Xương máu của nhiều thế hệ thanh niên miền Bắc đổ xuống chỉ để hôm nay mọc lên những biệt thự nguy nga, sang trọng của các chủ tịch, bí thư, ủy viên trung ương, ủy viên bộ chính trị, những kẻ sống xa hoa trên một đất nước độc tài, tham nhũng, lạc hậu và bị phân hóa đến tận cùng. Đảng CSVN nợ những người đă chết và c̣n sống trong tật nguyền đau đớn quá nhiều thứ nhưng món nợ lớn nhất mà Đảng không thể nào trả nỗi, đó là, món nợ tuổi hai mươi.
Trần Trung Đạo
(Đọc Măi măi tuổi hai mươi, nhật kư của Nguyễn Văn Thạc, người lính miền Bắc chết ở chiến trường Quảng Trị 1972)
Cali Today News - Tôi đọc nhật kư Măi măi tuổi hai mươi của anh Nguyễn Văn Thạc, người lính miền Bắc chết ở Quảng Trị lần đầu trên chuyến bay từ California về lại Boston một thời gian ngắn sau khi phát hành 2005. Nhật kư dày 296 trang, tính cả phần giới thiệu, bắt đầu từ ngày 2 tháng 10 năm 1971, 28 ngày sau khi anh nhập ngũ, đến trang cuối cùng ở Ngă Ba Đồng Lộc ngày 3 tháng 6 năm 1972. Tôi đă có lần đề cập đến Măi măi tuổi hai mươi trong một bài viết khác, nhân dịp 30-4 muốn viết một bài riêng.
Anh Nguyễn Văn Thạc sinh ngày 14 tháng 10 năm 1952 tại làng Bưởi, Hà Nội. Cha mẹ anh có đến 14 người con, vốn là chủ nhân một xưởng dệt nhỏ, có thuê người làm nhưng khi chiến tranh bùng nổ phải bán hết và dọn về xă Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm. Gia đ́nh đông đúc, đời sống khó khăn, mẹ anh phải đi cắt cỏ bán lấy tiền. Dù nghèo khó, anh Thạc học rất giỏi tất cả các môn, nhất là môn văn. Ngày 6 tháng 9 năm 1971, anh gia nhập bộ đội. Tháng 4 năm 1972 anh được đưa vào Nam. Anh viết cuốn nhật kư từ ngày 2 tháng 10 năm 1971 đến ngày 3 tháng 6 năm 1972. Trước khi tham gia chiến trường Quảng Trị, anh đă gửi cuốn nhật kư cùng nhiều lá thư về cho anh trai từ ngă ba Đồng Lộc. Hai tháng sau, ngày 30 tháng 7 năm 1972 anh chết tại mặt trận Quảng Trị sau khi chưa tṛn một năm trong đời quân ngũ.
Các hệ thống truyền thông của Đảng tuyên truyền rằng trong “một trận đánh ác liệt bên Thành cổ Quảng Trị, chiến sĩ thông tin Nguyễn Văn Thạc đă bị trọng thương mảnh pháo đă cắt ngang đùi trái trận chiến đẫm máu và hy sinh tại Cổ Thành Quảng Trị”. Thật ra, theo lời anh Nguyễn Văn Hà người thương binh cùng trung đội truyền tin và cũng là người đă mai táng anh Nguyễn Văn Thạc kể lại với phóng viên báo Tiền Phong, anh Thạc không tham gia trận chiến đẫm máu tại Cổ Thành và cũng chưa bắn một viên đạn nào. Khẩu AK, bốn băng đạn vẫn c̣n nguyên vẹn. Sau khi vượt sông Ba Ḷng, anh Thạc là người đầu tiên trong đơn vị bị pháo binh VNCH bắn trúng. Cũng theo lời anh Nguyễn Văn Hà, anh Thạc c̣n rất tỉnh táo tuy bị thương ở đùi. Máu ra nhiều nhưng không có y tá để giúp đở, không một viên thuốc cầm máu hay giảm đau, và như thế anh Thạc ra máu cho đến chết.
Anh đặt tên nhật kư là Chuyện đời nhưng được thay bằng Măi măi tuổi hai mươi khi phát hành vào năm 2005. Giống như Nhật kư Đặng Thùy Trâm, nhật kư Măi măi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc qua bộ máy tuyên truyền của đảng đă trở một tác phẩm có số lượng phát hành kỷ lục và gây tiếng vang lớn tại Việt Nam.
