn công.

Quá trình mấy chục năm trong lao tù tàn độc dã man của CSVN, tôi nêu lên đây những tình thần tranh đấu bất khuất, những thương yêu đùm bọc lẫn nhau trong hoàn cảnh cùng chung số phận.

Ðiển hình và quyết liệt nhất là vụ tuyệt thực bảy ngày năm 1973 của anh em chúng tôi tại Phu Lu, Lao Cai.

Ngày ấy lên hội trường họ cho chúng tôi biết đã ký Hiệp Ðịnh Paris. Lúc nào phần thắng cũng thuộc về CSVN. Theo chủ trương của Ðảng. Chánh phủ, một số cán bộ lên hướng dẫn cho chúng tôi học tập, trong đó có vấn đề gọi là bồi dưỡng, rêu rao là nhân đạo nhằm mục đích nếu sau nầy có được trao trả bớt phần nào với bộ xương cách trí, da bọc xương, một bóng hình còn di động được tố cáo tội ác dã man của chế độ lao tù Cộng Sản.

Họ đủ điều thuyết phục chúng tôi, bày trò bàn thờ Tổ quốc rồi tuyên thệ không gây thêm tội ác, cũng như phá hoại các công việc của chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa.

Trước mặt họ chúng tôi cũng ừ hữ, gật, cũng hứa hẹn, vì đang còn trong cái thế phải vờ chấp nhận. Làm thế nào mà họ có thể hiểu hết được trong tiềm thức của chúng tôi. Miễn làm sao được đặt chân lên miền Nam đã.

Họ giết chết cha mẹ, họ hàng, anh em, vợ con của những người dân vô tội trong dịp Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968. Mối thù không đội trời chung với Cộng sản.Lúc nầy là thời điểm căng thẳng, bốn phía chòi canh bốn cây đại liên sẵn sàng nhả đạn tiêu diệt, nếu chúng tôi bạo động, và toán tù hình sự sẽ là vật hy sinh trước. Sở dĩ vì sao chúng tôi biết được tin tức nhờ anh em chúng có liên lạc được với tù là những phần tử bất mãn, oán hờn chế độ Cộng Sản thông tin cho chúng tôi biết để đề phòng.

Từ đó chúng tôi tuyệt thực tranh đấu đòi trao trả, vì anh em đã nghe đơn vị Dù được trao trả rồi.

Hàng ngày tên công an trực đưa thức ăn vào đều bị anh em la ó, phản đối, tên công an đã nói rằng tôi vào đây để nghe các anh chửi bới, các anh không ăn thì đưa về. Sau đó chúng dở trò thâm độc ly gián anh em để hành động dã man hầu dập tắt tinh thần đấu tranh đang dâng cao.

Tên công an tự giới thiệu là người của Bộ đưa xuống tuyên bố "hôm nay các anh chuyển trại" bắt tất cả hơn trăm người tập hợp, chung quanh là bộ đội có võ trang với tư thế sẵn sàng để đàn áp. Chúng kêu tên từng người lên xe, năm chiếc xe bắt đầu chuyển bánh. Chúng sắp đặt trước, chiếc xe đầu chở 21 người, chúng nghi là có khả năng lãnh đạo, trong đó có tôi chạy thẳng lên trại Quyết Tiến Hà Giang. Mấy tiếng đồng hồ sau, bốn xe kia quay trở lại trại, lùa tất cả vào phòng khóa cửa.

Anh em tranh đấu cho rằng Cộng Sản đưa số anh em đó đi thủ tiêu rồi. Chúng kêu từng người nói là lên sinh hoạt, thật chất là đưa vào phòng kỷ luật còng chân lại, dùng thủ thuật hành hạ dã man. Chúng đánh ông già Trình thuyền trưởng rụng cả hai hàm răng, các anh em khác người bầm ngực, bầm lưng, hộc máu mồm không được săn sóc chữa trị chi cả. Chúng lại chuyển tiếp một số anh em đợt hai lên Hà Giang. Phòng kỷ luật chật hẹp, tường đất dày 5 tấc, nền nhà luôn có nước đọng, khí hậu âm u rét buốt có ngày xuống 4 độ âm, mỗi ngày ăn một chén bắp độ chừng 5 đến 60 hạt, vài hột muối trắng. Mục đích của chúng hành hạ cho đến chết thì thôi. Số chết ở trại nầy hơn ba chục anh em.

Trong một buổi sáng tên công an vào cho sinh hoạt, trước khi bắt đầu, nó bảo các anh hát một bài đi. Một anh liền trả lời: Chúng tôi chỉ biết hát nhạc vàng, không biết hát nhạc đỏ. Chúng liền đưa anh bạn ấy đi vào hầm và cùm hết chín tháng.

Bản thân tôi hai lần ở trại Quyết Tiến Hà Giang. Trại nằm sâu trong rừng. Khí hậu ở đây vô cùng khắc nghiệt. Một năm cộng lại có hơi nắng vài ba tháng, còn lại là mưa gió, sương mù cách nhau 3 thước không nhìn thấy nhau. Những lúc này chúng tôi đều bị nhốt trong phòng. Mỗi lẫn có gió mùa Ðông Bắc thổi về cơn lạnh thấu xương. Ðói lạnh, ghẻ lở vô cùng cực khổ. Làm mà không đủ mức ấn định chúng dùng hình thức vô nhân đạo hạ mức ăn. Lao động khổ sai nên bị cụp xương sống, rối loạn thần kinh.

Một lần tôi bị kỷ luật cùm một tháng. Nguyên nhân là cái khăn lau mặt của tôi có ba sọc đỏ đem phơi ngoài trời. Một tên nào đó báo cáo với tên công an nói tôi treo cờ VNCH. Sau buổi sinh hoạt kiểm điểm chúng kết luận tôi còn mong đợi Chánh phủ miền Nam. "Lúc này là thời kỳ oanh tạc miền Bắc".

Kể về tội ác của Cộng Sản thì không giấy bút nào có thể tả hết những thâm độc của chúng.

Hồi tưởng lại gần một phần tư thế kỷ bị giam cầm, hơn mười ba năm sống dưới ách thống trị độc tài tàn ác của chế độ Cộng Sản, con người là cái xác không hồn, già yếu và bệnh tật.

Viết bài này tôi không có tham vọng nói lên điều sai hay đúng, chỉ mong mỏi những người còn lại, bạn đồng đội đốt nén hương để tưởng nhớ, thương tiếc và tri ơn các bạn đã hy sinh cho Tổ Quốc.



Cá Kình Nguyễn Văn Trâm (tên thật Nguyễn văn Hùng) đứng giữa, mặt áo trắng,
ở hàng sau cùng, kế Dân Biểu Bob Dornan.

Chỉ Huy Trưởng Sở Bắc, Cố Ðại Tá Ngô Thế Linh
đứng ở hàng sau, người cuối cùng bên tay phải.
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	Bh_vn_11.jpg
Views:	0
Size:	51.7 KB
ID:	1751583 Click image for larger version

Name:	t_biethai1.jpg
Views:	0
Size:	46.5 KB
ID:	1751584
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (03-14-2021), huudangdo1 (03-06-2021)
Old 03-12-2021   #676
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,388
Thanks: 21,683
Thanked 38,136 Times in 12,871 Posts
Mentioned: 635 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7243 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Những Ngày Cuối Cùng Của Trường Bộ Binh

Sau thời gian phục vụ tại Sư đoàn 5 Bộ Binh, tôi được thuyên chuyển về Trường Bộ Binh Thủ Đức, theo nhu cầu hoán chuyển các sĩ quan có kinh nghiệm chiến trường về các quân trường. Chức vụ sau cùng là Trưởng phòng Kế hoạch của Trường Bộ Binh.



Trường Bộ Binh là một quân trường đào tạo các sĩ quan trừ bị cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Lúc trước, trường tọa lạc ở Thủ Đức. Đến đầu năm 1974 thì dời ra Long Thành, một cơ sở mới nằm bên cạnh quốc lộ 15, đường Sài Gòn - Vũng Tàu và cách quận lỵ Long Thành 5 cây số. Tại đây Trường Bộ Binh kết hợp với Trường Thiết Giáp và Trung tâm Huấn luyện Yên Thế, lập thành Huấn khu Long Thành. Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi là Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh kiêm Chỉ huy trưởng Huấn khu Long Thành.

Đến đầu tháng 4, 1975, trong lúc đất nước lâm vào tình trạng vô cùng nguy ngập, Quân đoàn I và Quân đoàn II đã di tản, Cộng quân vào đến Nha Trang, thì Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi được chỉ định ra làm Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn III, trấn đóng ở phi trường Thành Son, phía bắc thị xã Phan Rang, để ngăn chặn địch đang ào ạt tiến vô nam.

gày 16 tháng 4, quân CSBV chiếm thị xã Phan Rang và phi trường Thành Son. Bộ chỉ huy Tiền phương QĐ III phải rút về phía Đông Nam ra Cà Ná. Nhưng trong đêm đó phần lớn đa bị bắt trong đó có Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi Tư lệnh Tiền phương QĐ III, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân, Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù v.v…

Sau khi Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi ra làm tư lệnh Tiền phương QĐ III thì Đại tá Trần Đức Minh đang là Chỉ huy phó Truờng Bộ Binh được Bộ Tổng Tham Muu chỉ định lên thay thế làm Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh, kiêm Chỉ huy trưởng Huấn khu Long Thành.

Đầu tháng 4, 1975 Trường Võ Bị Quốc Gia là trường sĩ quan hiện dịch, di tản từ Đà Lạt về Long Thành và tạm trú chung với Trường Bộ Binh. Hai tuần sau Trường Võ Bị cho làm lể mãn khóa, hai khóa 28 và 29 ra trường cùng một lúc, còn lại hai khóa 30 và 31.

Cũng vào đầu tháng 4, 1975 Cộng quân bắt đầu gia tăng áp lực, mở các cuộc tấn công vào Huấn khu Long Thành. Đặc công VC đã mấy lần xâm nhập Trung tâm Huấn luyện Yên Thế, nhưng đã bị Biệt kích Lôi Hổ tiêu diệt gọn. Trường Thiết Giáp cũng bị tấn công liên tục, nhưng nhờ tài chỉ huy khéo léo với nhiều kinh nghiệm chiến trường của Đại tá Tám, nên đã giử vững được căn cứ này cho đến cuối cùng.

Ngày 9 tháng 4, 1975 Cộng quân tấn công vào thị xã Xuân Lộc thuộc tỉnh Long Khánh, chỉ cách Sài Gòn 80 cậy số về hướng Đông và cách Huấn khu Long Thành chừng 20 cây số. Trong trận tấn công này lực lượng địch gồm có Sư đoàn 7 Bắc Việt làm mũi chủ công, từ hướng Đông Bắc đánh vào thị xã Xuân Lộc. Sư đoàn 341 Bắc Việt từ hướng Tây Bắc đánh vào khu vực phòng thủ của Sư đoàn 18 Bộ Binh/QLVNCH. Riêng Sư đoàn 6 Bắc Việt đánh Dầu Giây.

Quân trú phòng ở Xuân Lộc gồm toàn bộ Sư đoàn 18 Bộ Binh và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân/Biên Phòng của Thiếu tá Vương Mộng Long K20/VB vừa di tản từ Quân Khu 2 về, cùng các lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh, đã chống trả vô cùng anh dũng. Tất cả các mũi tấn công của quân Bắc Việt đều bị chận đứng. Riêng mũi chủ công của Sư đoàn 7 Bắc Việt, đã lọt vào được vài nơi trong thị xã nhưng đã bị quân ta chận đánh quyết liệt, và ngay ngày hôm sau đã bị quân ta phản kích dữ dội, hai bên giành nhau từng căn nhà, từng mảng tường.

Ngày 12-4-1975 Quân đoàn III đã cấp tốc trực thăng vận Lữ đoàn 1 Nhảy Dù xuống tăng viện cho Xuân Lộc. Tiếp đó là Trung đoàn 8 thuộc Sư đoàn 5 Bô Binh, và một bộ phận của Lữ đoàn 3 Thiết Kỵ, theo hướng quốc lộ 1 từ Biên Hòa cùng tiến lên để giải tỏa áp lực địch. Đặc biệt Không Quân Việt Nam cũng đã huy động tối đa để yểm trợ, và sự yểm trợ lần này rất là hữu hiệu, vì ngoài phi cơ chiến thuật, Không Quân Việt Nam đã sử dụng cả phi cơ vận tải C130 cải biến để chở những khung vỉ sắt chứa nhiều quả bom hạng nặng như bom Daisy Cutter 15.000 cân Anh, bom CBU-55, mà phía Hoa Kỳ thường sử dụng để phát quang làm bãi đáp trực thăng hay vị trí pháo binh, và nhiều phuy xăng JP4 dùng làm bom napalm. Máy bay, bay trên cao độ 15.000 đến 20.000 bộ để tránh phòng không địch và được điều khiển bằng vô tuyến cho rơi đúng vào các mục tiêu ấn định. Có hai quả bom CBU-55 đã rơi trúng vào nơi đóng quân của Sư đoàn 341 CSBV, gây tổn thất nặng nề cho địch và làm cho tinh thần cán binh CSBV bị dao động mạnh vì tưởng là bom B52. Tướng Cộng sản Trần Văn Trà đích thân xuống mặt trận xem xét tình hình, thấy không chiếm được Xuân Lộc, nên bèn quay sang đánh vòng ngoài nhằm vào các đơn vị của Quân lực VNCH đang tăng viện về hướng Biên Hòa.

Nếu như lúc đó Hoa Kỳ chịu giúp miền Nam Việt Nam thêm một thời gian ngắn nữa, để yểm trợ cho Quân lực VNCH, chỉ bằng không lực mà thôi, thì các sư đoàn CSBV sẽ bị tiêu diệt một cách dễ dàng, vì họ đa công khai xuất đầu lộ diện, thật là những mục tiêu rất tốt cho pháo đai bay B52. Như thế tình hình có thể đảo ngược đuợc, như đã xảy ra ở trận chiến Triều Tiên năm 1950.

Nhắc lại trận chiến Triều Tiên, ngày 25 tháng 6 năm 1950, quân đội Cộng Sản Bắc Hàn do Trung Cộng yểm trợ đánh đuổi quân đội Đồng Minh mà chính yếu là Hoa Kỳ, chạy dài từ Bắc xuống Nam cho đến tận cùng bán đảo Triều Tiên, chỉ còn giữ đuợc phần đất vùng Pusan, dự trù để làm đầu cầu để phản công sau này. Ngày 15 tháng 9 năm 1950, dưới sự chỉ huy tài ba của Tướng Douglas Mc. Arthur, đã điều quân xuất thần cho đổ bộ ở Inchon, một bờ biển phía Tây ngang Hán Thành, cách vi tuyến 38 về phía nam 100 dậm. Đây là một kế hoạch vô cùng tinh vi và táo bạo, đã đánh thẳng vào hậu phương địch, cắt đứt mọi đường tiếp tế lương thực đạn dược, làm cho các sư đoàn của Cộng quân đang tiến sâu về phía nam, hoàn toàn bị tê liệt, kiệt quệ, tan rã, đưa đến kết quả là 125.000 quân Cộng Sản Bắc Hàn phải ra đầu hàng.

Ngày 20 tháng 4, 1975 Sư đoàn 18 Bộ Binh, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, và lực lượng Tiểu khu Long Khánh rút khỏi Xuân Lộc theo liên tỉnh lộ 2 về Bà Rịa. Từ đây Sư đoàn 18 Bộ Binh lên xe về Long Bình, còn Lữ đoàn 1 Nhảy Dù ra bảo vệ thị xã Vũng Tàu. Cuộc rút lui diễn ra rất trật tự, tổn thất không đáng kể. Riêng Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Long Khánh, đã bị thương và bị bắt trên đường rút lui.

Vào đầu tháng 4/75 khi tình hình đất nước đang lâm vào tình trạng nguy ngập, Đại tá Minh có ra lệnh cho phòng Kế hoạch phối hợp cùng với Trung tá Trần Văn Hạnh, Trưởng phòng TVM (Tác Xạ Vũ Khí Mìn), để nghiên cứu và soạn thảo một kế hoạch phòng thủ cho thật vững chắc. Tận dụng tối đa hỏa lực cơ hửu của trường, sử dụng mìn Claymore gài tự động, cho nuôi thêm 100 con ngỗng để tăng cường hệ thống báo động. Phòng Kế hoạch cũng đã đề ra hai phương án để rút lui khi cần. Phương án thứ nhất là di tản chiến thuật ra Vũng Tàu. Phương án thứ hai là di chuyển về trường cũ ở Thủ Đức.

Ngày 22-4-1975, Trường Bộ Binh và Truờng Võ Bị được lệnh di tản về Thủ Đức. Trường Bộ Binh chỉ di tản một nửa quân số về Thủ Đức, còn một nửa quân số ở lại Long Thành, và dưới quyền chỉ huy của Đại tá Lê Văn Phú, phòng thủ bảo vệ trường để chờ ngày trở lại.

