VBF-TQ hiện giờ vẫn chỉ có cái danh là nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới. Nhưng ḱ thực đông tiền của họ vẫn chưa thể nào lọt vào nhóm đầu cho dù là họ liên tục có nhiều nỗ lực để tăng sức mạnh của đồng nhân dân tệ.Cách đây vài tháng, theo thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Trung Quốc đă chính thức vượt qua Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Thế nhưng, trớ trêu thay, nhân dân tệ (NDT) vẫn chưa nằm trong rổ tiền tệ quốc tế. Như vậy, NDT vẫn nằm ở “chiếu dưới”. Đây quả thực là một “trái đắng” cho Bắc Kinh, bởi từ khi kinh tế trỗi dậy, Trung Quốc đă bắt đầu nỗ lực cho hành tŕnh đưa NDT lên nhóm “chiếu trên”.
Cuộc “vạn lư trường chinh” thông qua Hồng Kông
Theo tài liệu của Cơ quan quản lư tiền tệ Hồng Kông, từ năm 2003, Bắc Kinh đă bắt đầu kế hoạch quốc tế hóa NDT. Theo một nguyên tắc cơ bản, nước nào muốn quốc tế hóa nội tệ th́ tất nhiên phải làm sao thúc đẩy tiền tệ nước ḿnh được giao thương rộng răi trên thế giới, càng phổ biến th́ vị thế càng lớn. Và Trung Quốc đă thực sự tiến hành cuộc “vạn lư trường chinh” với nhiều biện pháp khác nhau.
Đầu tiên là phát hành trái phiếu bằng NDT ra quốc tế. Tất nhiên, Bắc Kinh không bỏ qua “cửa ngơ” Hồng Kông vốn dĩ là một nền kinh tế tự do, có thị trường tài chính đóng vai tṛ quan trọng của châu Á. Chính v́ thế, năm 2007, Hồng Kông trở thành nơi Bắc Kinh phát hành trái phiếu quốc tế NDT đầu tiên. Lần phát hành này lên đến gần 660 triệu USD, được thực hiện bởi Ngân hàng Phát triển Trung Quốc (CDB). Chưa dừng lại ở đó, Bắc Kinh dần mở rộng khi cho phép các định chế tài chính Hồng Kông thực hiện phát hành trái phiếu quốc tế NDT. Việc thanh toán bằng NDT cũng tăng nhanh tại Hồng Kông, với mức tăng trưởng trung b́nh lên đến 60% mỗi năm. Nếu thanh toán bằng NDT tại Hồng Kông đạt chưa đến 1.000 tỉ NDT năm 2010 th́ đến năm 2014 là 6.300 tỉ NDT. Kèm theo đó, Trung Quốc mở rộng cho phép nhiều địa phương dùng NDT để giao dịch khi xuất nhập khẩu. Ví dụ từ năm 2008, tỉnh Vân Nam được thanh toán bằng NDT với các nước Đông Nam Á.
Không chỉ thông qua cấp địa phương, Trung Quốc c̣n bắt đầu tiến hành kư kết nhiều thỏa thuận thanh toán tiền tệ trực tiếp với nhiều nước. Từ năm 2009 đến nay, Trung Quốc đă đạt thỏa thuận như thế với nhiều nước như: Nga, Hàn Quốc, Nhật, New Zealand, Malaysia, Indonesia, Belarus, Argentina, Iceland, Singapore...
Bên cạnh đó, năm 2011, Hồng Kông lại tiếp tục khẳng định vai tṛ cửa ngơ khi trở thành nơi Trung Quốc thí điểm cho phép các quỹ đầu tư bằng NDT được h́nh thành để đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc đại lục. Đến nay, các doanh nghiệp nước ngoài cũng dần được phát hành trái phiếu bằng NDT.
Về mặt vận động hành lang, năm 2009, Bắc Kinh đă thành công trong việc đưa ông Chu Dân, từng giữ chức Phó thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc, vào vị trí Phó tổng giám đốc IMF. Bên cạnh đó, Trung Quốc cùng các thành viên c̣n lại trong nhóm BRICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi) h́nh thành nên Ngân hàng Phát triển Mới để cạnh tranh với IMF.
Nửa nạc nửa mỡ
Thế nhưng, dù một mặt đẩy mạnh giao thương NDT trên thị trường quốc tế, nhưng Trung Quốc vẫn muốn giữ NDT ở mức giá thấp để đảm bảo phát triển kinh tế, vốn lệ thuộc mạnh mẽ vào xuất khẩu. Từ trước năm 2010, vấn đề tỷ giá NDT trở thành một trong những “đá tảng” trong quan hệ Mỹ - Trung, bởi Washington luôn yêu cầu Bắc Kinh phải thả nổi NDT theo thị trường. Mỹ cho rằng đó là giải pháp để đồng NDT được định giá đúng, tức sẽ cao hơn tỷ giá mà Trung Quốc đang giữ cố định. Có như thế, cán cân thương mại hai bên mới được giải quyết, khi Washington liên tục nằm trong thế nhập siêu với Trung Quốc.
Không riêng ǵ Mỹ, mà ngay cả một số nước châu Âu cũng nhiều lần lên tiếng t́nh trạng NDT bị định giá thấp. Việc định giá thấp NDT bị cho là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Cũng chính v́ thế, NDT chưa đủ tiêu chuẩn nằm trong rổ tiền tệ quốc tế. Đáp lại, trong suốt nhiều năm qua, mỗi khi tranh căi lên đến căng thẳng th́ Bắc Kinh mới nhấn nhá, xuống nước để mở rộng biên độ giao dịch và để NDT tăng giá chút ít nhằm xoa dịu các bên. Điển h́nh như giữa năm 2010, sau gần 2 năm bị Mỹ chỉ trích quyết liệt, th́ Trung Quốc mới hứa cải cách tỷ giá NDT, và tăng chút ít. Tuy nhiên, đến đầu tháng 8 này, việc Bắc Kinh phá giá NDT khiến tỷ giá tiền tệ này gần như chẳng thay đổi ǵ đáng kể trong suốt nhiều năm qua.
Rổ tiền tệ thế giới (SDR)
Được h́nh thành từ năm 1969 nhằm hỗ trợ Hệ thống Bretton Wood (tỷ giá hối đoái cố định giữa đồng tiền của một số nước với USD được neo theo vàng), rổ tiền tệ quốc tế (được dịch đầy đủ là Quyền rút vốn đặc biệt - SDR) sẽ quy định các loại tiền tạm hiểu là được dùng trong dự trữ ngoại tệ. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) quyết định loại tiền tệ nào được nằm trong SDR dựa trên nhiều tiêu chí như quy mô nền kinh tế quốc gia, dự trữ quốc gia...
Cứ mỗi 5 năm, IMF lại công bố danh sách các tiền tệ trong SDR và tỷ lệ của từng loại tiền tệ trong SDR. Trước năm 1999, khi chưa có tiền euro, th́ USD, mark (Đức), franc (Pháp), yen (Nhật) và bảng (Anh) nằm trong SDR. Từ sau năm 1999, khi euro ra đời, mark và franc được thay thế bằng euro.
Những năm gần đây, giữa sự trỗi dậy của nhiều nền kinh tế, không ít ư kiến kêu gọi IMF cần đa dạng hóa SDR và giảm bớt tỷ lệ của USD khi USD hầu như luôn chiếm từ 40% trở lên và bỏ xa các loại tiền tệ khác trong SDR.
Giữa bối cảnh đó, thông qua nỗ lực đẩy mạnh vị thế quốc tế của NDT, Trung Quốc nhiều lần thể hiện rơ ư định muốn trở thành một phần trong SDR. Thế nhưng, ngày 19.8, tờ The Wall Street Journal đưa tin IMF thể hiện thông điệp chưa “kết nạp” NDT vào SDR, khi ban điều hành IMF thông qua quyết định mở rộng thời gian hiệu lực của 4 loại tiền tệ hiện tại (USD, euro, yen, bảng) đến tháng 9.2016. Điều đó đồng nghĩa với việc trong 1 năm tới, NDT vẫn nằm ngoài rổ tiền tệ thế giới, dù kinh tế Trung Quốc đóng vai tṛ cực kỳ quan trọng đối với thế giới. Nguyên nhân có lẽ chẳng ngoài chính sách “nửa nạc nửa mỡ” của Bắc Kinh khi muốn NDT trở thành tiền tệ quốc tế nhưng không biến động dựa trên thị trường.
vk