Anh Thạc thú nhận “ước mơ thầm kín” của anh là trở thành nhà văn. Cũng v́ tập làm nhà văn nên văn trong nhật kư của anh không có được nét tự nhiên. Anh tả cảnh hơi nhiều. Ví dụ, ngày 20 tháng 11 năm 1971 anh tả trong nhật kư: “Cơn gió thổi từ phía đồi mặt trời qua hồ cá. Sương mù thốc nhẹ lên rặng phi lao ven đường…
Con trâu đi ngang, con cá trắng bơi dọc, và những ṿng sóng h́nh tṛn toả rộng chung quanh… Sự sống hiện ra ở khắp mọi chiều. Và chỗ nào mà chẳng có mầm xanh, chỗ nào mà chẳng có giọt nắng h́nh quả trứng lăn nghiêng”; hay ngày 4 tháng 2 năm 1972, thay v́ ghi lại những ǵ xảy ra trong ngày, anh tả một cơn gió mùa: “Cả rừng bạch đàn vặn ḿnh. Những cây bạch đàn thân nâu lốm đốm trắng nghiêng ngả. Những chiếc lá thon dài nằm ngang trong gió. Thấp thoáng trong rừng những mái nhà gianh và những lều bạt. Gió mạnh phần phật những tấm tăng đă cũ. Gió reo vù vù…”
Ngoại trừ t́nh yêu say đắm dành cho chị Như Anh mà tôi sẽ không nhắc trong bài viết này v́ tôn trọng t́nh cảm riêng tư, anh Thạc là sản phẩm kiểu mẫu của nền giáo dục xă hội chủ nghĩa Việt Nam. Anh không được đi ra nước ngoài dù đi Liên Xô, đi Tiệp. Anh chỉ nghe đài phát thanh Hà Nội, học tập lư luận chính trị từ các bài diễn văn của Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, đọc truyện dịch của các tác giả Liên Xô, đọc thơ Tố Hữu, Phạm Tiến Duật, các nhà thơ Liên Xô, ngoài ra không có một nguồn tư liệu nào khác. Anh tả nhiều hơn viết, một phần cũng v́ ở tuổi c̣n nhỏ sự gần gũi và va chạm với xă hội c̣n khá ít.
Thần tượng tuổi trẻ của anh Thạc là Paven, tức Pavel Korchagin trong Thép đă tôi thế đấy của Nikolai Ostrovsky. Lại cũng Paven!
Ngày 24 tháng 12 năm 1971 anh viết về thần tượng Paven của anh: “Dạo ấy Paven mới 24 tuổi. Ba năm của thời 20, anh đă sống say sưa, sống gấp gáp và mạnh mẽ. Cưỡi trên lưng con ngựa cụt hai tai trong lữ đoàn Buđionni anh đă đi khắp miền đất nước. Cuộc sống của anh là một ḍng mùa xuân bất tận giữa cuộc đời. Đó là cuộc sống của người Đảng viên trẻ tuổi, cuộc sống của một chiến sỹ Hồng quân. Ḿnh thèm khát được sống như thế. Sống trọn vẹn đời ḿnh cho Đảng, cho giai cấp. Sống vững vàng trước những cơn băo táp của cách mạng và của cuộc đời riêng.”
Thép đă tôi thế đấy là một trong những tác phẩm anh Thạc mang theo trên đường vào Nam và được anh trích dẫn khá nhiều. Anh xem đó như là nhựa sống: “Mêrétxép và Paven… Những người đầy nghị lực và có thể nói được họ đă đi tới mục đích của đời ḿnh!” Anh hổ thẹn v́ chưa được thành đảng viên CS giống như Paven: “Hôm nay, lần đầu tiên trong đời ḿnh cảm thấy hổ thẹn với mọi người, hổ thẹn với Paven, Pavơlusa thân yêu. Ḿnh chưa phải là một đảng viên!”.
Ước mơ của chàng thanh niên Việt Nam 20 tuổi Nguyễn Văn Thạc là được sống như Paven Korchagin. Chẳng lẽ anh không biết một số rất đông anh hùng dân tộc Việt Nam, đă sống, chiến đấu và hy sinh cho độc lập tự do của đất nước trong khi c̣n rất trẻ. Trần Quốc Toản (1267–1285) “phá cường địch báo hoàng ân” năm 18 tuổi. Trần B́nh Trọng (1259–1285) “thà làm quỷ nước Nam hơn làm vua đất Bắc” khi 26 tuổi. Nguyễn Thái Học (1902–1930) “chết v́ tổ quốc chết vinh quang” lúc 28 tuổi. Cuộc đời họ là những bản hùng ca tuyệt vời gấp ngàn lần hơn anh chàng Nikolai Ostrovsky bị tẩy năo kia.
Đọc phóng sự Vua An Nam (Le Roi d’Annam, Nguyễn Duy Chính dịch) của kư giả Jean Locquart đăng trên Le Monde ngày 23 tháng 2 năm 1889 để biết tuổi trẻ Việt Nam đă sống và chết trung liệt như thế nào. Kư giả Jean Locquart tường thuật khá chi tiết cảnh biệt đội Pháp do Đại úy Boulangier chỉ huy bắt sống vua Hàm Nghi chiều ngày 1 tháng 11 năm 1888:
“Một buổi chiều biệt đội của đại uư được tin là sau khi bị đội lính dơng thiện chiến truy kích liên tục, cựu hoàng lẩn trốn cùng với người tuỳ viên là Tôn Thất Thiệp con trai cựu phụ chính Thuyết tại một làng hẻo lánh và kín đáo trong rừng núi cao nguyên Giai. Biệt đội của Boulangier liền bao vây nơi nhà vua ở và khi cửa chính bị đạp tung ra th́ thấy Thiệp đă thức giấc v́ tiếng động của vụ tấn công c̣n vua Hàm Nghi đang ngủ say ở bên cạnh. Cả hai người đều để gươm trần ở bên cạnh và trong tay có khí giới nhưng không chống trả được ǵ.Thấy chủ soái thất thế, và để tránh cảnh tủi nhục khi bị bắt đem đi, Thiệp toan đâm chết ông [vua Hàm Nghi], nhưng v́ quân Pháp dự tính bắt sống nên lập tức nổ súng hạ gục Thiệp. Sau đó họ chặt đầu Thiệp và đem bêu trên cọc tre ở ngoài chợ Dang-Kha là một nơi sầm uất và c̣n đang xao động.”
Hai người gánh cả một non sông trong giai đoạn lịch sử vô cùng bi tráng đó đều chỉ mới 18 tuổi, c̣n nhỏ tuổi hơn anh Thạc. Tôi tự hỏi, khi dừng chân nghỉ ngơi trong hành tŕnh đầy gian khổ ở Quảng Trị vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thiệp nói chuyện ǵ với nhau. Một ông vua trẻ trước đây chưa từng ra khỏi Huế và một chàng vệ sĩ c̣n trong tuổi vị thành niên hẳn không có nhiều điều trao đổi. Nhưng có một điều chắc chắn họ đă từng chia sẻ, đó là mơ ước một ngày dân tộc Việt Nam sẽ không c̣n làm nô lệ cho Tây. Giọt máu của Tôn Thất Thiệp nhỏ xuống trên chiếc cọc tre cắm ngoài chợ Dang-Kha và giọt nước mắt của vua Hàm Nghi nhỏ xuống bên thành tàu Biên Ḥa trên đường đi đày cùng có một mùi đắng cay, tủi nhục giống nhau.
Là sinh viên Đại học Tổng hợp Hà Nội và từng là học sinh giỏi văn nhất miền Bắc hẳn anh biết Trần B́nh Trọng, Trần Quốc Toản, Hàm Nghi, Tôn Thất Thiệp là ai, rất tiếc anh không được uốn nắn để sống theo những tấm gương trung liệt đó.
Trong mùa hè đỏ lửa năm 1972, hàng trăm ngàn đồng bào Quảng Trị phải bồng bế, gồng gánh nhau chạy vào Huế và Đà Nẵng, những quận Đông Hà, Gio Linh và các khu vực chung quanh Cổ thành Quảng Trị đă trở thành những băi chiến kinh hồn nhưng trong nhật kư ngày 4 tháng 4 năm 1972, anh hănh diện chép lại bản tin của đài phát thanh Hà Nội: “Đài phát thanh truyền đi tin chiến thắng rực rỡ của tiền tuyến ở mặt trận Trị-Thiên-Huế ở đường 9, Cam Lộ, Gio Linh, đă diệt 5.500 tên địch; 10 vạn đồng bào nổi dậy – Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam đă phải mở thêm các buổi phát thanh để truyền tin chiến thắng của miền Nam anh hùng.”
Anh Thạc tin một cách chân thành rằng những tin tức đó là thật. Nếu có một nhà sưu tầm nào thu thập các bản tin chiến sự của đài phát thanh Hà Nội trong suốt cuộc chiến và cộng lại, tổng số tổn thất của quân đội VNCH ít nhất cũng bằng nửa dân số miền Nam.
Trong nền giáo dục CS, anh Thạc không phải mất công t́m kiếm câu trả lời cho những thắc mắc của ḿnh v́ Đảng đă có sẳn các câu trả lời cần thiết cho suốt cuộc đời anh. Trong nhật kư ngày 12 tháng 1 năm 1972, khi ưu tư về tương lai, anh Thạc trích ngay câu nói của Lê Duẩn: ”Thanh niên hăy lấy sự hy sinh phấn đấu cho cách mạng làm hạnh phúc cao cả nhất của đời ḿnh, đừng để cho t́nh cảm cách mạng nguội lạnh v́ những tính toán được mất cho cá nhân.” Không có t́nh cảm riêng tư nào cả, cách mạng là hạnh phúc cao cả nhất. Anh viết câu nói của Lê Duẩn vào nhật kư một cách trang trọng tưởng chừng y đang ngồi trước mặt và sau đó yên tâm đi tiếp, không thắc mắc ǵ thêm.
Dù trong bất cứ một hoàn cảnh nào, cuộc tranh đấu giữa thiện và ác diễn ra không ngừng trong mỗi con người cũng như trên phạm vi xă hội. Cũng có lúc các đặc tính nhân bản, tự do bẩm sinh trong con người anh đứng lên chống lại các yếu tố ác độc, nô dịch của ư thức hệ CS đang dồn dập tấn công. Trong nhật kư ngày 27 tháng 4, anh viết những câu đau xót cho cuộc đời ḿnh: “Phải hết sức trấn tĩnh, tôi mới không xé hoặc không đốt đi cuốn Nhật kư này. Trời ơi! Chưa bao giờ tôi chán nản và thất vọng như buổi sáng nay, như ngày hôm nay cả. Tôi không giải thích ra sao nữa. Người ta giải thích được cần phải trấn tĩnh mới hiểu lư do và lung tung. C̣n tôi rời ră tôi chán nản với hết thảy mọi điều, mọi thứ trên trái đất này. Phải, tôi hiểu rằng, với một người con trai đang khoẻ mạnh, đang sung sức, đang ở giữa mùa xuân của đời ḿnh th́ buồn nản, th́ chán đời là một điều xấu xa và không thể nào tưởng tượng được – Người ta đă chửi rủa biết bao lần những thanh niên như thế – Nhưng tôi biết làm sao khi chính bản thân tôi đang buồn nản đến tận cùng này. Tôi lê gót suốt con đường ṃn – Con đường ṃn như chính cuộc đời tôi đang ṃn mỏi đi đây – Tôi ngồi bệt xuống bờ sông, con sông cạn đang rút nước. Tôi vốc bùn và cát ở dưới ḷng sông, và qua kẽ ngón tay tôi nó rớt xuống, rớt xuống. Tôi muốn khóc, khóc với ḍng sông.”
“Tôi muốn khóc, khóc với ḍng sông”, khóc cho anh, cho thế hệ anh đang lê gót trên con đường ṃn. Nhưng thiện tính bẩm sinh trong con người anh Thạc mong manh như một nhánh tre non giữa cuồng phong thù hận. Anh bị tiêm thuốc độc vào người từ thuở mới sinh ra, biết đọc, biết viết cho đến tuổi hai mươi. Những vi trùng Pêlêvôi (Người mẹ cầm súng), Marétxép (Anh hùng phi công Marétxép) đă mê hoặc anh bằng một loại chủ nghĩa anh hùng không tưởng. Thiện tính trong anh không chống đở nổi, đă gục xuống, đầu hàng để rồi vài hôm sau trong nhật kư ngày 7 tháng 5 năm 1972 anh lại mơ được “Đảng tin và trao cho những nhiệm vụ nặng nề.” Anh Thạc không thể thoát ra khỏi được quỹ đạo của bộ máy tuyên truyền CS tinh vi. Mà cũng ít người thoát ra được.
Trong số 8 người bạn học đi thi giỏi văn toàn miền Bắc, phần lớn được đi học nước ngoài, riêng anh và một người bạn khác phải đi bộ đội. