Để được thi vào trường đại học Y ở Mỹ là việc cực kỳ khó khăn, thậm chí là khốc liệt đối với các sinh viên. Người ta ví đó là một cuộc đua marathon đường trường chứ không phải là cuộc thi nước rút. Bởi vậy hầu hết sinh viên Mỹ phải chuẩn bị nhiều năm mới đủ khả năng thi vào trường y.
Sinh viên y khoa dành rất nhiều thời gian học trong pḥng thí nghiệm - Ảnh: Shutterstock
Do đó, rất ít người có năng lực vào học trường y, đặc biệt là ở các nước phát triển.
Có ít nhất một bằng cử nhân trước khi học y
Để vào được trường y, sinh viên phải trải qua cuộc cạnh tranh hết sức khốc liệt. Các trường y ở Mỹ thường yêu cầu sinh viên phải hoàn thành chương tŕnh dự bị trước khi đăng kư vào đại học. Đây là bước chuẩn bị quan trọng trước khi sinh viên nộp hồ sơ.
Thông thường, sinh viên phải mất khoảng 3 năm cho chương tŕnh dự bị y khoa (pre-med). Đây là giai đoạn khởi đầu nhằm trang bị kiến thức ở các lĩnh vực khoa học cơ bản như sinh học, hóa học, hóa hữu cơ, thần kinh học, vật lư. Một số trường y c̣n yêu cầu phải hoàn thành các chương tŕnh về sinh hóa, giải tích, di truyền học, tâm lư học và ngôn ngữ, theo Hiệp hội các trường Y khoa Mỹ (AAMC).
Các trường không đ̣i hỏi sinh viên có trước bằng cử nhân nhưng hầu hết những người ứng tuyển vào trường y đều có ít nhất một bằng cử nhân, thường là ngành sinh học. Thậm chí, một số c̣n học xong cả thạc sĩ.
Khi đă trang bị đủ những yêu cầu trên, sinh viên mới bắt đầu có cơ hội ứng tuyển. Tiêu chí tuyển sinh của các trường y ở Mỹ rất khắt khe, gồm điểm trung b́nh, điểm MCAT (kỳ thi chuẩn hóa dành cho sinh viên muốn thi vào ngành y) phải cao, bài tiểu luận, thư giới thiệu thật ấn tượng từ trường họ đă học và cuộc phỏng vấn đầy cam go.
Trong đó, bài luận là một trong những tiêu chí đánh giá quan trọng nhất. Nó mô tả nguyện vọng của ứng viên v́ sao lại chọn ngành y là sự nghiệp cả đời ḿnh. Thông thường, các trường không g̣ bó về cấu trúc bài luận. Cách này cho sinh viên thỏa sức sáng tạo và linh hoạt trong cách viết. Sinh viên phải biết cách làm nổi bật điểm mạnh cá nhân, cũng như những trải nghiệm và thách thức đă làm cho người đó nổi bật so với ứng viên khác.
Sau đó, cuộc phỏng vấn sẽ cho nhà trường biết được thế mạnh cá nhân, điểm độc đáo của một sinh viên ứng tuyển.
Ngoài những tiêu chí trên, nhiều chương tŕnh đào tạo c̣n đỏi hỏi ứng viên phải từng tham gia các chiến dịch t́nh nguyện v́ cộng đồng, nghiên cứu khoa học hoặc các bằng cấp cao cấp khác, theo AAMC.
Xuất sắc cũng chưa chắc trúng tuyển
Bên cạnh những tiêu chuẩn gắt gao trên, AAMC từ năm 2005 đă yêu cầu rà soát nhân thân ứng viên để tránh những người từng có tiền án tiền sự nghiêm trọng trúng tuyển vào trường.
Hoàn thành chương tŕnh dự bị y khoa và trúng tuyển đại học dù khó khăn nhưng chỉ là bước khởi động. Sinh viên c̣n con đường dài đầy chông gai phía trước phải vượt qua trước khi trở thành bác sĩ. Vào thời điểm này, sinh viên vẫn chưa h́nh dung được công việc của một bác sĩ là thế nào.
Khi đậu trường y th́ tất cả mọi người trong lớp đều là những cá nhân xuất sắc. Điều này có thể khiến nhiều người quen với cảm giác ḿnh hơn người khác sẽ thấy thua sút khi so sánh bản thân với bạn học.
Đặc biệt, cảm giác khó chịu ấy có thể tập trung vào những người học tập chăm chỉ hơn phần c̣n lại của lớp. Qua thời gian, nhiều người dần quen với điều đó và hiểu rằng họ đang học tập với những người giỏi trong những người giỏi.
Tuy nhiên, cảm giác đó vẫn c̣n dễ chịu hơn rất nhiều so với những người không qua được ṿng ứng tuyển. Họ hoặc bỏ cuộc, hoặc cố gắng thử sức vào năm sau.
Mỗi năm, khoảng 40% số sinh viên viên ứng tuyển vào trường y của Mỹ được trúng tuyển. Số c̣n lại bị loại. Thoạt nh́n có vẻ tỷ lệ chọi là thấp. Nhưng thực tế, tỷ lệ chọi vào ngành y rất cao.
Các tiêu chí ứng tuyển khắt khe đă loại một lượng lớn sinh viên. Đó là những người có điểm MCAT thấp, thiếu kinh nghiệm lâm sàng, nghiên cứu khoa học và nhiều yếu tố khác, theo Tạp chí siêu âm y khoa Mỹ.