Hiện tại, trào lưu du học nước ngoài ở các nước phương Tây cũng như phương Đông nhiều hơn bao giờ hết. Đây là lư do có cho tiền cũng chẳng có du học sinh nào muốn về nước. Hăy cùng vietbf khám phá nhé!
Mấy tuần nay, trên báo chí trong nước cũng như trong các diễn đàn mạng, người ta bàn tán sôi nổi về hiện tượng hầu hết những học sinh xuất sắc nhất của Việt Nam, sau khi du học ở nước ngoài, đều không về nước. Theo thống kê, hiện nay có trên 100,000 du học sinh rải rác ở nhiều quốc gia trên khắp thế giới. Tôi không biết chính xác là bao nhiêu người trong họ quyết định ở lại nước ngoài. Chỉ nghe nói là rất nhiều. Ví dụ thường được nêu lên là trong số 13 học sinh thắng giải “Đường lên đỉnh Olympia” và được đi du học, chỉ có một em, một em duy nhất, chịu về nước. Theo kinh nghiệm của tôi, từ các môn tôi dạy vốn có khá đông sinh viên du học ghi danh, số người nghĩ đến việc về nước sau khi tốt nghiệp chỉ là một phần nhỏ, may lắm là một phần ba. C̣n lại, tất cả đều hoặc phân vân hoặc quyết định là sẽ t́m cách ở lại Úc.
Vấn đề là: tại sao nhiều sinh viên không muốn về Việt Nam sau khi tốt nghiệp?
Lư do đầu tiên các sinh viên của tôi nêu lên là họ không tự tin là sẽ t́m ra được việc làm, nhất là những công việc thích hợp với chuyên môn của họ. Thú thật, thoạt nghe lư do này, tôi hết sức băn khoăn. Tôi nghĩ Việt Nam đang phát triển và đang cần nhân tài, những người được đào tạo từ nước ngoài, do đó, trên lư thuyết, sẽ dễ dàng được trọng dụng. Nhưng không phải. Tôi có một số sinh viên và người quen, sau khi học xong Cử nhân hoặc có khi Thạc sĩ ở Úc, trong đó có nhiều người học về Y hoặc Luật, sau khi về Việt Nam, chạy đôn chạy đáo để t́m việc cả năm trời vẫn không được; sau, phải t́m cách quay lại và xin định cư tại Úc. Nguyên nhân, người ta kể, là không có “quan hệ”. Ở Việt Nam, không có “quan hệ” hoặc “tiền tệ” để đút lót, việc kiếm được việc làm tốt coi như vô vọng. Ngược lại, tôi cũng biết khá nhiều người, thuộc “con cháu các cụ” (CCCC), học hành không giỏi giang ǵ cả, sau khi về nước một thời gian ngắn, được bổ dụng làm giám đốc công ty này công ty nọ. Bởi vậy, ở Việt Nam mới có câu tục ngữ:
Thứ nhất hậu duệ
Thứ nh́ quan hệ
Thứ ba tiền tệ
Thứ tư trí tuệ
Trong câu ấy, “trí tuệ”, tức khả năng chuyên môn, nằm ở cuối cùng. Thậm chí, ở một biến thể của câu tục ngữ trên, nó c̣n không có mặt:
Thứ nhất tiền tệ
Thứ nh́ hậu duệ
Thứ ba ngoại lệ
Thứ tư đồ đệ
Lư do thứ hai là lương bổng ở Việt Nam quá thấp. Nhiều người có bằng cử nhân, khi về nước làm việc, lương mỗi tháng chỉ khoảng vài triệu đồng Việt Nam, tương đương với vài trăm dollar; trong khi đó, nếu họ t́m được việc làm ở Úc, lương khởi đầu trung b́nh là 4,5 chục ngàn dollar. Đành là ở Úc, cũng như các quốc gia Tây phương khác, thuế cao và vật giá đắt đỏ hơn ở Việt Nam, nhưng ngay cả sau khi trừ thuế và các khoản chi tiêu, số tiền c̣n lại cũng nhiều hơn hẳn lương hướng ở Việt Nam. Ở đây, chúng ta cần ghi nhận một điều: ở Việt Nam, phần lương thường khá khiêm tốn nhưng phần bổng lại nhiều, có khi gấp