Khi về đến Thủ Đức, Truờng Bộ Binh nhận lại trách nhiệm phòng thủ Huấn khu Thủ Đức, và đồng thời các Tiểu đoàn SVSQ sẵn sàng về tăng cường bảo vệ Thủ đô. Trong lúc này Trung tướng Nguyễn Bão Trị, Tổng cục trưởng Tổng cục Quân Huấn, chỉ định Đại tá Lộ Công Danh hiện đang là Liên đoàn trưởng Liên đoàn SVSQ của Trường Bộ Binh tạm thời thay thế Thiếu tướng Lâm Quang Thơ làm Chỉ huy trưởng Truờng Võ Bị Quốc Gia.

Đêm 26-4-1975, Cộng quân mở cuộc tấn công đại qui mô vào Huấn khu Long Thành, Trường Bộ Binh ở Long Thành bị mất liên lạc. Ở trường Bộ Binh Thủ Đức, tôi và người mang máy truyền tin, leo lên lầu nước thật cao để tìm cách liên lạc với Trường Bộ Binh ở Long Thành.

Đại tá Lê Văn Phú, vì ông ra ngoài giao thống hào ở địa thế thấp nên máy truyền tin không liên lạc xa được, nhưng nhờ tôi leo lên cao nên bắt liên lạc lại được với Trường Bộ Binh ở Long Thành. Đại tá Phú cho biết hiện Cộng quân đang mở các đợt tấn công rất ác liệt nhưng không chọc thủng nỗi phòng tuyến quá kiên cố của ta. Ông cũng cho biết là Trường Thiết Giáp thất thủ, Đại tá Tám Chỉ huy trưởng Trường Thiết Giáp vừa mới qua họp ở Trường Bộ Binh Long Thành, trên đường về ông bị Cộng quân phục kích và bị mất liên lạc vào khoảng 6 giờ chiều. Riêng Trung tâm Huấn luyện Yên Thế thì hoàn toàn bị mất liên lạc, im lặng vô tuyến kể từ chiều hôm đó. Đại tá Nguyễn Đức Minh liền liên lạc với Đại tá Phan Huy Lương, Tham mưu phó Quân đoàn III, để báo cáo tình hình và xin yểm trợ. Nhưng Bộ tư lệnh Quân đoàn III đã hoàn toàn không có phản ứng, vì đang triệt thoái.

Sáng sớm hôm sau, ngày 27-4-1975, tôi đi cùng với Đại tá Minh lên Biên Hòa để tìm phương cách chống đỡ cho nửa truờng còn lại ở Long Thành. Đường đi lúc đó thật vắng tanh, chúng tôi gặp Thiếu tá Hòa Quận trưởng quận Thủ Đức đang lăng xăng điều động các lực lượng của chi khu. Tôi có hỏi về tình hình trên lộ trình đi, thì ông ta khuyên không nên đi trong lúc này rất là nguy hiểm, vì hiện đang có các trận đụng độ gần khu vực Chợ Đồn. Nhưng vì nóng lòng nửa trường còn lại ở Long Thành nên chúng tôi quyết phải đi.

Khi tới Biên Hòa, thành phố vắng lặng như một thành phố chết. Chúng tôi chạy thẳng vô Bộ chỉ huy của Tiểu khu Biên Hòa. Khi bước vào Trung tâm Hành quân / Tiểu khu, chúng tôi không thấy Tiểu khu trưởng hay Tiểu khu phó đâu cả, mà chỉ thấy có Đại tá Thới, Tham mưu trưởng là còn đang làm việc. Ông hiện đang bấn loạn, vì phải vừa lo điều động các lực lượng của Tiểu khu đang chống trả kịch liệt với địch, đồng thời phải lo phương tiện trực thăng để đi cấp cứu Trung tá Quận trưởng quận Long Thành. Đêm qua lực lượng Địa Phương Quân và Nghiã Quân của chi khu Long Thành đã anh dũng chiến đấu chống trả vô cùng quyết liệt, bắn cháy một số chiến xa địch, cầm cự cho đến sáng mới bị tràn ngập. Trung tá Quận trưởng đã chạy thoát được ra ngoài và dùng máy vô tuyến liên lạc về Tiểu khu xin cứu viện.

Vì tình trạng quá căng thẳng của Tiểu khu Biên Hòa, và vì Đại tá Thới đang quá bận rộn, thấy không thuận tiện để bàn thảo gì được, nên chúng tôi phải rời bỏ Tiểu khu Biên Hòa để đi thẳng vô căn cứ Long Bình nơi đặt Bộ chỉ huy của Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Tại đây, tôi đuợc gặp lại các bạn bè cùng các niên trưởng tay bắt mặt mừng, kể lể mọi chuyện, mà quên đi chiến trận đang gần kề. Mặc dù trong tình thế cực kỳ sôi động như vậy, nhưng Thủy Quân Lục Chiến vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu, không hề nao núng, vẫn quyết tâm chận địch trên đầu dốc 47 của quốc lộ 15, và còn nhắn nhủ với Truờng Bộ Binh Long Thành, là phải đồng tâm hiệp lực quyết ngăn chặn không cho nón cối dép râu bước vô Sài Gòn.

Đại tá Minh cứ lấy làm tiếc là đang ở quân trường gồm toàn những SVSQ đang thụ huấn, nên không có khả năng chiến đấu như các đon vị tác chiến trước đây. Nhớ lại thời hành quân sang Kampuchia năm 1970, ông là Chiến đoàn trưởng, và tôi là Sĩ quan Hành quân. Chiến đoàn 9 đặc nhiệm của Sư đoàn 5 Bộ Binh đã tấn công vào tận sào huyệt của VC nằm sâu bên kia biên giới Việt Miên, quét sạch các mật khu an toàn của VC trong vùng Lưỡi Câu, tịch thu rất nhiều kho vũ khí, lương thực, đạn dược của Cộng quân, đem lại nhiều chiến thắng vẻ vang cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Tôi xin nói thêm ở đây là các cuộc hành quân vượt biên sang Kampuchia là hoàn toàn do Quân lực VNCH đảm nhiệm, các cố vấn Mỹ lên máy bay trực thăng bay trở về, ngay khi đơn vị đi đầu vượt qua biên giới.

Sau khi phối hợp cùng các đơn vị bạn, và chỉ thị rõ ràng cho Đại tá Phú xong, chúng tôi liền quay trở về Thủ Đức. Trên đường về chúng tôi thấy rõ các rương mìn chất nổ đã được đặt sẳn hai bên cầu sông Đồng Nai. Theo như kế hoạch đã định thì sau khi rút quân xong thì cầu Đồng Nai phải bị giật xập không cho thiết giáp và cơ giới của Cộng quân vượt qua sông. Mà nếu Cộng quân có khả năng làm cầu nổi thì ta sẽ dùng phi cơ oanh tạc.

Trường Thiết Giáp đã thất thủ, Trung tâm Huấn luyện Yên Thế đã mất liên lạc, quận Long Thành bị tràn ngập, giờ đây Trường Bộ Binh Long Thành đương nhiên trở thành tiền đồn ngăn chặn địch mà Cộng quân quyết phải thanh toán cho bằng được để tiến thẳng về Sài Gòn.

Trong đêm 27-4- 1975, Cộng quân tấn công dữ dội vào Trường Bộ Binh ở Long Thành, nhưng đã bị lực lượng phòng thủ của trường do Thiếu tá Hồ Đắc Tùng K20 trực tiếp chỉ huy chống trả quyết liệt. Lúc đó ở Thủ Đức toàn bộ Bộ Chỉ Huy của Trường Bộ Binh đang vây quanh máy truyền tin để theo dõi. Một số gia đình có thân nhân còn đang chiến đấu ở Long Thành cũng ngồi quanh đó. Tất cả mọi người đều hồi hợp theo dõi với tâm trạng thật là bi quan, đành bó tay chịu trận. Tôi thấy bà xã của Đại Úy Trác ngồi khóc mếu máo. Tôi còn nhớ lời nói mỉa mai đau khổ của Đại tá Minh:

Trung Hoa Dân Quốc còn có đảo Đai Loan để mà chạy ra, chớ Việt Nam mình không biết đi đâu?”.

Hồi thời Đệ Nhứt Cộng Hòa, Tổng thống Ngô Đinh Diệm còn có chuẩn bị đảo Phú Quốc để mà tử thủ. Nhưng bây giờ thì không còn nghe nói gì đến đảo này nữa.

Quân trú phòng Trường Bộ Binh Long Thành đã anh dũng chiến đấu, cầm cự cho đến sáng. Nhưng vì quân địch quá đông, nên sau cùng thì Đại tá Phú phải ra lệnh cho rút lui theo như kế hoạch đã định. Sau này theo tài liệu của Cộng Sản Bắc Việt, thì ngày 27 tháng 4, Sư đoàn 304/CSBV đã đụng độ dữ dội với các đơn vị Nam Việt Nam ở khu vực Nước Trong (VC gọi Huấn khu Long Thành là khu vực Nước Trong). Sau khi chiếm được khu vực Nước Trong rồi, nhưng khi tiến quân về hướng cầu Đồng Nai trên xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, Sư đoàn 304/CSBV vẫn bị chận đánh và phải đợi đến ngày 29 mới chiếm được cầu này.

Sáng ngày 30 tháng 4, 1975 vào lúc 8 giờ 30, Đại úy Nguyễn Thành Hiếu, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5/SVSQ/TBB đang chỉ huy phòng tuyến chính mặt xa lộ báo cáo là thấy đoàn xe thiết giáp và xe motolova của cộng quân đang di chuyển trên xa lộ Biên Hòa tiến về Sài Gòn. Tôi hết sức ngạc nhiên vì theo như kế hoạch đã định thì cầu Đồng Nai phải bị giật sập, không cho thiết giáp và cơ giới của VC vượt qua sông. Tôi liền liên lạc báo cáo về Biệt khu Thủ Đô. Trong lúc đó thì Trung tâm Hành quân / BKTĐ không ra lệnh dứt khoát mà chỉ nói là tùy nghi đơn vị. Không một chút do dự, Đại tá Minh liền xác quyết trách nhiệm một cách rất rõ ràng là: “Bổn phận của chúng ta là quân đội là phải bảo vệ đất nước, thấy địch là đánh”. Tôi liền truyền lệnh của Đại tá Chỉ huy trưởng đến các đơn vị, đồng thời gọi cho Hiếu chấm tọa độ và điều chỉnh cho các khẩu đội súng cối 81 ly tác xạ. Đồng thời tôi gọi cho các pháo đội pháo binh 105 ly, 155 ly và 175 ly chuẩn bị sẳn sàng. Đây là các loại pháo binh để yểm trợ tầm xa, mà Quân đoàn III gởi tạm ở đây. Nhưng trong giờ phút quyết liệt này, tôi dự trù sẽ sử dụng để bắn trực xạ. Súng 175 ly được đặt trên thiết giáp nên dễ dàng di chuyển, điều động.

Bị sức kháng cự mạnh mẽ của Trường Bộ Binh, nên cộng quân liền đổi hướng tấn công xông thẳng vào Trường Bộ Binh. Một chiếc thiết giáp T54 ủi sập chướng ngại vật ở cổng chính và chạy thẳng vào trong, vừa chạy vừa bắn phá loạn xạ. Trong khi đó thì súng đại liên ở cầu Bến Nọc mà VC vừa chiếm được đem qua, bắn xối xả vào trường ở phía cổng số 9 tức cổng sau của Trường Bộ Binh. Lúc đó súng nhỏ bên ta bắn trả dữ dội tóe lửa vào chiếc chiến xa. Tôi thấy rõ chiếc chiến xa khi nó tới gần, súng trên pháo tháp quay qua bắn sập Trung tâm Hành quân, vì trên nóc TTHQ có nhiều cần ăng ten nên dễ thấy. Thiếu tá Lầu thuộc Trường Tổng Quản Trị đang ở trong đó may mắn thoát nạn, trong khi đó thì Đại tá Minh cùng Bộ chỉ huy nhẹ đang ở cách đó không xa.

Khi chiếc chiến xa này chạy xuống tới cổng số 9 thì gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của các SVSQ do Thiếu tá Phạm Hưng Long K20 chỉ huy giữ mặt hậu của Trường Bộ Binh, nên liền quay đầu chạy ngược lại. Chúng tôi đa tìm cách kêu gọi đối phương ra đầu hàng nhưng không có kết quả. SVSQ có thấy người lái chiến xa đứng lên dường như có ý định đầu hàng nhưng rồi lại ngồi xuống và lại tiếp tục bắn phá làm chết và bị thương một số SVSQ và quân nhân cơ hữu của Trường. Trong số đó có Thiếu tá Vương Bá Thuận bị gãy chân, Trung tá Ông Nguyên Tuyền tử thương …

Mặc dù chưa từng ra chiến trận nhưng phải nói là tinh thần chiến đấu của các SVSQ rất là hào hùng anh dũng. Nhưng với súng trường không thể nào hạ được chiến xa, cho nên tôi gọi Đại úy Lê Văn Ngữ, Đại đội trưởng ĐĐ663/ĐPQ là đơn vị bảo vệ trường dùng súng M72 để hạ chiếc chiến xa này. Khi nó chạy tới khu Tiếp Tân gần miếu Tiên Sư thì bị ĐĐ663/ĐPQ bắn đứt xích nằm tại chỗ, nhưng súng trên pháo tháp vẫn còn quay bắn phá lung tung. Liền khi đó có một SVSQ thuộc Tiểu đoàn 1/SVSQ, đang ở phòng tuyến gần đó, nhanh nhẹn bò ra leo lên pháo tháp và liệng một quả lựu đạn vào bên trong xe tiêu diệt hẳn. Đại úy Ngữ lục soát trong xe lấy được ba khẩu súng còn đang bốc khói mang lên trình Đại tá Chỉ huy truởng và cho biết là họ đã bị khóa xích trong xe nên không thể nào ra đầu hàng được.

Và liền sau đó không lâu vào khoảng 10 giờ 20 phút thì nghe lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố ngưng bắn chờ lệnh bàn giao. Sau đó Đại tá Minh ra lệnh cho tôi gọi cho các đơn vị ngưng chiến đấu. Tất cả mọi người đều rơi nước mắt khi nghe tin này, Đại úy Trác òa lên khóc. Tôi vẫn còn nhớ lời Đại tá Minh nói lúc đó: “Nhiệm vụ của chúng ta là quân đội là phải tuân hành lệnh thượng cấp, kêu đánh là đánh, kêu đầu hàng là đầu hàng”. Tôi bỏ về phòng thay đồ dân sự và lập tức lấy xe gắn máy phóng nhanh ra cổng, Đại úy Bão bên Liên đoàn Sinh viên đang đứng đâu gần đó liền nhảy lên theo. Chúng tôi vừa thoát ra khỏi cổng thì cộng quân cung vừa vô tới.

Khi chúng tôi ra đến xa lộ thì thấy đoàn xe thiết giáp và xe motolova của Cộng quân đang tiến vô Sài Gòn, mà không còn một lực lượng nào ngăn chặn nữa. Và vào lúc 11 giờ 30 phút chiếc chiến xa dẫn đầu cánh quân này đã tiến vô Dinh Độc Lập trong lúc Tổng thống Dương Văn Minh cùng nội các cuối cùng đang chờ đợi để bàn giao. Nhưng ngay vừa khi vừa vô đến Dinh Độc Lập thì quân CSBV liền hiện rõ nguyên hình là một đội quân xâm lăng từ miền Bắc vào, chứ không có gì là Mặt trận Giải Phóng Miền Nam, do nhân dân miền Nam nỗi dậy, không có gì là hòa giải hòa hợp dân tộc, và không có gì là để bàn giao. Họ liền bắt nhốt tất cả từ Tổng thống Dương Văn Minh đến các Tổng Bộ trưởng và bắt Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo dẫn đến Kho bạc để tịch thâu 16 tấn vàng của Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam và cũng kể từ đó miền Nam Việt Nam đã thực sự mất vào tay Cộng Sản Bắc Việt.

Để biết thêm chi tiết về những giờ phút cuối cùng của Trường Bộ Binh sau khi quân CSBV vào tiếp thu Huấn khu Thủ Đức, tôi xin trích đoạn trả lời của Đại tá Trần Đức Minh, vị Chỉ huy trưởng cuối cùng của Trường Bộ Binh, trong cuộc phỏng vấn với tạp chí Văn nghệ Tiền Phong, nhân kỷ niệm 25 năm ngày miền Nam Việt Nam lọt vào vòng thống trị của cộng sản. Ông đã kể lại nhu sau:

… Khoảng hơn một giờ sau khi im tiếng súng, đại diện của một đơn vị Bắc Việt đến, họ yêu cầu tôi thi hành lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh và Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh để bảo đảm không nổ súng nữa. Tôi giao cho họ số vũ khí bắt được trên chiếc xe tăng bị bắn cháy và nói với họ lo chôn cất những người bị chết trong xe đó…

… Trong khi nói chuyện, đại diện quân Bắc Việt yêu cầu tôi triệu tập Chỉ huy trưởng của các Quân trường trong Huấn khu Thủ Đức đến gặp họ. Tôi cho biết không thấy Huấn khu trưởng cũng như những người có trách nhiệm khác đâu cả. Cuối cùng họ đành bảo tôi thay mặt Huấn khu bàn giao tất cả các trường hiện có ở Thủ Đức. Tôi cho lệnh tập họp ở Vũ đình trường, sau đó tuyên bố bàn giao Huấn khu Thủ Đức theo đúng chỉ thị của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

… Sự việc diễn ra rất ngắn ngủi, chỉ có khoảng vài trăm người mặt mày ngơ ngác, bần thần. Rồi thoáng một cái, chẳng còn ai mặc quân phục nữa. Sinh viên Sĩ quan mặc đồ dân sự lủi thủi lê chân ra phía cổng chính. Tôi bùi ngùi nhìn theo tủi hổ… Chiều hôm đó đến lượt tôi trút bỏ quân phục và được yêu cầu “nghỉ riêng” ở trên lầu của tư dinh Chỉ huy trưởng. Trong khi một Bộ chỉ huy quân Bắc Việt ở dưới lầu. Đêm đó tôi lên cơn sốt, trong lúc chập chờn nửa tỉnh nửa mê, tôi đã khóc thật nhiều. Lúc này tôi mới thắm thía cảm nghiệm được cái lẽ vô thường mà trước kia tôi chỉ hiểu được bằng lý trí…

… Định mệnh đã bắt tôi đóng vai tuồng “hàng thần lơ láo”, và đây là điều tủi nhục nhất trong đời tôi. Cho đến khi viết những dòng này niềm tủi nhục ấy vẫn hằn sâu trong tâm khảm tôi, và hẳn rằng khôn khuây cho đến khi sang bên kia thế giới.

Viết để nhớ lại ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Nguyễn Ngọc Thạch K20

Bài tường thuật của NT Nguyễn Ngọc Thạch viết:
"Liền khi đó có một SVSQ thuộc Tiểu đoàn 1/SVSQ, đang ở phòng tuyến gần đó, nhanh nhẹn bò ra leo lên pháo tháp và liệng một quả lựu đạn vào bên trong xe tiêu diệt hẳn.”
Đúng ra, có tới hai SVSQ Không Quân cùng tham gia hành động anh hùng này. Mời độc giả đọc thêm bài viết của nhân chứng sống: KQ Phan Thế Nhân, Thư ký Hội Ái Hữu KQ tiểu bang NSW, Úc-đại-lợi.

30 THÁNG 4: KHÔNG QUÂN... ĐÁNH BỘ!
Trận đánh cuối cùng ngày 30-04-1975 của SVSQ/KQ tại trường BB THỦ ĐỨC cũ

Phan Thế Nhân

Sau khi Mỹ cúp viện trợ, vào khoảng đầu năm 1975 (tôi không nhớ tháng mấy) tất cả những SVSQ-KQ chưa hoàn tất khóa học từ Mỹ về, những SVSQ-KQ thặng số chờ đi học ở VN… đều được gởi đến TBB/Long Thành để thụ huấn cấp tốc 9 tuần vì nhu cầu chiến trường (?)

Hồi tưởng lại chuyện cũ, ngày 28-04-1975

Sáng hôm đó, mặc dù tiếng súng, tiếng bom…vọng lại suốt đêm và vẫn còn ầm ĩ từ Long Khánh, Xuân Lộc, Biên Hòa…, tại Trường Bộ Binh/Long Thành, như thường lệ, Đại đội tập họp, theo đội hình tác chiến (súng cầm tay, di chuyển 2 hàng 2 bên vệ đường) ra bãi tập... Đi được khoảng 1 tiếng, lối 3-4 cây số thì máy truyền tin PRC-25 của anh trực truyền tin mang vang lên tiếng rè rè… và thấy anh mang máy lụp xụp chạy đến vị sĩ quan cán bộ (Trung úy Nở?), người đang dẫn ĐĐ ra bãi tập, sau khi đối đáp gì đó với BCH trường, Trung úy Nở ra lệnh cho đoàn quân dừng lại, ra lệnh đổi băng đạn trống không trong súng bằng băng đạn thật, khoá an toàn cẩn thận (hằng ngày ra bãi, súng không có đạn, nhưng vì tình hình chiến sự lúc đó, trong balô mỗi khóa sinh đều phải mang theo 1 cấp số đạn thật là 7 băng).

Sau đó Đại đội được lênh quay trở về, khi đã về tập họp đầy đủ, được 5 phút đem tất cả "sac marin" và đồ dùng cá nhân ra tập trung tại sân Đại đội, cho biết là sẽ có xe chở theo sau, chỉ được mang theo tiền bạc, đồ có giá trị… Đó là lần cuối cùng nhìn thấy thư từ, đồ kỷ niệm gia đình bạn bè người thân gởi…

Một đoàn xe nhà binh thật dài chạy đến, tôi không biết rõ là bao nhiêu vì nhiều lắm, cả trường BB Long Thành di chuyển mà, sau khi tất cả mọi người lên xe, xe bắt đầu di chuyển về hướng Saigon, lúc đó chúng tôi vẫn chưa biết mình đi đâu nữa, đi đâu thì đi, lính mà. Trên đường vắng ngắt, không thấy chiếc xe nào chạy ngược chiều, thỉnh thoảng có 1-2 chiếc xe tăng và Quân cảnh làm nút chặn trên đường.

Cuối cùng đến một nơi mà đối với tôi hoàn toàn xa lạ, sau nầy mới biết là Trường BB Thủ Đức cũ, có lẽ đã sắp xếp sẵn, Đại đội chúng tôi được lệnh xuống xe và đóng rải rác xung quanh một căn nhà mát, sau nầy tôi mới biết đó là Khu Tiếp Tân của Trường BB Thủ Đức, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tôi là một chiếc xe tăng với một khẩu đại bác thật to và dài, nằm trên xe, bửng xe chịu xuống đất nòng hướng về phía cổng ra vào, hạ sát xuống như sẵn sàng trực xạ (bên phải là Trường Cảnh Sát).

Đại đội được bố trí chung quanh nhà mát, trung đội tôi nằm dọc theo nhà mát hướng ra cổng chính. Bên phải là một con đường nhựa chạy từ cổng chính vào với hai hàng cây bã đậu hai bên đường rủ đầy bóng mát, bên kia đường là một lô cốt xây bằng đá xanh thật cao hướng thẳng ra cổng chính, trước mặt là chiếc xe tăng với khẩu đại bác, bên trái là một dãy (hào) mô đất cao chạy dọc theo vòng đai từ cổng chánh bao bọc chung quanh trường, ngoài mô đất nầy là một tiền đồn giống như một đồn của Địa phương quân, mỗi đêm có một tiểu đội thay phiên nhau ra đóng tiền đồn, đối diện tiền đồn là một con đường đất đỏ, bên kia con đường là một nhà Bảo sanh có bảng hiệu đàng hoàng. Sau khi bố trí vị trí từng cá nhân xong chúng tôi được lệnh phải đào hố cá nhân ngay lập tức... Chu choa… mấy năm nay đã nằm ở nhiều quân trường từ Quang Trung, TTHLKQ Nha Trang, Trường BB Long Thành chỗ nào người ta cũng đã đào sẵn giao thông hào, mỗi khi báo động có pháo kích thì chỉ việc chạy ra, ngó qua ngó lại tìm chỗ nào khô, không có nước là nhảy đại xuống, còn bây giờ thì…xẻng cá nhân (còn mới tinh trong bao) phải mở ra tự đào lỗ để tránh đạn, khổ ơi là khổ, lại thêm cái khổ nữa chỗ nầy là chỗ thăm nuôi đông người đi lại nên nhà thầu đổ đá để làm móng cho chắc nên thằng nào thằng nấy đào bá thở, mồ hôi nhễ nhại mà có được bao sâu đâu, lại thêm mấy ông cán bộ cơ hữu cứ đi vòng vòng nhắc nhở hoài cuối cùng cũng tàm tạm được, ngồi xuống cái đầu vẫn còn ló lên.

Chiều xuống, sau khi cơm nước xong, còn đang nằm phì phà điếu Ruby Quân Tiếp Vụ thì có vài người chỉ lên trời, có mấy chiếc phản lực bay rất cao, người thì nói F4 kẻ thì cãi F5, mình thì không biết gì hết, chỉ biết là máy bay phản lực, vài phút sau có người la lên và chỉ về hướng Saigon, một đoàn trực thăng khoảng vài chục chiếc xếp hàng một bay lên bay xuống có lẽ đang di chuyển người, sau nầy mới biết là Mỹ di tản người, tối đến, đoàn trực thăng vẫn tiếp tục mở đèn lên xuống như những con đom đóm không biết bao giờ mới ngưng… Ầm ầm tiếng súng đại bác từ đâu đó ở phía trong trường bắt đầu bắn đi yểm trợ quân bạn, mặc dù thỉnh thoảng giật mình vì lần đầu tiên nằm gần một đơn vị pháo binh nhưng vì quá mệt mỏi sau khi đào hố cá nhân hồi trưa nên cũng chập chờn qua đêm.

Sáng hôm sau tình hình vẫn yên ổn mặc dù thỉnh thoảng nghe báo cáo có xe tăng xuất hiện ở cổng sau. Tối đến tiểu đội tôi đến phiên trực cao ốc nằm phía bên kia đường, đối diện khu tiếp tân, bên phải cổng chính. Đêm vẫn yên tĩnh, vẫn ầm ầm tiếng pháo binh bắn đi, vẫn thay phiên 2 tiếng trực gác, nhìn trời hiu quạnh, không một bóng người chung quanh.

6 giờ sáng, tiểu đội trở về khu tiếp tân, sau khi vệ sinh cá nhân xong thì có lịnh báo động, xe tăng VC xuất hiện ở cổng sau rồi biến đâu mất, vẫn ngồi trong hố cá nhân thì…ầm ầm, (không rõ 1 hay 2 tiếng) súng xe tăng VC phá mấy thùng phuy cát để ở cổng chính làm chướng ngại vật, và tiếp theo đó súng cá nhân nổ như pháo tết, lúc đó tôi mới nghe tiếng xe tăng VC chạy thật nhanh vào trường BBTĐ, đến ngã 3 nó dừng lại quay súng về hướng lô cốt, thấy vài người chạy vào lô cốt, nó bắn đùng 1 phát, lúc đó có ai đó la to: “Bắn vào pháo tháp nó, bắn vào pháo tháp” tôi nhìn lên thì thấy pháo tháp mở, có cây đại liên trên đó nhưng không thấy xạ thủ. Sau khi bắn vào lô cốt xong nó chạy thật lẹ qua hướng tay phải dọc theo con đường có hàng cây bã đậu biến mất, lúc đó thì mấy người lúc trước chạy vô lô cốt lại chạy ra, hú hồn không ai chết hay bị thương gì cả, lúc đó anh bạn SVSQ-KQ ngồi hố trước mặt mới quay lại cằn nhằn: “Mày bắn gần quá, bả thuốc đạn văng vô cổ áo tao nóng quá” tôi mới xin lỗi, lần đầu tiên bắn VC mà, chưa có kinh nghiệm, thông cảm.

Tình hình lúc đó thật căng thẳng, thật yên lặng, súng phía cổng và khu tiếp tân chúng tôi đã im tiếng, vì xe tăng VC chạy đâu mất rồi, lúc nầy thì có vài anh em chạy ra bên ngoài giao thông hào nằm chĩa súng vô trong, ai đó lại la: “Coi chừng VC ở ngoài” họ lại leo vô, đúng là lính chưa có kinh nghiệm. Bây giờ chỉ còn tiếng rè rè của máy truyền tin…các nơi báo cáo nó đang ở chỗ nầy, đang chạy qua hướng nọ…

Khoảng nửa tiếng sau thì nghe tiếng súng rộ lên từ phía đường bên trái, nó đang chạy hướng ra cổng, phe ta bắn theo như mưa, đến ngã 3 thì tôi thấy rõ 2 quả M72 bắn vào đít nó thì một quả bay xẹt lên trời, còn 1 quả thì dọng xuống đất, nó vẫn chạy ra hướng cổng, lúc đó có một ông, không biết là SVSQ-KQ hay cơ hữu, bỏ hố cá nhân đứng dậy vác M72 chạy ra quỳ xuống, ai đó la to: “Coi chừng lửa thụt hậu” tôi thụt đầu xuống hố cá nhân thì nghe “ầm” và ai đó la to: “Đứt xich rồi, đứt xích rồi”, nó chỉ khựng lại một vài giây rồi chạy tiếp bỏ lại sợi xích bên trái trên đường, tiếng súng lại rộ lên ở hướng cổng, thấy anh em ở hướng đó bỏ hố cá nhân tràn lên mô đất giao thông hào chĩa súng ra, lúc đó tôi thấy xe tăng VC rẽ về bên trái, chạy về hướng nhà bảo sanh và hình như hơi lạ nó chạy bên lề đường và tiếng máy gầm rú dữ dội, nhìn kỹ thì ra nó bị kẹt bánh không có xích dưới lề đường chỗ đường mương để nước mưa chảy hai bên lề đường, nó ráng nhưng không lên được, nó lết đến ngay cửa nhà bảo sanh cũng là nơi đối diện khu tiếp tân, pháo tháp từ từ hạ xuống, ai đó lại la to: “Nó bắn vô đó”, không ai bảo ai tất cả đều nhào xuống giao thông hào. Nó bắn thật, nhưng cũng may súng nó hạ thấp tối đa cũng chỉ bắn trúng ngọn cây bã đậu, làm cây lá rớt đầy đầu cổ anh em nhưng không có ai bị thương, sau khoảng hơn chục quả thì im lặng, nó hết đạn rồi…

Anh em lại tràn ra giao thông hào dùng súng M16 bắn tiếp. Một lúc sau tôi thấy có hai bóng người leo qua vòng rào bao cát tiền đồn bò về hướng xe tăng VC lúc đó nằm yên như đống sắt, ai đó lại la to: “Bắn lên trời, bắn lên trời, phe ta bò ra” tiếng súng vẫn nổ như mưa nhưng tất cả đều bắn lên cao, nhanh như cắt hai bóng người ở hai phía cùng lúc nhảy lên xe lần lượt ném hai quả lựu đạn vào pháo tháp mở trống rồi nhảy xuống chạy vào, hai tiếng nổ thật ấm: Uỳnh uỳnh, yên lặng, sau đó vài tiếng nổ lách tách và xe tăng VC từ từ bốc cháy, anh em trong khu tiếp tân đứng lên reo hò vang dậy (sau này mới biết bộ binh VC nằm đầy chung quanh nhưng không hiểu vì sao không cứu chiếc xe tăng đó).

Một lúc sau, nghe tiếng anh em từ hướng cổng reo hò ầm ĩ, tôi nhìn ra thì thấy trên xe jeep của chỉ huy trưởng (tôi không nhớ là ai, vì lúc đó còn trẻ ham chơi, không cần biết ai là xếp mình hết), một SVSQ-KQ tay cầm một khẩu AK chiến lợi phẩm lấy được từ pháo tháp xe tăng, được chỉ huy trưởng chở đi khắp trường BBTĐ để anh em hoan hô.

Không lâu sau đó, nhìn nét mặt thẫn thờ của anh truyền tin thò tay mở hết volume của máy truyền tin cho anh em nghe lời kêu gọi buông súng chờ bàn giao của Tổng thống Dương Văn Minh, và kế tiếp là lời kêu gọi của chỉ huy trưởng trung tâm là các đơn vị nhận được lệnh buông súng phải bắn trái sáng màu trắng lên trời để VC không nổ súng tấn công….Thế là hết Việt Nam Cộng Hòa đã bị khai tử… Nhìn ra hàng rào, ẩn hiện dưới góc nhà, gốc cây, dầy đặc lính chính quy VC mặc đồng phục cầm AK. Trong sự yên lặng chờ đợi thì bất ngờ một tràng súng đại liên M60 nổ dòn ở hướng cổng rồi im bặt. Có lẽ của một anh nào đó không muốn đầu hàng VC. Một lúc sau thì một chiếc xe jeep của mình dẫn đầu một đoàn xe Molotova chở đầy VC võ trang súng đạn đầy mình từ từ tiến vào, rải giấy thông hành, truyền đơn kêu gọi về quê làm ăn. Để an toàn, tôi cúi xuống lượm một tờ giấy thông hành nhét vào túi rồi cùng anh em đi ra cổng.

Phan Thế Nhân
Hội AHKQ-NSW, AUSTRALIA
(nguồn: Lý Tưởng – Úc Châu)


CHÚ THÍCH của Lý Tưởng – Úc Châu:
SVSQ Nguyễn Kim Đỉnh (Hội AHKQ Queensland, Úc-đại-lợi), một người nằm tại tuyến đầu lúc đó, đã mục kích tận mắt chiến tích này của hai chàng SVSQ/KQ điếc không sợ súng vào giờ thứ 25!
Về việc bộ đội VC lúc đó nằm đầy chung quanh nhưng không cứu chiếc xe tăng, theo suy luận của chúng tôi, rất có thể vì chúng chưa biết “lực lượng” của ta gồm những đơn vị nào, mạnh yếu ra sao, cho nên cứ án binh bất động để giữ mạng cùi!
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1615299922-1525703225-t-54 copy.png
Views:	0
Size:	754.9 KB
ID:	1754889
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
huudangdo1 (03-28-2021)
Old 03-12-2021   #677
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,388
Thanks: 21,683
Thanked 38,136 Times in 12,871 Posts
Mentioned: 635 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7243 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default 30-4-1975 Những Giờ Phút Cuối Cùng

- Hơn 1 ngàn Cộng quân tử trận, 32 chiến xa CSBV bị bắn cháy trong trận chiến sáng ngày 30-4-1975 tại phòng tuyến Sài Gòn

Vào những ngày cuối cùng của tháng 4/1975, trong khi những người lãnh đạo tối cao của quốc gia và quân đội tìm mọi cách để ra đi, thì tại mặt trận vòng đai Sài Gòn và ngay trong Thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, người lính Quân lực VNCH từ anh binh nhì cho đến các trung đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng... thuộc các binh đoàn bộ chiến, vẫn giữ vững tay súng tử chiến với Cộng quân đến phút cuối cùng.



Từ 0 giờ sáng đến 10 giờ ngày 30/4/1975, trên các cửa ngõ vào thủ đô Sài Gòn, những người lính Bộ binh, Nhảy Dù, Biệt kích Nhảy Dù, Biệt động quân, Thiết giáp, Thủy quân Lục chiến... đã đánh trận cuối cùng trong đời lính của họ: 32 chiến xa và gần 30 quân xa Cộng quân bị bắn cháy, hơn 1,000 Cộng quân tan xác... Đó là chiến tích của người lính VNCH tại mặt trận Thủ Đô Sài Gòn trong buổi sáng cuối cùng của cuộc chiến, trước khi ông Dương Văn Minh ra lệnh Quân lực VNCH buông súng vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 30/4/1975. Trong những giờ phút cuối cùng này, tại Sài Gòn, trái tim của Việt Nam Cộng Hòa, có rất nhiều sự kiện diễn ra dồn dập, những trận đánh hào hùng và bi tráng của một số đơn vị Nhảy Dù, Biệt Cách Nhảy Dù... trước giờ G.

- Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH, những giờ cuối cùng:

Trưa ngày 29 tháng 4/1975, các vị tướng có thẩmquyền tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH đã ra đi. Đại tướng Viên rời Việt Nam từ chiều 28/4/1975 cùng với Chuẩn tướng Thọ (trưởng phòng 3); Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng Liên quân Bộ Tổng tham mưu kiêm Tổng cục trưởng Tiếp vận ra đi vào lúc 11 giờ 30 ngày 29/4/1975. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cũng đã "chia tay" với các cộng sự viên của mình từ sáng ngày 29/4/1975. Để có tướng lãnh chỉ huy Quân đội, tân Tổng thống Dương Văn Minh đã cử một số tướng lãnh và cựu tướng lãnh giữ các chức vụ trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức Tổng Tham mưu trưởng; Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn tướng, đã về hưu từ tháng4/1974, làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng; cựu Thiếu tướng Lâm Văn Phát, được cử làm Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô; chuẩn tướng Lê Văn Thân, nguyên Tư lệnh phó Quân khu 2,làm Tư lệnh phó phụ giúp Tướng Phát; Chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức, nguyên Cục trưởng Công binh, Thứ trưởng Định cư trong Nội các Nguyễn Bá Cẩn, giữ chức Tổng cụctrưởng Tiếp vận.

Sau khi nhận chức Tổng tham mưu trưởng, chiều 29/4/1975, Trung tướng Vĩnh Lộc đã triệu tập một cuộc họp với các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đang còn ở lại Sài Gòn tại phòng họp bộ Tổng Tham Mưu và yêu cầu "mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm việc vớitất cả trách nhiệm".

- Trận chiến tại các cửa ngõ vào Sài Gòn:

Tại phòng tuyến Củ Chi, tối 29/4/1975, toàn bộ quân trú phòng và bộ Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh mở đường máu về Hóc Môn. Riêng Chuẩn tướng Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư đoàn và một Thượng sĩ cận vệ tên Ngọc đã phải thay nhau làm khinh binh với chiến thuật cá nhân để thoát khỏi vòng vây của Cộng quân. Cuối cùng vị tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh bị lọt vào tay địch khi ông và người cận về gần đến Hóc Môn.

Tại mặt Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28/4/1975, bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô không còn quân trừ bị để giải tỏa áp lực của Cộng quân. Một liên đoàn Biệt động quân đang hành quân dọc theo quốc lộ 4 phía nam Bến Tranh đã được điều động về quận lỵ Cần Đước theo liên tỉnh lộ 5A vào buổi trưa và đặt dưới quyền điều động của bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng VNCH không thể phá vỡ được các chốt chận của Cộng quân tại cầu Nhị Thiên Đường (khu vực này bị Cộng quân chiếm từ rạng sáng ngày 29/4/1975).
Trong khi trận chiến xảy ra tại nhiều nơi thì kho đạn Thành Tuy Hạ lại bị pháo kích nặng nề nên phát nổ nhiều nơi. Hệ thống truyền tin liên lạc với bộ chỉ huy Kho đạn bị mất vào lúc 1 giờ chiều. Xe tăng Cộng quân xuất hiện tại Cát Lái và bắn vào cầu tàu chất đạn chưa được bốc dỡ.

Tại cụm phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần trung tâm huấn luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lươn Bà Quẹo; Bình Thới-Ngã ba Bà Quẹo; Bảy Hiền-Lăng Cha Cả, đơn vị Nhảy Dù phòng ngự tại đây đã nỗ lực ngăn chận Cộng quân. Những người lính Dù không hề nao núng, bình tĩnh chuẩn bị cho trận đánh giờ thứ 25.

Tại vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu, một chiến đoàn thuộc Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù do thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã dàn quân chận địch, từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6 chiến xa Cộng quân và nỗ lực đánh bật địch ra khỏi trận địa.



- Những trận đánh trước giờ G...

Từ sáng sớm ngày 30 tháng 4, tại các mặt trận quanh Sài Gòn và Biên Hòa, các đơn vị của Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, các đơn vị Dù, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân... đều đặt trong tình trạng sẵn sàng ứng chiến để chận đánh Cộng quân. Tại bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Thiếu tướng Lâm Văn Phát từ sáng sớm đã dùng trực thăng bay quan sát tình hình, vừa đáp xuống bộ Tư lệnh ông gọi máy liên lạc với Chuẩn tướng Tần, sĩ quan cao cấp nhất của Không quân vào lúc đó. Tướng Phát yêu cầu Tướng Tần cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích Cộng quân đang chuyển quân dọc theo con đường từ ngả tư Bảy Hiền lên đến Hóc Môn.

Trong khi các đơn vị VNCH đang nỗ lực đẩy lùi Cộng quân ra khỏi bộ Tổng tham mưu, thì vào 10 giờ 15 phút, tân Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngưng chiến. Trước đó vài phút, chiến đoàn Biệt Cách Dù đang tung các đợt phản công để đánh bật địch quanh vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu. Khi nhận được lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, chiến đoàn trưởng Biệt Cách Dù đã lấy xe jeep vào Bộ Tổng Tham Mưu, ông được anh em binh sĩ gác cổng cho biết là Trung tướng Vĩnh Lộc, Tân Tổng Tham mưu trưởng, đã ra đi lúc 6 giờ sáng, tất cả tướng lãnh và các đại tá đã họp với Thiếu tá Tài về kế hoạch phòng thủ Tổng hành dinh bộ Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng không còn ai.

Trước tình hình đó, Thiếu tá Tài đã bốc điện thoại quay số gọi về văn phòng Tổng Tổng phủ, gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông Hạnh hỏi Thiếu tá Tài là ai? Vị chiến đoàn trưởng đã trả lời: "Tôi là chiến đoàn trưởng Biệt cách Nhảy Dù đang trách nhiệm bảo vệ bộ Tổng tham mưu, tôi xin được gặp Tổng thống". Vài giây sau, thiếu tá Tài nghe tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu máy: "Đại tướng Dương Văn Minh nghe đây, có chuyện gì đó?" Thiếu tá Tài trình bày: "Tôi đang chỉ huy cánh quân tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu thì có lệnh ngưng bắn, nhưng Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đã liên lạc với bộ Tổng Tham mưu nhưng không có ai, nên muốn nói chuyện với Tổng thống là Tổng Tư lệnh Tối cao của Quân đội để xin quyết định." Tướng Minh trả lời: "Các em chuẩn bị bàn giao đi!". Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại: "Bàn giao là như thế nào thưa Đại tướng, có phải là đầu hàng không?", Tướng Minh đáp: Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập. Nghe tướng Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài nói ngay: "Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Độc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống". Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói tiếp: "Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước 2 ngàn cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở bộ Tổng tham mưu." Tướng Minh trả lời: "Tùy các anh em".



Theo lời Thiếu tá Tài, sau này, khi bị CQ giam trong trại tù, ông đã găp trung tá Võ Ngọc Lan, Liên đoàn trưởng Liên đoàn phòng vệ Tổng thống Phủ. Trung tá Lan nói với Thiếu tá Tài: "Lúc đó, moa đứng cạnh ông tướng Minh, moa nghe toa nói vào cứu Tổng thống". Thiếu tá Tài giải thích: "Tổng thống là vị lãnh đạo tối cao của Quân lực, phải cứu ông ra để có người chỉ huy Quân đội".

***************
Tài Liệu Đặc Biệt: Mật Trình Của Tướng Weyand & Tài Liệu Tướng Nguyễn Văn Hiếu

- Từ chuyến viếng thăm VN của Đại tướng Weyand, đến cái chết bí ẩn của Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó hành quân Quân đoàn 3, ngày 8-4-1975.

Như đã trình bày, vào tuần lễ cuối cùng của tháng 3/1975, Tổng thống Ford đã cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để tìm hiểu tình hình. Đại tướng Weyand là một vị tướng đã từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).

Đại tướng Weyan đã thăm và tìm hiểu tình hình VN từ ngày 28/3/1975 đến ngày 4/4/1975. Trở về Mỹ, ông đã làm một phúc trình đặc biệt lên Tổng thống Ford về tình hình VN và những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy VNCH.

Bốn ngày sau khi Đại tướng Weyand rời VN, vào ngày 8 tháng 4/1975, trong khi Cộng quân khai triển lực lượng để mở cuộc tấn công vào Long Khánh, thì tại Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 ở Biên Hòa, Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó Quân đoàn 3, đã chết một cách bí ẩn ngay tại văn phòng. Những người gần văn phòng của Tướng Hiếu nghe 1 tiếng súng nổ, 1 đại tá chạy qua thì thấy Tướng Hiếu nằm bất động trên chiếc ghế bành bàn giấy. Một giòng máu tươi chảy chan hoà xuống mặt và ngực. Một viên đạn đã xuyên qua trán đi thẳng lên óc. Viên đạn này còn trớn bay lên trần nhà, soi thủng một lỗ.

- Tập tài liệu đặc biệt "Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu", và những bí mật về những phúc trình của Sứ quán Mỹ tại Sài Gòn, và của Đặc sứ Tổng thống Mỹ.

30 năm sau ngày VNCH bị bức tử, những bí ẩn về cái chết của Tướng Nguyễn Văn Hiếu, từng là Phụ tá Phó Tổng tổng thống VNCH Trần Văn Hương đặc trách bài trừ tham nhũng, cùng những tài liệu mật về những phúc trình của Đại sứ Bunker, của các tướng lãnh Mỹ, đã được công bố qua tập tài liệu: "Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Một viên ngọc quân sự ẩn tàng", dày 546 trang, khổ giấy lớn, do ông Nguyễn Văn Tín, em ruột của Tướng Hiếu, sưu tầm và biên soạn với tất cả tấm lòng của một người em đối với người anh được đồng đội vinh danh là "dũng tướng". Tập tài liệu vừa được phát hành vào cuối tháng 4/1975. Theo ghi nhận của một số cựu sĩ quan cao cấp và cựu viên chức Chính phủ VNCH, đây là tập tài liệu có giá trị về phương diện lịch sử và chiến sử với những bài viết, tài liệu về các cuộc hành quân lớn trên chiến trường VN, về sự tham chiến của Hoa Kỳ tại VN, về thực trạng chính trị xã hội VN, thông qua đời binh nghiệp của Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu từ khi theo học khóa 3 sĩ quan hiện dịch trường Võ bị Liên quân Đà Lạt năm 1950 cho đến tháng 4/1975 qua các chức vụ: sĩ quan phòng 3 Bộ Tổng tham mưu, Trưởng phòng Quân đoàn 1, Tham mưu trưởng Sư đoàn 1 Bộ binh, Tham mưu trưởng Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Tư lệnh Sư đoàn 22, Tư lệnh 5 Bộ binh, Tư lệnh phó Quân đoàn 1, Phụ tá Phó Tổng thống đặc trách bài trừ tham nhũng, và chức vụ cuối cùng là Tư lệnh phó đặc trách hành quân của Quân đoàn 3.

- Báo cáo lượng định tình hình VNCH của Đại tướng Weyand đệ trình lên Tổng thống Ford.

Trở lại chuyến thị sát tình hình VN của Tướng Weyand, sau khi trở về Mỹ, vị đại tướng này đã làm phúc tình lên Tổng thống Ford. Phúc trình này đã được dịch và phổ biến trong tập tài liệu " Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu" (trang 315-328). Sau đây là những điểm chính của bản phúc trình mà Đại tướng Weyand đệ trình lên Tổng thống.

- Phần mở đầu, Đại tướng Weyand viết như sau:

"Vâng theo chỉ thị của Tổng Thống, tôi đã viếng thăm Nam Việt Nam trong thời gian từ 28/3 đến 4/4. Tôi đã hoàn tất công việc lượng định tình hình hiện tại đó, đã phân tách Chính Phủ Cộng Hòa Việt Nam có những dự tính nào để phản công sự gây hấn từ phía Bắc Việt, đã cam kết với Tổng Thống Thiệu sự hỗ trợ kiên trì của Tổng Thống trong thời gian khủng hoảng này, và đã kiểm điểm các lựa chọn và các đường lối hành động mà Hoa Kỳ có thể thi hành để trợ giúp Nam Việt Nam."

"Tình hình quân sự hiện tại đang lâm vào tình trạng gây cấn, và sự tồn tại của Nam Việt Nam trong tư thế một quốc gia đứt đoạn tại các tỉnh phía nam thật là mong manh. Chính Phủ Nam VN đang bên bờ vực thẳm của một sự thất bại quân sự hoàn toàn. Tuy nhiên, Nam Việt Nam dự tính tiếp tục chống cự với phương tiện có trong tay, và, nếu được phép dưỡng thở, có thể tái tạo khả năng chiến đấu tùy thuộc vào sự yểm trợ chiến cụ về phía Hoa Kỳ cho phép. Tôi xác tín là chúng ta có bổn phận phải hiến sự hỗ trợ này cho họ."

"Chúng ta đã tới Việt Nam, trước tiên là để hỗ trợ nhân dân Nam Việt Nam,-chứ không phải để đánh bại Bắc Việt. Chúng ta đã chìa bàn tay ra cho nhân dân Nam Việt Nam, và họ đã nắm lấy bàn tay ấy. Giờ đây họ cần tới bàn tay đó hơn bao giờ hết. Bằng mọi giá chúng ta đã trợ giúp cho 20 triệu người. Họ đã nói với cả thế giới là họ lo sợ cho tính mạng của họ. Họ là những người ưa chuộng các giá trị trùng hợp với các giá trị của các hệ thống không cộng sản, họ tha thiết đeo đuổi cơ hội tiếp tục phát triển một lối sống khác lối sống của những người hiện sống dưới ách Bắc Việt."

- Về phần viện trợ, Đại tướng Weyand ghi nhận:

"Mức độ yểm trợ hiện tại của Hoa Kỳ bảo đảm cho sự thất bại của Chính Phủ Nam VN. Trong số 700 triệu mỹ kim cho tài khóa 1975, số còn lại 150 triệu mỹ kim có thể xử dụng trong một thời gian ngắn cho một cuộc tiếp tế qui mô; tuy nhiên, nếu muốn đạt được một cơ may thành công thật sự, cần có lập tức thêm 722 triệu mỹ kim để đưa Nam Việt Nam tới một thế phòng thủ tối thiểu chống lại sự xâm chiếm được Nga và Tàu hỗ trợ. Sự viện trợ bổ túc này của Hoa Kỳ hợp với tinh thần và ý định của Hiệp Định Ba Lê. Hiệp Định này vẫn là phương thức thực tiễn làm việc cho một sự thỏa hiệp ôn hòa tại Việt Nam."

"Việc xử dụng hỏa lực không quân Hoa Kỳ để tăng cường khả năng Nam Việt Nam chống lại sự xâm chiếm của Bắc Việt sẽ đem lại sự hỗ trợ cả trên hai bình diện chiến cụ và tâm lý đối với Chính Phủ Nam VN và đồng thời sẽ đem lại một thế trì hoãn cần thiết trên chiến trường. Tuy nhiên tôi nhìn nhận những phiền phức khả quan về mặt pháp lý và chính trị nếu thi hành chọn lựa này."

- Về kế hoạch di tản, Đại tướng Weyand đề nghị:

"Xét về mặt biến chuyển nhanh chóng của các biến cố, Tổng Thống cần phải quan tâm tới một vấn đề khác. Dựa trên các lý do thận trọng, Hoa Kỳ phải có ngay bây giờ một kế hoạch di tản đại qui mô 6 ngàn kiều dân Mỹ và hàng vạn người Nam Việt Nam và Đệ Tam Quốc Gia mà chúng ta có bổn phận phải bảo vệ. Bài học tại Đà Nẵng cho thấy công việc di tản này đòi hỏi tối thiểu một chiến đoàn Hoa Kỳ của một sư đoàn tăng cường yểm trợ bởi không lực tác chiến để dập tan pháo binh và hỏa lực phòng của Bắc Việt. Khi tình thế đòi hỏi, một lời xác định công khai về chính sách này phải được công bố và Bắc Việt phải được cảnh cáo một cách rõ ràng : về ý định của Hoa Kỳ sẽ dùng tới vũ lực để bảo toàn tính mạng của các người được di tản. Hành Pháp phải được Quốc Hội cho toàn quyền xử dụng các hình phạt quân sự chống lại Bắc Việt nếu họ cản trở công cuộc di tản."

"Thế giới đánh giá sự trung tín của Hoa Kỳ trên tư cách một đồng minh tại Việt Nam. Để duy trì sự tin tưởng đó, chúng ta phải thực hiện một nỗ lực tối đa trong việc hỗ trợ cho Nam Việt Nam ngay bây giờ."

- Về vai trò và các lựa chọn hành động của Hoa Kỳ, Đại tướng Weyand đề nghị và phân tích như sau:

"Điều gì Hoa Kỳ làm, hay không làm, trong những ngày tới có lẽ là yếu tố định đoạt cho những biến cố xảy ra trong mấy tuần tới; điều này cũng đúng đối với điều gì Sàigòn hay Hànội làm hay không làm. Một mình Hoa Kỳ không thể cứu vãn Nam Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ có thể, cho dù có vô tình đi nữa, xô đẩy Nam Việt Nam xuống hố chôn."

"Đề nghị cụ thể của tôi có thể được phân thành hai loại. Có những hành động ngắn hạn--một phần về mặt thể lý nhưng chính yếu về mặt tâm lý--cần để nâng tinh thần Nam Việt Nam và, nếu có thể, ép buộc đình trệ hành động. Điều này chỉ mua được thời giờ, nhưng trong tình thế hiện tại thời giờ là điều tối cần. Thứ đến, có những hành động dài hạn, tuy mang tính chất vật chất nhưng cũng có khía cạnh tâm lý mạnh mẽ, cần thiết nếu muốn Nam Việt Nam có tí hy vọng tồn tại trước sự tàn phá của Bắc Việt hay thương thảo một hiệp ước khác hơn là đầu hàng."

"Điều kiện tiên quyết và cấp bách là Việt Nam cảm thấy Hoa Kỳ ủng hộ. Cảm quan này quan trọng về mọi mặt. Cảm quan Hoa Kỳ giảm thiểu ủng hộ Nam Việt Nam khuyến khích Bắc Việt tiếp tục tấn công. Chính cảm quan này đã khiến Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu triệt thoái khỏi các vị trí lẻ tẻ và lộ liễu tại các tỉnh phía bắc. Cảm quan này được cấu tạo bởi các hành động sau đây: Ngay sau khi ký kết Hiệp Định Ba Lê, 1.6 tỷ mỹ kim được đệ trình để cung ứng cho nhu cầu của Nam Việt Nam cho tài khóa 1974; 1.126 tỷ mỹ kim được xuất ra--thanh thỏa 70% nhu cầu. Tiếp sau đó 500 triệu mỹ kim còn lại bị từ khước không được tháo khoán. Đối với tài khóa năm nay, 1.6 tỷ được đệ trình để duy trì khả năng tự vệ của Nam Việt Nam; 700 triệu được chấp thuận--thanh thỏa 44 nhu cầu. Những hành động này đã giúp khai sinh khủng hoảng tin tưởng khiến Chính Phủ Nam VN dùng tới biện pháp triệt thoái chiến lược."

"Điều then chốt cho sự tồn tại sống còn của quốc gia Việt Nam nằm trong khả năng của Chính Phủ NVN ổn định tình thế, và đem các nguồn lực quân sự chống đối lại sức tấn công của Bắc Việt. Khả năng ổn định tình thế này tùy thuộc, một phần lớn, vào khả năng thuyết phục hạ tầng giới quân nhân và dân sự là chưa đến nỗi mất tất cả, và còn có thể chận đứng Bắc Việt. Tuy đó là trách vụ chính của Chính Phủ Việt Nam, các hành động về phía Hoa Kỳ mang tính chất quyết liệt trong việc tái tạo niềm tin."

"Hành động mà Hoa Kỳ có thể làm để gây nên ấn tượng tức khắc cho Việt Nam--Bắc lẫn Nam--là dùng không lực Hoa Kỳ để chận đứng thế tấn công hiện tại của Băc Quân. Cho dù chỉ giới hạn trên phần đất Nam Việt Nam và chỉ thực hiện trong một thời gian giới hạn, những tấn công này sẽ gây tổn thất lớn lao cho lực lượng viễn chinh Bắc Việt về mặt nhân sự và quân cụ, và sẽ tạo một chấn động về mặt tâm lý đối với các chiến binh xâm lăng. Những tấn công không tập này cũng sẽ khiến giới lãnh đạo Hànội phải đắn đo suy nghĩ, thái độ mà hiện giờ họ không có, đến hậu quả tai hại có thể xảy đến nếu họ làm ngơ lời cam kết chính thức họ đã hứa với Hoa Kỳ."

"Giới lãnh đạo quân sự Nam Việt Nam thuộc mọi cấp bậc đều luôn lập đi lập lại tầm mức quan trọng của sử dụng B-52 phản công chống lại một lực lượng địch to lớn hơn và quan điểm này hợp lý về mặt quân sự. Tôi ý thức đến các khó khăn về mặt pháp lý và chính trị gây nên bởi việc thi hành biện pháp không tập này."

"Một việc quan trọng mà Hoa Kỳ cần phải làm là xác định cách rõ ràng Hoa Kỳ quyết tâm ủng hộ Nam Việt Nam. Việc này phải bao gồm lời minh định tích cực của Tổng Thống và các giới chức cao cấp Mỹ. Tinh thần suy sụp của dân chúng Việt Nam đã hứng khởi lên rõ rệt khi phái đoàn Hoa Kỳ do Tổng Thống phái đi với nhiệm vụ điều tra tình hình đặt chân tới Sàigòn. Có thêm những hành động tương tợ như vậy sẽ minh chứng mối quan tâm của Hoa Kỳ. Cộng thêm vào các lời xác định của Ngành Hành Pháp, cần thêm nỗ lực tạo một mối quan tâm chung tại mọi lãnh vực trên đất Hoa Kỳ. Sự ủng hộ từ các thành viên của Quốc Hội; xác định lập trường ủng hộ từ các nhân vật có trọng trách trong và ngoài chính phủ; và sự thông cảm trong giới báo chí Hoa Kỳ sẽ cải biến cảm quan về phía Hoa Kỳ liên quan đến tình hình tại Việt Nam."

Vương Hồng Anh
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
huudangdo1 (05-18-2021)
Old 03-14-2021   #678
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,238
Thanks: 2,018
Thanked 1,465 Times in 679 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 23 Post(s)
Rep Power: 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default NHỮNG VÌ SAO THỜI LỬA ĐẠN



NHỮNG VÌ SAO THỜI LỬA ĐẠN






hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (05-18-2021)
Old 03-15-2021   #679
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,388
Thanks: 21,683
Thanked 38,136 Times in 12,871 Posts
Mentioned: 635 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7243 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Cuối tháng 3 năm 1975 tuyến đầu thất thủ

Tình hình chung

Sau tháng 1/1973 VC vẫn tiếp tục vi phạm Hiệp định Paris, cuộc chiến vẫn tiếp diễn nhưng VNCH còn đủ mạnh, khoảng cuối 1973 Hạ viện Mỹ bắt đầu cắt giảm viện trợ 50% mỗi năm 1974, 1975 khiến miền Nam ngày càng suy yếu, CS ngày càng mạnh hơn . Ông Nguyễn đức Phương dựa theo M.Maclear (Vietnam: The ten Thousand Day war) cho biết vào ngày mất Ban Mê Thuột 13/3/1975 Hạ viện Mỹ bác bỏ 300 triệu viện trợ bổ túc cho VNCH do TT Ford đệ trình. Đại sứ Martin cũng thông báo cho TT Thiệu biết quân viện cho năm tới (1976) sẽ không được chuẩn chi (Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 732). Tin sét đánh đã khiến TT Thiệu mất tinh thần để rồi đi từ sai lầm này đến sai lầm khác.



Nói trắng ra Hạ Viện Mỹ đã cạn tầu ráo máng buộc miền nam VN phải đầu hàng CS. Trong khi tại chính trường nước Mỹ vấn đề VN không được ai quan tâm tới, chỉ còn TT Ford và người phụ tá Kissinger cố gắng một cách tuyệt vọng để xin chút phương tiện cho VNCH. Vào lúc này đảng Dân Chủ nắm đại đa số Quốc hội Mỹ (67% Hạ viện và 60% Thượng viện), họ chống chiến tranh VN tích cực, đảng nọ phá đảng kia, bao giờ cũng vậy, ai cũng đều biết cả. Theo nhận xét của Kissinger (Years of Renewal trang 464) thì TT Ford không tìm được giải pháp nào để thoát ra khỏi sự bế tắc, thảm kịch không thể nào tránh khỏi.

(… there were no easy, heretofore undiscovered way out of this morass…

The tragedy had become simply inevitable.)

Gerald Ford chẳng khác nào một ông Tổng thống bù nhìn, lại nữa ông đã không do dân bầu, lên thay thế TT Nixon khi mà đảng Cộng Hòa bị mất quá nhiều uy tín qua vụ tai tiếng Watergate.

Tình hình miền nam VN lúc này quá u ám, Hoa Kỳ đã bắt tay được Trung Cộng tháng 2/1972 và hòa được với Sô Viết tháng 5/1972, thuyết Domino không còn ý nghĩa. Bây giờ là lúc họ quẳng cái miếng xương Đông Dương đi, được Cộng sản quốc tế khuyến khích, Hà Nội mừng rú vội chạy lại vồ ngay lấy. Năm 2006 trên internet tôi thấy có người hỏi cựu Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn:

“Chúng ta đã biết trước là thua tại sao vẫn đánh để khiến bao nhiêu người chết thảm?”
Một câu hỏi thật khó có câu trả lời…

Tối 29/3/1975 đài phát thanh BBC Luân Đôn cho biết Đà Nẵng đã thất thủ, một trăm ngàn quân bị bắt làm tù binh, đó cũng là ngày sụp đổ của toàn bộ Quân khu I, hung tin ghê gớm ấy đã khiến cho cả nước kinh hoàng: Quân khu I nơi tập trung những lực lượng tinh nhuệ và thiện chiến nhất của VNCH, bốn Sư đoàn chính qui chủ lực, bốn Liên đoàn Biệt động quân đã hoàn toàn tan rã sau 9 ngày cầm cự và triệt thoái. Mặc dù nay nhiều bí mật về cuộc lui binh đã được tiết lộ, Bộ Tổng tham mưu VNCH, các vị Tướng lãnh, các giới chức quân sự liên hệ đã bạch hóa diễn tiến của trận chiến bi thảm này, các nhà nghiên cứu quân sử, các nhân chứng, ký giả chiến trường… đã biên soạn, kể lại diễn tiến của mặt trận vùng Hoả tuyến nhưng người ta tưởng như nó vẫn còn nhiều điều bí ẩn và khó hiểu, chưa bao giờ trong cuộc chiến tranh Quốc -Cộng giai đoạn 1960-1975 một lực lượng to lớn của miền Nam lại có thể thua nhanh đến thế. Cũng có người cho rằng tấn thảm kịch này bắt nguồn từ ảnh hưởng của những yếu tố chính trị hơn là về quân sự.

Các tài liệu, sách báo nói về cuộc lui binh Quân đoàn I của Bộ tổng tham mưu Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Thiếu Tướng Hoàng Lạc, nhà nghiên cứu quân sử Nguyễn Đức Phương, ký giả chiến trường Phạm Huấn và những lời thuật lại của các nhân chứng … nói chung không hoàn toàn giống nhau, có khi còn trái ngược nhau là khác.

Quân khu I là một giải đất dài và hẹp hình cán chảo chạy theo hướng Tây Bắc, Đông Nam, gồm 5 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng tín, Quảng Ngãi, dân số vào khoảng ba triệu người. So với các Quân khu khác Vùng Một nhỏ hẹp nhất, đây là nơi tiếp giáp với Bắc Việt, chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ lúc nào nên cũng gọi là vùng Hoả tuyến. Từ sau khi ký hiệp định Paris, nửa triệu quân đồng minh đã rút đi, VNCH một mình phải gánh vác toàn bộ chiến trường. Lãnh thổ quá rộng, không đủ lực lượng trấn giữ nên tại đây VNCH chỉ còn kiểm soát được phần đất nằm phía bên phải của giải đất theo chiều dọc tức là phía Đông, còn phía Tây do Cộng thuộc quyền kiểm soát của CSBV. Dần dần VNCH chỉ còn những tỉnh lỵ và thị xã và các quận do sự lấn chiếm theo lối tầm ăn dâu của địch, kể từ sau ngày 19/3/1975, nếu nhìn trên bản đồ quân sự (Cao Văn Viên, Những Ngày Cuối VNCH trang 166) ta sẽ thấy miền Nam chỉ còn kiểm soát được vào khoảng gần một phần ba (1/3) diện tích Quân khu 1.

Năm 1972 Quân khu I đã là một chiến trường lớn, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt đẫm máu giữa các đại đơn vị của hai miền Nam Bắc .Vì tình hình sôi động đặc biệt của vùng hỏa tuyến ngoài ba Sư đoàn cơ hữu 1, 2, 3 của Quân đoàn, TT Thiệu còn cho hai Sư đoàn tổng trừ bị Nhẩy Dù và Thủy quân lục chiến ra đóng tăng cường. Đạn dược tiếp liệu ngày càng thiếu thốn bi đát, theo ông Cao Văn Viên (sách đã dẫn trang 92) từ tháng 7/1974 hoả lực miền Nam giảm hơn 70% và vào tháng 2/1975, đạn tồn kho các loại súng tại kho Trung ương chỉ còn đủ cung ứng khoảng một tháng (30 ngày).

Miền Nam không được Mỹ yểm trợ B52; tiếp liệu, đạn dược đã gần kiệt quệ, tài khóa 1974, 1975 bị cắt giảm 50% mỗi năm (Kissinger, Years of Renewal trang 472). Ngay từ cuối tháng 12/1974 khi BV xử dụng ba sư đoàn tấn công Phước Long, pháo binh VNCH tại đây đã phải đếm từng viên đạn để tiết kiệm hầu còn đủ chiến đấu (Kissinger, Years of Renewal, trang 490)

Trong khi ấy CS quốc tế vẫn tiếp tục viện trợ dồi dào cho BV. Theo BBCVietnamese.com ngày 10-5-2006, viện trợ quân sự CS quốc tế cho BV giai đoạn 1969-1972 là 684,666 tấn vũ khí, giai đoạn 1973-1975 là 649,246 tấn vũ khí coi như không thay đổi. Từ tháng 12/1974 Nga Sô đã viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp bốn lần hơn trước (Kissinger, Years of Renewal trang 481).

Nhìn sơ các con số và các dữ kiện trên chúng ta cũng đủ biết ai sẽ thắng , ai thua, về điểm này Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn có nói

“Xin nhắc lại một lần nữa, nguyên nhân sâu xa của sự sụp đổ của Miền Nam là không có viện trợ (phương tiện chiến tranh)

(Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975, trang 406)

Cuối năm 1974 tình hình chiến sự ở Quân khu I yên lặng được một thời gian, VNCH đẩy lui cuộc tấn công của BV vào đồng bằng Tây Nam Đà Nẵng, CSBV có lợi thế về địa hình, vì gần hậu cần miền Bắc, họ được bổ sung quân số và tiếp liệu thuận lợi. Từ tháng 6 cho tới cuối năm 1974 các lực lượng Quân đoàn I của VNCH bị tổn thất trong các trận giao tranh không được bổ sung nên quân số thiếu hụt. Quân khu 1 được chia làm hai khu Bắc và Nam, Bắc gồm hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên dưới quyền Bộ Tư lệnh tiền phương do Trung tướng Lâm Quang Thi chỉ huy, ba tỉnh còn lại Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi do Tư lệnh Quân đoàn Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trực tiếp chỉ huy.

Bố trí chủ lực quân VNCH như sau:

-Sư đoàn Nhẩy Dù vàTQLC, Lữ đoàn 1 Thiết kỵ từ Bắc Thừa Thiên lên tới Nam sông Thạch Hãn kéo dài sang phía Tây Quảng Trị.

Lực lượng cơ hữu của Quân khu và các Liên đoàn Biệt động quân bảo vệ các tỉnh còn lại:

– Sư đoàn 1BB và Liên đoàn 15 Biệt động quân đóng tại Thừa Thiên.

– Sư đoàn 3 BB và Liên đoàn 14 BĐQ đóng tại Đà Nẵng, Quảng Nam.

– Sư đoàn 2 BB và hai liên đoàn 11, 12 BĐQ bảo vệ Quảng Tín, Quảng Ngãi.

(Theo Nguyễn đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 751)

Các đơn vị yểm trợ gồm trên 10 tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn phòng không, một lữ đoàn thiết kỵ. Hải quân gồm các giang đoàn xung phong, trục lôi, tuần thám tại Thuận An, các duyên đoàn tại Cửa Việt, tại Thuận An, Tư Hiền… Sư đoàn 1 Không quân đóng tại Đà Nẵng. Quân số của Quân đoàn vào khoảng 90,000 chủ lực và 75,000 địa phương quân, nghĩa quân, số gồm cả thành phần không tác chiến. Đây chỉ là con số lý thuyết, trên thực tế thì thấp hơn không được như vậy vì nhiều lý do.

Lực lượng Cộng sản tại Quân khu I chia hai địa bàn hoạt động lấy đèo Hải Vân làm ranh giới do các Tướng Lê Tư Đồng, Nguyễn Hữu An, Chu Huy Mân chỉ huy. Theo tác giả Nguyễn Đức Phương tại đây Bắc việt có 7 sư đoàn (324B, 325, 320B, 312, 304, 711, 2) và 3 Trung đoàn độc lập tổng cộng vào khoảng 8 sư đoàn (Sách đã dẫn trang 752).

Theo ông Cao Văn Viên, tại đây BV có 5 sư đoàn (341, 325C, 324B, 304, 711), 10 trung đoàn độc lập (52, 4, 5, 6, 27, 31, 48, 51, 270, 271), 3 Trung đoàn đặc công (5, 45, 126), toàn bộ vào khoảng hơn 8 Sư đoàn. Lực lượng cơ giới yểm trợ gồm 3 Trung đoàn xe tăng, 12 Trung đoàn phòng không, 8 Trung đoàn pháo binh (Những Ngày Cuối Của VNCH trang 160).

Theo Nguyễn Đức Phương lực lượng địch tổng cộng vào khoảng 71,000 người. Bắc Việt có ưu thế về vũ khí đạn dược hơn VNCH rất nhiều, chủ lực quân coi như gấp hai.

Diễn tiến của mặt trận

Trong khi mở chiến dịch Ban Mê Thuột, CSBV tại Quân khu I cũng xâm nhập đánh phá các nơi để cầm chân quân đội VNCH như tại Quảng Trị, họ chiếm quận Hải Lăng Bắc Thừa Thiên, xâm nhập các xã ven biển Thừa Thiên. Phía Nam đánh các cao điểm của Sư đoàn I, tấn công tuyến sông Bồ nhưng bị đẩy lui bỏ lại 200 xác chết, tại Quảng Tín địch chiếm 2 quận Tiên phước, Hậu Đức ngày 10/3 bắn phá tỉnh lỵ Tam Kỳ…

Ngày 11/3, sau khi CS tấn công chiếm Ban mê Thuột một ngày, Tổng thống Thiệu triệu tập phiên họp tại Dinh Độc Lập, có mặt Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang. TT Thiệu cho biết trước tình hình khó khăn do quân viện bị cắt giảm, áp lực địch mạnh, ta chỉ có thể giữ được Quân khu III, Quân Khu IV và một vài tỉnh duyên hải QK I và QK II, QK I chỉ giữ Huế và Đà Nẵng (Những Ngày Cuối Của VNCH trang 129, 130, 131)

Trong lúc tình hình quân sự có vẻ không thuận lợi cho ta thì theo yêu cầu của TT Thiệu, Bộ TTM lệnh cho Tướng Trưởng trả Sư đoàn Nhẩy Dù về Trung ương.

Ngày 13/3 TT Thiệu lệnh cho Tướng Trưởng về Sài Gòn họp Hội Đồng an ninh Quốc gia, thành phần gồm Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn. Ông Thiệu cho biết tình hình khó khăn do cắt giảm quân viện, ông không tin Mỹ sẽ can thiệp dù Cộng Sản tấn công miền Nam nên phải tái phối trí lực lượng, rút quân bỏ những miền cao nguyên rừng núi để giữ những vùng mầu mỡ còn hơn đứng chung chính phủ Liên Hiệp với Cộng Sản.

Ngày 14/3 Tướng Trưởng về Quân đoàn I họp tham mưu, thảo luận kế hoạch tái phối trí, Nhẩy Dù sẽ rút về Sài Gòn, hôm sau Liên đoàn 14 BĐQ nhận vùng trách nhiệm của Lữ đoàn TQLC 369 tại Quảng Trị để Lữ đoàn này về Phú Lộc thay Lữ đoàn Dù, một lữ đoàn TQLC sẽ chịu trách nhiệm khu vực sông Bồ để bảo vệ Huế.

Ngày 17/3 Lữ đoàn 258 TQLC sẽ rời Quảng Trị để về Đà Nẵng thay lữ đoàn 2 Dù. Dân chúng sợ hãi đã di tản ồ ạt trên quốc lộ Một từ mấy ngày nay làm cản trở việc điều quân tái phối trí.

Ngày 18/3 Thủ tướng Trần Thiện Khiêm ra Đà Nẵng để giải quyết vấn đề dân tỵ nạn, ông cho Tướng Trưởng biết sẽ không tăng viện Quân khu I vì tình hình Quân khu III nghiêm trọng, Việt Cộng đánh Dầu Tiếng, áp lực Tây Ninh, Long Khánh, Bình Tuy…

Ngày 19/3 Tướng Trưởng được triệu về Sài Gòn họp lần thứ hai, thành phần phiên họp cũng như lần trước nhưng có thêm Phó tổng thống Trần Văn Hương. Tướng Trưởng trình bầy hai kế hoạch lui binh:

Kế hoạch Một: các đơn vị sẽ theo Quốc lộ Một từ Huế, Chu lai về Đà Nẵng, trong trường hợp Quốc lộ Một bị cắt thì sẽ theo kế hoạch Hai.

Kế hoạch Hai: Các lực lượng Quân đoàn sẽ tập trung tại ba cứ điểm Huế, Đà Nẵng và Chu Lai, tầu Hải quân sẽ chuyên chở lính từ Huế, Chu Lai về Đà Nẵng. Trong cả hai kế hoạch Đà Nẵng là điểm phòng thủ chánh, điểm tựa cuối cùng, Tướng Trưởng đề nghị giữ cả ba cứ điểm để phân tán lực lượng địch và gây tổn thất tối đa cho Việt Cộng, ông Thiệu cho biết giữ được bao nhiêu hay bấy nhiêu.

Ông Cao Văn Viên cho rằng kế hoạch của Tướng Trưởng là hợp lý.

“Kế hoạch lui quân của Quân đoàn 1 soạn thảo rất hợp lý và đầy đủ, gồm kế hoạch dự phòng để đối phó với những bất ngờ do địch gây ra. Khi trận chiến khai diễn như Kế Hoạch Hai dự trù và các đơn vị của Quân đoàn 1 rút hết về Đà Nẵng, chúng ta chỉ còn hai hành động phải làm: Cố thủ tại chỗ hoặc rút bằng đường biển nếu tình thế bắt buộc. Như vậy vào thời điểm trên, đâu còn cần đến kế hoạch dự phòng nào khác”

(Những Ngày Cuối Của VNCH Trang 163)

Thật ra kế hoạch nghe thì hay nhưng thực hiện được lại không phải dễ, thực tế rất phũ phàng, BV tấn công gấp rút, dân chúng di tản làm náo loạn khiến binh sĩ mất tinh thần. TT Thiệu lệnh cho Tướng Trưởng cố gắng giữ được tất cả những phần đất có trong tay sau đó ông bảo Tướng Quang soạn bài hiệu triệu trên đài phát thanh Huế để trấn an dân chúng, quyết bảo vệ Huế đến cùng. Buổi họp này không thấy nói đến triệt thoái mà chỉ là kế hoạch co cụm để giữ đất.

Ngày 19/3 Quảng Trị bỏ ngỏ, chi đoàn Thiết giáp, liên đoàn 14 BĐQ rút về bên này Mỹ chánh lập phòng tuyến mới. Cộng quân bắt đầu tấn công mạnh vào Quân khu. Theo Tướng Hoàng Lạc, Giám mục Phạm Ngọc Chi địa phận Đà Nẵng và Giám mục Nguyễn Kim Điền khuyên không nên đổ máu vô ích vì các siêu cường đã sắp đặt cả rồi.

Sáng 20/3 Tướng Trưởng bay ra bộ chỉ huy tiền phương họp các cấp chỉ huy bàn kế hoạch phòng thủ Huế như Tổng thống ra lệnh phải giữ bằng mọi giá. Tình hình mặt trận tương đối còn tốt đẹp, các đơn vị hoàn hảo, tinh thần cao duy trì được kỷ luật, ai nấy đồng lòng tử thủ, dân chúng di tản nhiều. Tướng Trưởng lạc quan khi thấy Huế phòng thủ tốt. Trưa hôm đó ông Thiệu đọc hiệu triệu dân trên đài phát thanh Huế. Đến chiều khi về tới Đà Nẵng TướngTrưởng nhận được lệnh của dinh Độc Lập chỉ giữ Đà Nẵng thôi nếu tình hình bó buộc, ông Thiệu lý luận Quân đoàn I không đủ lính để bảo vệ cả ba cứ điểm Chu lai, Huế và Đà Nẵng. Tướng Trưởng được quyền tùy cơ ứng biến.

Quân khu I ngày một nguy ngập, Cộng quân đã bắt đấu tấn công mạnh theo thế gọng kìm từ trên Quảng Trị đánh xuống và từ dưới Quảng Ngãi đánh lên, dân chúng chạy loạn ồ ạt từ Huế kéo về Đà Nẵng, từ Quảng Nam Quảng Ngãi kéo lên. Ngày 21/3 địch tấn công Phú Lộc, áp lực mạnh trên Quốc lộ Một, dân tản cư đông như kiến từ Huế về Đà nẵng. Sư đoàn I VNCH có pháo binh và không quân yểm trợ đẩy lui cuộc tấn công của BV nhưng họ có ưu thế về lực lượng nên Sư đoàn 1 cầm cự đến trưa ngày 22 thì thất thủ, Trung đoàn 1 BB (SĐ1) và Liên đoàn 15 Biệt động quân bị đẩy lui, một khúc đường Quốc lộ Một bị cô lập, Trung đoàn I bị thiệt hại nặng, Tướng Trưởng ra lệnh thu gọn tuyến phòng thủ Huế.

Dân chúng và quân cụ bắt đầu được chở bằng tầu ra khỏi Đà Nẵng, ngày 23/3 Việt Cộng pháo kích Huế rời rạc không gây thiệt hại gì nhiều nhưng khiến dân chúng hốt hoảng náo động như hỗn loạn. Tại phía Nam Vùng Một tình hình nguy ngập khi quận Hậu Đức, Tiên Phước thuộc Quảng Tín bị Việt cộng chiếm, Sư đoàn 2 và Liên đoàn 12 BĐQ chặn được áp lực địch tấn công về Tam Kỳ và các vùng duyên hải. Trước áp lực dồn dập của Cộng quân Tướng Trưởng ra lệnh di tản 2 quận Sơn Trà, Trà Bồng Quảng Ngãi, những tiền đồn xa tiếp tế cũng được di tản, Tướng Trưởng cho gom các lực lượng rời rạc lại để bảo vệ những điểm trọng yếu vào trận cuối cùng. Sự chỉnh đốn của Tướng Trưởng đem lại chút bình yên gượng gạo cho 2 tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Tín trong 2 ngày.

Sáng ngày 24/3 tại phía Nam Quân khu 1, BV tấn công mạnh tại Quảng Tín, Sư đoàn 711, Trung đoàn 52 BV và xe tăng đánh Tam Kỳ, đặc công đột nhập tỉnh lỵ thả tù gây rối loạn đến trưa thì Tam Kỳ thất thủ. Trung đoàn 2 thuộc Sư đoàn 3 VNCH từ Quảng Nam được lệnh tiến về Quảng Tín để giúp Địa phương quân chạy từ Tam Kỳ về. Tam kỳ mất, dân ùn ùn chạy về Đà Nẵng. Tại Quảng Ngãi Cộng quân tấn công dữ dội, đặc công và địa phương quân Việt Cộng tại Quảng Ngãi tấn công phi trường, các cơ sở hành chánh quân sự Quảng Ngãi. Đường Quốc lộ Một từ Quảng Ngãi tới Chu lai bị cắt đứt, đường ra biển bị cô lập, chỉ trong một ngày tình hình Quân khu 1 rối loạn đến mức không còn kiểm soát được nữa. Quân đoàn chấp thuận cho tiểu khu Quảng Ngãi mở đường máu về Chu Lai nhưng chỉ có vài đơn vị về được.

Ngày 25/3 tất cả các đơn vị Quân đoàn I tụ lại 3 phòng tuyến chính: Chu Lai phía nam, Đà Nẵng ở giữa và Huế phía Bắc, các lực lượng của Quân đoàn I bị thiệt hại nhiều khi di tản về các phòng tuyến này, tinh thần binh sĩ xuống thấp, ai nấy chán nản chưa bao giờ trong đời chinh chiến họ thấy tuyệt vọng như hiện nay. Trong tình thế khó khăn Tướng Trưởng lại nhận thêm một lệnh nữa từ dinh Độc Lập, TT Thiệu lệnh cho Tướng Trưởng dùng ba Sư đoàn cơ hữu của Quân đoàn: SĐ1, SĐ2, SĐ3 để phòng thủ Đà Nẵng, Sư đoàn TQLC đóng vai trừ bị. Đêm đó Tướng Trưởng cho Sư đoàn I và các đơn vị quanh Huế rút về Đà Nẵng, ông lệnh cho Sư đoàn 2, Chi khu Quảng Ngãi và thân nhân của họ rút ra Cù Lao Ré, một đảo ngoài khơi Chu lai. Hai tầu dương vận hạm đón Sư đoàn 2 tại Chu lai đưa về Cù Lao Ré, cuộc vận chuyển thành công hơn mặc dù có hỗn loạn nhưng một nửa quân số của Sư đoàn 2 đã lên tầu đưa về Bình Tuy, chính phủ tuyên bố Huế và Chu lai thất thủ ngày 25/3.

Các lực lượng Huế bắt đầu di tản, Sư đoàn I và các đơn vị cơ hữu rút ra cửa Tư Hiền. Hải quân và công binh sẽ bắc cầu để quân di tản đi ngược vào đất liền rồi dùng đường bộ về Đà Nẵng. Sư đoàn TQLC và các đơn vị trực thuộc sẽ triệt thoái bằng tầu Hải quân. Sáng ngày 26/3 biển sóng to làm đình trệ cuộc vận chuyển, cầu nối giữa Tư Hiền và đường bộ chưa hoàn tất. Đến trưa thủy triều dâng cao không thể vượt biển được trong khi ấy Cộng quân đuổi theo nã pháo vào cửa Tư Hiền và các địa điểm tập trung gây nhiều thiệt hại, hỗn loạn diễn ra không còn quân kỷ, Sư đoàn I tan rã tại đây chỉ có một phần ba về được đến Đà nẵng, tới nơi họ rã ngũ đi tìm thân nhân.

Trong khi đó thì Lữ đoàn kỵ binh với hơn 100 thiết giáp các loại từ mặt trận Bắc Huế tiến về cửa Thuận An, theo sau là các đơn vị pháo binh với hằng trăm khẩu pháo, TQLC, BĐQ, ĐPQ từ tuyến sông Bồ đang lũ lượt kéo về, hỗn loạn lại diễn ra. Hai tầu dương vận hạm đến cửa Thuận An để chở TQLC, tầu hải vận đĩnh và quân vận đĩnh chở người từ bờ ra dương vận hạm.

Sư đoàn 325 CS chuyển vào Quảng Nam phối hợp với sư đoàn 304 CS tấn công Đà Nẵng, Sư đoàn 2 CS cũng tiến về thành phố. Quân đội VNCH lập phòng tuyến phòng thủ bảo vệ Đà Nẵng, phía Tây 2 lữ đoàn TQLC, phía Nam Sư đoàn 3 và ĐPQ Quảng Nam. Ngày 27/3/1975 các cuộc phòng thủ Đà Nẵng thành ra vô hiệu trước sự hỗn loạn, Cộng quân dồn nỗ lực bao vây thành phố. Từ bắc Đà Nẵng hai Sư đoàn 324B và 325C CSBV cùng với Trung đoàn xe tăng và hai Trung đoàn pháo tiến dọc theo thung lũng Voi bao vây thành phố. Phía Nam Sư đoàn 711, 304 BV tiến chiếm Đại Lộc và Dục Đức, Đà Nẵng đã nằm trong tầm pháo của quân thù. Tại thành phố lớn thứ hai của miền nam này Quân đoàn I chỉ còn có Sư đoàn 3 và 2 lữ đoàn TQLC, các Sư đoàn 1 và 2 đã bị rã ngũ trên đường triệt thoái, một phần đã được tầu chở ra khơi, lực lượng không đủ để đương đầu với áp lực quá đông của BV, lại nữa thành phồ với hằng triệu người tỵ nạn đã trở nên hỗn loạn không thể nào kiểm soát được.

Sáng ngày 28/3/1975 Tướng Trưởng họp khẩn cấp các đơn vị trưởng ban hành một số biện pháp vãn hồi trật tự và tái trang bị các đơn vị di tản trong thành phố nhưng ta không còn đủ quân tác chiến để thực hiện kế hoạch này. Các quân nhân có mặt được sung vào các đơn vị tác chiến nhưng không đủ để bù vào thiệt hại do cuộc triệt thoái gây ra. Trưa 28/3 Phòng 2 thuộc Bộ TTM cho Quân đoàn I biết Cộng quân có thể tấn công trong đêm, Sư đoàn I Không quân được lệnh di tản về Phù Cát, Phan Rang, Quân đoàn I ban lệnh ứng chiến tại các tuyến phòng thủ. Hai giờ trưa các xã ấp quanh Đà Nẵng đã lọt vào tay Cộng quân. Địa phương quân, nghĩa quân tan rã, binh sĩ rã ngũ rời đơn vị.

CSBV pháo phi trường, căn cứ Hải quân khi trời vừa tối rất dữ dội và chính xác nhờ những toán đặc công, tiền pháo viên chỉ điểm hướng dẫn. Tướng Trưởng vội báo cáo về Bộ Tổng tham mưu và gọi cho Tổng thống Thiệu xin di tản bằng đường biển. Tướng Thiệu không ra lệnh rõ ràng chỉ hỏi vu vơ nếu di tản thì có thể được bao nhiêu. Pháo kích của BV khiến cho liên lạc giữa Sài Gòn và Đà Nẵng bị cắt đứt, Tướng Trưởng lập tức ra lệnh bỏ Đà Nẵng, ông họp với Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư lệnh Hải quân vùng I và các cấp chỉ huy để hẹn địa điểm rút quân tại chân đèo Hải Vân , núi Non Nước và cửa khẩu Hội An.



Rạng sáng ngày 29/3/1975 sương mù bao phủ dọc theo bờ biển, ngoài khơi tầu đã có mặt ở điểm hẹn, thủy triều thấp tầu không vào bờ được, binh sĩ phải lội ra biển. Cuộc di tản êm xuôi cho đến khi khi BV phát hiện bèn pháo kích vào địa điểm tập trung quân và tầu ngoài khơi gây nhiều thiệt hại, đoàn tầu di tản được khoảng 6,000 TQLC, 3,000 lính Sư đoàn 3 và nhiều đơn vị khác.

Đà Nẵng được coi như thất thủ ngày 29/3/1975. Có tài liệu cho biết VNCH mất 130 máy bay tại Đà Nẵng. Năm 1976 Tướng Trưởng trả lời một cuộc phỏng vấn cho biết khoảng 6,000 TQLC, non nửa lực lượng của Sư đoàn và 4,000 quân thuộc các binh chủng khác đã được tầu bè cứu thoát. Tướng Nguyễn Duy Hinh Tư lệnh Sư đoàn 3 cho biết trong số 12,000 người của Sư đoàn 3 chỉ có 5,000 đến được điểm tập trung và sau cùng chỉ có 1,000 người lên được tầu. Tổng cộng có 70,000 người dân được cứu thoát và 16 ngàn lính, 4 Sư đoàn kể cả TQLC bị thiệt hại nặng nề không thể gọi là đơn vị chiến đấu được nữa. Tất cả quân trang quân dụng, vũ khí, xe tăng đại bác… của Quân khu I coi như mất hết.

Quân khu I thất thủ một cách dễ dàng trong khoảng 10 ngày, không có lực lượng nào được tổ chức để đánh chận hậu, đánh trì hoãn khi Quân đoàn di tản. Cuộc lui binh thất bại hoàn toàn được coi tồi tệ hơn so với Quân đoàn II, hỗn loạn gấp bội phần, sự thiệt hại về nhân mạng cao hơn cuộc triệt thoái tại Tây nguyên nhiều.

Trọng Đạt
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	5163598814_f13790eb16_z.jpg
Views:	0
Size:	82.2 KB
ID:	1756598 Click image for larger version

Name:	27334719232_0aa27eb44a_z.jpg
Views:	0
Size:	77.3 KB
ID:	1756599
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (05-13-2021), huudangdo1 (05-14-2021)
Old 03-26-2021   #680
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,388
Thanks: 21,683
Thanked 38,136 Times in 12,871 Posts
Mentioned: 635 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7243 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default THÁNG BA CHÔN SÚNG



Cứ mỗi tháng Ba về, lòng tôi lại chùng xuống, phải nói là buồn đau, cay đắng, ngậm ngùi đến tận cùng tim gan mỗi khi nhìn thấy những hình ảnh đau thương đập vào mắt tại bãi biển Thuận An vào những ngày 25, 26, 27 hay tại bờ biển Đà Nẵng ngày 28, 29 tháng 3/1975.

Đã 39 năm trôi qua, đã có quá nhiều bài viết về những ngày cuối tháng 3/1975 tại bãi biển Thuận An. Tôi không muốn lập lại nhưng với cương vị là Trung Úy, ĐĐP/ĐĐ2, TĐ7, LĐ147/TQLC, là lữ đoàn bị kẹt lại trên bãi biển Thuận An, tôi xin ghi lại những gì mắt thấy, tai nghe cùng suy nghĩ của mình về những ngày chiến đấu tới tận cùng sức sống của TĐ7/TQLC mà Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Phạm Cang, Tiểu Đoàn Phó là Thiếu Tá Lê Quang Liễn, cả 2 vị đều xuất thân từ Khóa 20 Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.

Viết để thấy rõ hơn là trong trận đánh cuối cùng đó của TĐ7/TQLC, chúng tôi đã chiến đấu với ai, với 1 đại đội du kích Việt Cộng hay là chiến đấu với cấp tiểu đoàn, trung đoàn chính quy Bắc Việt với hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 cùng với chiến xa T54 yểm trợ…
Khoảng 5 giờ chiều ngày 19/3/1975, trời nhá nhem tối, tôi là đại đội phó ĐĐ2/TĐ7 TQLC, bàn giao vị trí phòng thủ cho 1 trung úy đại đội trưởng đại đội Biệt Động Quân. Đi theo tuyến phòng thủ dưới cơn mưa phùn gió bấc của tháng 2 âm lịch tại miền núi rừng miền Trung, lạnh cắt da, miệng đánh bò cạp. Tôi hỏi ông về khả năng tham chiến thì được biết quân số của đại đội ông là khoảng 80, mới đụng nặng trở về nên quân số chưa bổ sung kịp. Như vậy là gay cấn rồi đây, quân số của ông vừa đủ trám tuyến cho 2 trung đội TQLC chúng tôi.

Tôi hướng dẫn cho ông hệ thống phòng thủ, giao thông hào hình chữ Z, hầm hố cá nhân, những vị trí đặt súng nặng đại liên M60, những hầm hàm ếch dưới giao thông hào sâu gần 2 mét để tránh pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly. Tuyến phòng thủ là một đồi đá nhiều hơn đất, muốn lấy nước là phải theo những con đường đặc biệt từ trên đồi xuống thông thủy. Bàn giao cả những vị trí gài bẫy, gài mìn claymore, lựu đạn và có cả những vọng gác giả, lính giả để nghi binh… Ban ngày thấy vậy nhưng không phải vậy, ban đêm mà mò vào là biết thế nào là TQLC phòng thủ, biết thế nào là Sinh Bắc Tử Nam ngay… Bàn giao cho ông những hỏa tập tiên liệu trên bản đồ. Coi chừng bị bắn sẻ. Riêng 2 cái máy sensor để dò tiếng động thì chúng tôi phải đem theo. Khoảng 8 giờ tối thì chúng tôi mới bàn giao xong. Tôi chúc ông may mắn ở lại, còn chúng tôi từ giã Quảng Trị Anh Hùng…

TĐ7/TQLC được lệnh rút về lập Tuyến Đỏ tại đèo Hải Vân. Mỗi sĩ quan nhận 10 tấm bản đồ trải dài từ Quảng Trị đến Đà Nẵng. Từ khi tình nguyện về TQLC, đây là lần đầu tiên tôi nhận một số bản đồ nhiều kỷ lục cho một cuộc hành quân. Chúng tôi thống nhất đánh số xấp bản đồ từ 1 đến 10 và mỗi bản đồ đều có những soát điểm, di chuyển đến đâu là phải báo cáo cho BCH/TĐ biết để kịp thời yểm trợ. Kèm theo đó còn có những hỏa tập tiên liệu… tất cả đều được mã hóa, VC có bắt được tần số của chúng tôi thì cũng mù vì chỉ có sĩ quan mới có tập giải mã này. Nói đến đây không thể không nhắc đến Thiếu Tá Lê Quang Liễn, TĐP/TĐ7, ông là người soạn ra tập mã hóa này, tất cả đều bằng số, và các sĩ quan cũng như hiệu thính viên đều phải cố gắng nhớ càng nhiều càng tốt…

Ngày 20/3/1975, đơn vị tôi rút về đóng quân tại cây số 17, nhiệm vụ là bảo vệ cầu An Lỗ để bảo đảm an ninh lộ trình cho Lữ Đoàn 369 của Tr/Tá Nguyễn Xuân Phúc đi chuyển qua rồi mới tới TĐ7 sẽ rút sau cùng theo chiến thuật cuốn chiếu. Tôi còn nhớ rõ là sáng hôm đó tôi đã đứng nghiêm chào khi Thiếu Tá Lâm Tài Thạnh, TĐT/TĐ9 đi ngang qua cầu. Ngồi trên xe ông chào lại và mỉm cười. Ông và tôi quá quen thuộc vì trước đó không lâu ông là TĐP/TĐ7 và tôi là ĐĐP/ĐĐ2/TĐ7, cùng chung cánh B do ông chỉ huy.

Ngày 21/3/1975, thật là bất ngờ khi được Thiếu Tá Phạm Cang cho tôi 6 giờ phép về thăm gia đình. Bất ngờ là vì suốt hơn 2 năm hành quân ở Quảng Trị, qua 2 đời TĐT, Th/Tá Nguyễn Kim K16 VB rồi Th/Tá Phạm Cang K20 VB, qua 2 cái Tết, tôi chưa bao giờ được cấp 1 giờ phép, mặc dù gia đình tôi ở Huế, chỉ cách nơi tôi hành quân khoảng 50 cây số…

Cầm tờ giấy phép trong tay, tôi đu theo chiếc GMC tiếp tế trên đường trở về hậu trạm ở Mang Cá và về đến nhà khoảng 11 giờ sáng. Đến 12 giờ trưa thì ba tôi đi làm về, tôi cùng gia đình ăn một bữa cơm sau hơn 2 năm xa cách từ ngày ra trường (15/12/1972). Ba tôi làm việc tại Viện Đại Học Huế, ông cho tôi biết là tất cả nhân viên đã sẵn sàng di tản vào Đà Nẳng khi có lệnh. Khoảng 1 giờ trưa, từ giã gia đình, tôi đi xe Honda qua Bưu Điện Huế để gọi điện thoại về cho “em gái hậu phương” ở Sài Gòn. Tôi chỉ cho biết là tôi sẽ đi thăm chú K. (chú K. là chú của tôi đang dạy học tại Đà Nẵng). Nói chuyện được 5 phút, phải ngưng, nhường cho người khác vì người chờ để gọi quá đông. Có một ông nhận là ký giả hỏi tôi là có gởi hay nhắn gì về Sai Gòn không, ngày mai ông sẽ về SG. Tôi cám ơn ổng vì chẳng có gì để gởi.

Lại leo lên xe Honda ra bến xe để trở lại nơi hành quân. Hơn 2 năm trời được 6 giờ phép về thăm cha mẹ ngay trong vùng hành quân! Những ai không ở trong hoàn cảnh lính chiến trên địa đầu giới tuyến thì tưởng đó là chuyện đùa, chính tôi cũng tưởng đùa, nhưng mà là thật. Không phải cấp chỉ huy làm khó thuộc cấp, chúng tôi, từ trên xuống dưới đều thế cả, vì nhiệm vụ mà phải hy sinh, vì tụi VC xâm lăng muốn “làm khó, làm khổ” đồng bào.
Ba giờ chiều, ra đến vị trí đóng quân, thì một ngạc nhiên khác lại đến với tôi, đó là đơn vị của tôi đã không còn ở chỗ cũ như hồi sáng nữa mà đã hành quân trở ra lại Quảng Trị rồi!.

Ngày 22/3/1975, một ngày khá yên tĩnh, khoảng 8 giờ sáng, toán tiền đồn báo về là từ hướng Quảng Trị có một số quân và dân đang di chuyển về tuyến chúng tôi. Tôi được lệnh là chận tất cả lại. Hỏi chuyện một Trung Úy Địa Phương Quân thì được biết là quân chính quy Bắc Việt rất đông cùng với nhiều chiến xa đã chiếm Quảng Trị, nơi mà mấy ngày trước, TQLC vừa bàn giao tuyến lại cho BĐQ và ĐPQ.
Đến chiều thì địch xuất hiện, ngang nhiên như chỗ không người, họ đâu có ngờ là TQLC vẫn còn đây, và được chúng tôi tiếp đón rất nồng hậu bằng hỏa lực cơ hữu cùng với 1 M41 tăng phái. Địch rút.

Ngày 23/03/1975, một ngày khá căng thẳng, 2 bên gờm nhau, địch biết ta, ta biết địch nhưng 2 bên đều án binh bất động. Hai bên đều đánh hơi được là thế nào cũng sẽ có 1 cuộc thư hùng xa xảy ra nhưng chưa biết sẽ xảy ra khi nào thôi. Gọi pháo binh không được, không biết tại sao. Từ khi tôi làm ĐĐP, luôn luôn có 1 Thiếu Úy “đề lô” thuộc pháo binh cơ hữu của TQLC đi với tôi nhưng mấy ngày gần đây không còn thấy nữa. Đã 3 tháng nay, sĩ quan “đề lô” của pháo binh TQLC đi với tôi là Thiếu Úy Lê Hạ Huyền. Tôi nhớ rõ họ tên vì ông T/U Huyền là bà con với tôi, tôi gọi ông bằng chú măc dù tuổi ông nhỏ hơn tôi.

Ngày 24/03/1975, tôi nằm trên tuyến với 3 Trung Đội 1, 2 và 3. Cả 3 trung đội dàn hàng ngang nằm trên những đụn cát, chỉ có những bụi dương liễu cao khoảng nửa mét, không có chỗ ngụy trang. Xin nói thêm là trong giai đoạn lính tổng trừ bị TQLC “được” làm lính địa phương, đối phó với giặc có chiến xa thì quân số của một đại đội TQLC trung bình là 160, bao gồm một tiểu đội chống chiến xa (TĐCCX). Mỗi quân nhân trong TĐCCX ngoài 1 cấp số đạn M16 còn mang 3 khẩu M72. Tức là mỗi đại đội TQLC có hơn 30 khẩu M72, một loại vũ khí diệt tank hữu hiệu vào thời điểm đó.

Hôm ấy khoảng 10 giờ sáng mà trời vẫn còn sương mù dày đặc, tầm nhìn rất giới hạn, toán tiền đồn báo là có tiếng của chiến xa (CX) nhưng chưa xác định được loại nào vì chưa thấy rõ. Mặt trời từ từ xuyên thủng màn sương mù dày đặc và chúng tôi đã thấy chiến xa địch xuất hiện, 1 rồi 2, rồi 3, rồi 4, rồi 5 chiếc T54 với bộ binh tùng thiết, dàn hàng ngang tiến thẳng về hướng phòng thủ của đại đội tôi. Tôi gọi máy báo cho ĐĐT là Đại Úy Ngô Kim Anh biết tình hình và xin pháo binh yểm trợ. Tôi gọi pháo binh, cho tọa độ. Tràng đầu tiên hơi xa, tôi điều chỉnh gần lại 50, vẫn còn xa, gần lại 50 nữa thì đạn đã nổ chụp ngay trên đội hình của địch. Địch bắt đầu dừng lại, lúng túng rồi hoảng hốt, địch chưa thấy ta. Yếu tố bí mật và bất ngờ đang nằm phía ta. Lệnh đại đội cho tôi chơi ống thổi lửa (M72) nhưng chưa cần thiết, một khi phóng M72 ra là phải chắc ăn, “cua phải bị nướng”, phải chờ chúng tới thật gần, nhất 9 nhì bù, CX còn ở xa, không trúng mục tiêu mà vị trí của mình bị lộ thì… với hỏa lực của T54, một khẩu đại bác 100 ly cộng với đại liên nó mà quạt lại thì tiêu, TQLC sống hùng, sống mạnh nhưng chắc là không sống lâu.

Cái hấp dẫn, hồi hộp, căng thẳng, bình tĩnh, sống chết trong đường tơ, mạng của hằng trăm lính trên tuyến đối diện với CX địch chính là tùy thuộc vào cấp chỉ huy lúc này đây. Lúc này đây, tôi không nghĩ gì đến cha mẹ tôi ở Huế, ngừơi yêu ở Saigòn, em hậu phương ở Đà Lạt, những nụ cừoi duyên BTX sáng Chúa Nhật trên khu phố Hòa Bình, nhà Thủy Tạ v.v… mà là mạng sống của anh em tôi, của tôi trứơc họng súng 100 ly của T54.

Tôi còn nhớ thời gian TĐ7 về “hấp” ở TTHL Đống Đa tại Phú Bài, trong 1 buổi huấn luyện và thực tập bắn M72, tôi được chỉ định bắn M72 cho quân nhân trong ĐĐ xem. Với cự ly 150 mét, trời nắng, gió nhẹ, tầm quan sát rõ, tôi đã bắn bay mục tiêu là 3 cái thùng phuy tượng trưng cho T54. Đó là kết quả của những ngày thao trường đổ mồ hôi, công sức huấn luyện của các Đ/Úy Tôn, Đ/U Nhồng, Đ/U Thái, Đ/U Dục … Xin thành thật cám ơn quý vị, nhờ các vị huấn luyện đã tạo cho tôi niềm tự tin trứơc họng súng CX T54, tôi sẽ chờ chúng tới thật gần, vào tầm hủy diệt 99% của súng chống CX M72
Chúng tôi quyết ém quân chờ chiến xa địch, lọt ăn, không lọt đền, phải tương đối chắc ăn mới khai hỏa. 200 mét, rồi 180 mét, rồi 150 mét, tôi ra hiệu cho TĐCCX chuẩn bị, sẵn sàng rút chốt an toàn của M72. T54 cùng bộ binh tùng thiết rõ dần dần, mặc quần áo kaki Nam Định, đầu đội nón cối, tất cả đều ngụy trang bằng những cành dương. Pháo binh vẫn rót vào vị trí địch, 1 tràng, 2 tràng, 3 tràng… Bùm! Bùm! Bùm! Khói lửa mịt mùng, 1 T54 đã bị trúng đạn pháo binh, 2 chiếc bị trúng M72, bộ binh tùng thiết bắt đầu rụng, địch nao núng rồi chuyển hướng chạy về phía rừng dương ẩn núp. Nhưng khốn khổ cho chúng là nơi đó có Trung Đội 2 phòng thủ được tăng cường chiến xa M41. Tôi nhìn ra đàng sau thì thấy đại đội trưởng đang bàn luận với Thiếu Tá Lê Quang Liễn, Tiểu Đoàn Phó, ông là người chỉ huy trực tiếp cánh B. Mỗi lần đụng trận, ông luôn có mặt tại tuyến đầu với tụi tôi. Đó là cách đánh giặc của VB/TQLC.

Ta và địch gần như “sáp lá cà”, không dùng PB được nữa, TQLC và M41 trực diện với T54 và VC tùng thiết! Thiệt hại cả hai bên, chiến trường là thế, địch chết la liệt thì anh em TQLC chúng tôi cũng thiệt hại không ít. Nhưng biết làm sao hơn, chúng tôi đã tận dụng những gì học hỏi được ở quân trường và kinh nghiệm chiến trường, đã tận lực sức người và khả năng chỉ huy để giảm thiểu thiệt hại cho đồng đội và quan trọng hơn, chúng tôi vẫn đứng, thuộc cấp thấy chúng tôi vẫn đứng, đó là điều trường Mẹ không hổ thẹn có những đứa con như thế, như thế.

Đến chiều tối thì được lệnh rút, mang theo thương binh tử sĩ, bỏ mặc vũ khí chiến lợi phẩm, súng ta còn mang không hết thì mang theo “củi” của địch làm gì? Súng không đạn là củi. Mang theo “củi” để kể công để thượng cấp cho ADBT! Địch cũng án binh bất động.

Đêm 24/3/1975, khoảng 12 giờ khuya, trên đường lui binh, chúng tôi lại bắn cháy 1 chiến xa, không phải T54 mà là M41 của ta. Không phải bắn lầm đơn vị bạn vì tối trời mà cố tình bắn vì M.41 đã hết xăng, phải dùng M72 để bắn cháy M41 sau khi đã thảy vào pháo tháp 2 trái lựu đạn. Dứt khoát không để lọt vào tay địch.

Khoảng 2 giờ sáng, trên đường rút quân, Thiếu Tá Lê Quang Liễn gặp tôi, ông và tôi im lặng xiết tay nhau như chúc mừng nhau còn sống, rồi chụm đầu trên tấm bản đồ dưới ánh đèn pin trong M113 để xác định…, ông dặn tôi nhớ chuyển thương binh nặng ưu tiên đi trước, vì có tín hiệu báo cho biết địch đang áp sát theo sau.

Ngày 25/3/1975, khoảng 8 giờ sáng TĐ7/TQLC về tới cửa Thuận An, ở đây đã có rất đông dân chúng cùng các đơn vị bạn khác trong tình thế vô cùng hỗn độn mà chắc chắn có du kích và đề-lô PB địch trộn vào, sẽ vô cùng nguy hiểm khi có súng nổ hay làm mục tiêu cho pháo địch, vì thế Th/Tá Phạm Cang cho lệnh tiếp tục di chuyển dọc theo bờ biển xuôi về phía Nam để bắt tay với đơn vị đi trước là TĐ4/TQLC của Th/Tá Đinh Long Thành K19. Vì TĐ7 là tiểu đoàn đoạn chiến, đi sau cùng trong hệ thống chỉ huy của Lữ Đoàn 147/TQLC được lệnh lui về Đà Nẵng theo lộ trình dọc theo bờ biển Thuận An rồi vượt qua cửa Tư Hiền để vào Đà Nẵng, nếu không có tàu HQ vào bốc.
Đến trưa, gặp TĐ4/TQLC, tiểu đoàn cho lệnh dừng quân, lập tuyến phòng thủ ngay trên các đồi cát.

Nhìn lại phía sau, chúng tôi thấy cả một đám đông, rất đông bám sát theo sau chúng tôi. Thật là cảm động và xót thương cho đồng bào tôi, nhưng “tình dân quân cá nước” trong hoàn cảnh này thì thật nguy hiểm cho cả hai bên. Chúng tôi mở đường hướng dẫn cho họ tiến về phía trước, xuôi Nam, nhưng hình như đồng bào không muốn rời xa chúng tôi!

Giữa bãi cát bao la, trên trời ánh nắng chói chan rọi xuống, trước mặt là biển cả xanh ngắt, sau lưng là đầm Cầu Hai, đầm Hà Trung nước mênh mông, nhưng bi đông chúng tôi đã cạn khô, cổ chúng tôi đắng nghét vì khói thuốc và khói súng, khát, khát và khát! Một chiếc trực thăng từ hướng Đà Nẵng bay ra và thả tự do xuống một số thùng gạo sấy để tiếp tế cho chúng tôi, gạo sấy lấy nước nào đổ vào để thành cơm?

(Sau này trong bài viết Tháng Ba Buồn Hiu của Tiểu Cần, âm thoại viên của Tướng Tư Lệnh TQLC thì trực thăng đó là C&C của Tư Lệnh, người mang gạo ra tiếp tế chính là chánh văn phòng, NT Nguyễn Quang Đan K21 và Tiểu Cần, vì xin nhưng không còn trực thăng để tiếp tế lương thực và nước uống cho quân sĩ! Trực thăng bay đi đâu hết rồi!)
Đến chiều thì gặp Trung Úy Hoàng Công Một K25 thuộc Tiểu Đoàn 5 TQLC điều quân, 2 thằng chỉ thăm hỏi nhau được vài câu và sau đó thì ai làm phận sự người đó. Trung đội trưởng Cúc của ĐĐ H.C. Một đã hy sinh tại đây.

Đến tối thì VC đã tấn công TĐ4/TQLC, Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam K22, Tiểu Đoàn Phó và Đại Úy Tô Thanh Chiêu, Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 hy sinh..
Thiếu Tá Phạm Cang, TĐT/TĐ7 bị thương nhẹ do trúng miểng của cối 82 ly VC khi điều động M113 đánh chiếm mục tiêu.

Em ruột TT Liễn cũng bị tử thương vào buổi chiều.
Theo kế hoạch, 12 giờ khuya sẽ có tàu vào bốc, nhưng chờ mãi chẳng thấy.
Ngày 26/03/1975, nhìn ra khơi thấy nhiều tàu của Hải Quân, lớn có nhỏ có. Đến trưa thì có 1 chiếc tàu há mồm vào để bốc thương binh và BCH/LĐ. Một chiếc thứ 2 vào, nhưng lần này thì không được may mắn như chiếc trước, địch đã dùng hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 bắn vào ngay ống khói của tàu và tàu coi như bất khiển dụng. Một số chết và bị thương ngay trên tàu.

Kể từ giờ phút này, Thiếu Tá Phạm Cang, TĐT/TĐ7 nắm quyền Xử Lý Thường Vụ Lữ Đoàn Trưởng LĐ 147 TQLC. Theo kế hoạch của ông thì TĐ7 bung rộng ra, sẽ là nốt chặn cuối cùng, làm an toàn bãi bốc cho các TĐ bạn và TĐ7 sẽ là đơn vị cuối cùng lên tàu sau TĐ4, TĐ3, TĐ5 TQLC. Rất tiếc là chẳng có chiếc tàu nào vào bốc kể từ đó mặc dù đến chiều vẫn có lệnh là 8 giờ tối sẽ có tàu vào, rồi đến tối lại có lệnh là 12 giờ khuya sẽ có tàu vào…và chẳng bao giờ có tàu HQ vào đón chúng tôi. Đứng trên cát, tứ bề nước mênh mông, không nước, không đạn, nhưng chúng tôi còn có cấp chỉ huy và đồng đội.

Th/Tá Phạm Cang, TĐT/TĐ7 kiêm xử lý thường vụ chỉ huy LĐ147/TQLC khi đó đã bắt liên lạc được với ngừơi bạn cùng K20 chỉ huy đoàn tàu LCM sẵn sàng bốc TĐ7 vào Đà Nẵng, nhưng Th/Tá Cang đã từ chối, không thể chỉ đi có TĐ7, mà phải ở lại cùng toàn thể Lữ Đoàn, trong đó có TĐ4 của NT Đinh Long Thành K19, TĐ5 của NT Phạm Văn Tiền K20, TĐ3 của NT Nguyễn Văn Sử K20. Tôi xin trích đoạn bài viết của Th/Tá Phạm Cang:

_ “10 giờ sáng ngày 25/3/75, trên tần số không lục tôi nhận ra tiếng người bạn cùng khóa, Thiếu Tá Trần Văn Thao, anh chỉ huy đoàn tàu Quân Vận (LCM) từ Đà Nẵng ra Thuận An để đón BĐQ, nhưng không thể nào liên lạc được. Anh hỏi tôi có thấy anh em Mũ Nâu không. Nhìn quanh tôi chỉ thấy 5, 3 anh. Tôi cho Thao biết. Anh nói: “Tôi sẽ đưa các bạn vào Đà Nẵng, hãy chuẩn bị và đánh dấu bãi bốc.”. Rất tiếc tôi không thể chỉ đưa TĐ7 đi, vì còn trách nhiệm với các tiểu đoàn bạn. Tôi cám ơn Thao”.

Một tấm gương sáng khác của cấp chỉ huy mà tôi cần nhắc đến: Th/Tá Lê Quang Liễn, tải thương xác ngừơi em ruột lên tàu xong rồi vị Tiểu Đoàn Phó TĐ7 của chúng tôi nhẩy xuống biển, bơi trở lại vào bờ để cùng sống chết với chúng tôi.

Đêm 26 rạng ngày 27 tháng 3 năm 1975, một đêm trăng sáng vằng vặc, biển động, nhìn ra xa vẫn thấy đèn của Hải Quân lấp lánh ngoài khơi… và chúng tôi “chôn súng”!
Những người lính TQLC đã bắn cháy chiến xa T54 của địch, đã bị hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 của địch bắn cháy tàu của họ. Họ đã nhai những hạt gạo sấy sau cùng vào ngày hôm qua, đã bắn những viên đạn cuối cùng vào ngày hôm nay. Và khi không còn gì để chiến đấu, họ đã tự đào hố để chôn súng, bản đồ, địa bàn, thẻ bài, bằng lái xe, bằng dù, thẻ quân nhân…và đã cắn răng chôn ngay cả cái nhẫn Võ Bị, là vật bất ly thân của những sĩ quan xuất thân từ Trường Võ BịQuốcGiaViệtNam .

Những người lính Tổng Trừ Bị thuộc ĐĐ2/TĐ7/Lữ Đoàn 147 Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu và bị bắt làm tù binh chiến tranh (POW: Prisoner Of War) như vậy đó.
Bất cứ ai, đừng bao giờ bảo Lữ Đoàn 147/TQLC là những hàng binh, nguy hiểm vô cùng, hãy cẩn thận trong lời nói, thưa các ông, xin nhắc lại: NGUY HIỂM VÔ CÙNG!!!
Riêng cá nhân tôi, 1 người lính VNCH, 1 kẻ chiến bại, tôi chưa bao giờ oán trách cấp chỉ huy của tôi dù là cấp Tiểu Đoàn Trưởng hay vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Đội. Cái nhìn của tôi chỉ là ở cấp chiến thuật, làm sao biết được cấp chiến lược… Bao nhiêu đắng cay, tủi nhục… đổ lên đầu kẻ chiến bại. Nếu sau khi mất QĐI, rồi QĐII, Hoa Kỳ giữ đúng cam kết với đồng minh VNCH, lại nhảy vào cuộc chiến, như đã xảy ra tại Triều Tiên năm 1953, nếu kết thúc cuộc chiến mà VNCH là kẻ chiến thắng, chúng ta sẽ nói gì? Nói ngược lại chăng? Hỏi tức là trả lời. Chúng ta hãy suy nghĩ 1 cách công bằng.
*
Một người bạn đã hỏi tôi sẽ làm gì nếu lịch sử được lập lại hay nếu có kiếp sau?
Vâng, câu trả lời của tôi là tôi sẽ lại tình nguyện thi vào Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, rồi khi ra trường lại sẽ tình nguyện gia nhập lực lượng Tổng Trừ Bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa: binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. Và nếu được chọn lựa thì tôi xin được chiến đấu dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Tư Lệnh Phó TQLC Nguyễn Thành Trí, Trung Tá Lữ Đoàn Trưởng TQLC Nguyễn Xuân Phúc, Trung Tá Lữ Đoàn Phó Đỗ Hữu Tùng, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Phạm Cang, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó Lê Quang Liễn v.v… Đó là những cấp chỉ huy mà tôi rất ngưỡng mộ và kính phục, trên chiến trường cũng như trong “tù trường”…
Người trong cuộc

Mũ Xanh Lê Khắc Phước ĐĐ2/TĐ7/LĐ147/TQLC
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	164970738_998307047368091_1471905981684311582_n.jpg
Views:	0
Size:	124.2 KB
ID:	1763566
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (05-13-2021), huudangdo1 (03-28-2021)
Reply
Page 34 of 39 « First 2430313233 34 35363738 Last »

User Tag List


Phim Bộ Videos PC6

 
iPad Tablet Menu

HOME

Breaking News

Society News

VietOversea

World News

Business News

Other News

History

Car News

Computer News

Game News

USA News

Mobile News

Music News

Movies News

Sport News

DEM

GOP

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Thơ Ca

Help Me

Sport Live

Stranger Stories

Comedy Stories

Cooking Chat

Nice Pictures

Fashion

School

Travelling

Funny Videos

NEWS 24h

HOT 3 Days

NEWS 3 Days

HOT 7 Days

NEWS 7 Days

HOT 30 Days

NEWS 30 Days

Member News

Tin Sôi Nổi Nhất 24h Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 3 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 7 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 14 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 30 Ngày Qua
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.


All times are GMT. The time now is 14:43.
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2006 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.
Log Out Unregistered

Page generated in 0.19909 seconds with 14 queries
Loading...