chục, thậm chí, gấp trăm lần lương thật, tuy nhiên, muốn có bổng lộc cao, người ta phải có chức tước lớn. Mà muốn có chức tước lớn, điều kiện đầu tiên lại là “hậu duệ” hay “quan hệ”. Với những người thân cô thế cô, thu nhập duy nhất chỉ có thể đến từ lương. Mà lương lại èo uột. Trong số bạn bè của tôi ở Việt Nam, khá nhiều người dạy đại học. Lương trung b́nh của một giảng viên đại học là khoảng 6 triệu đồng (khoảng 300-400 Mỹ kim). Muốn tăng thu nhập, cách duy nhất họ có thể làm được là dạy thật nhiều giờ ở nhiều trường khác nhau. Có người dạy cả 3,4 chục giờ một tuần. Thú thật, nghe số giờ dạy như vậy, tôi không thể tưởng tượng được. Tại Úc, ở bậc đại học, số giờ dạy trung b́nh mỗi tuần của các giảng viên chỉ khoảng trên dưới 10 tiếng. Th́ giờ c̣n lại là để nghiên cứu. Với số giờ dạy như ở Việt Nam, công việc nghiên cứu hoàn toàn bất khả thi. Kiến thức của các thầy cô giáo, do đó, cứ ngày một lạc hậu và ṃn mỏi dần.
Lư do thứ ba là cơ chế và văn hoá làm việc ở Việt Nam hoàn toàn không phù hợp với những người được đào tạo ở nước ngoài. Ở nước ngoài, đi làm, mọi người được khuyến khích phát huy sáng kiến cũng như tinh thần độc lập và việc thăng tiến trong nghề nghiệp được căn cứ chủ yếu trên khả năng của mỗi người. Ở Việt Nam th́ sự thành công tuỳ thuộc vào quan hệ hơn là chuyên môn. Trong cái gọi là “quan hệ” ấy, ngoài chuyện con ông cháu cha, c̣n một yếu tố quan trọng khác: làm sao vừa ḷng cấp trên. Để làm vừa ḷng cấp trên, người ta thường có hai cách: đút lót hoặc nịnh bợ. Cách nào cũng là một sự sỉ nhục đối với ḷng tự trọng.
Không phải chỉ với những sinh viên mới tốt nghiệp, ngay cả những chuyên gia có bằng cấp cao và chức vụ lớn ở hải ngoại, v́ nhiệt t́nh, muốn về Việt Nam để đóng góp vào việc xây dựng đất nước cũng gặp khó khăn với cơ chế và văn hoá làm việc ở Việt Nam. Một trong những lời than thở tôi nghe nhiều nhất là: Các cán bộ lănh đạo ở Việt Nam rất ít khi lắng nghe ư kiến của họ. Hầu như người ta không thể chịu nổi sự phê phán. Nghe phê phán, dù xuất phát từ nhiệt t́nh và thiện chí, người ta sa sầm nét mặt ngay tức khắc. Thành ra, những người muốn đóng góp cho đất nước rất dễ vỡ mộng. Phần lớn chỉ làm được một thời gian rồi cũng quay ra hải ngoại trở lại. Điều đó giải thích tại sao mặc dù giới lănh đạo Việt Nam thường kêu gọi các chuyên gia ở hải ngoại về nước nhưng cho đến nay, số người trở về rất ít ỏi. Số người chịu làm việc lâu dài lại càng ít ỏi. Chuyên gia c̣n thế, huống ǵ là sinh viên mới ra trường.
Việc du học sinh, học xong, không về nước không phải là vấn đề liên quan đến cá nhân của họ. Mà nó liên quan đến cả tiền đồ của đất nước. Ai cũng biết, trong thời đại ngày nay, để phát triển, đất nước cần nhiều thứ, trong đó, có một thứ quan trọng nhất là vốn trí thức. Đă đành không phải ai tốt nghiệp ở nước ngoài cũng đều là những người giỏi nhưng ngay cả những người không giỏi cũng là những người được đào tạo bài bản, với những kiến thức được cập nhật và có căn bản ngoại ngữ tốt. Mất họ là một thiệt tḥi lớn của đất nước.
vbf @ sưu tầm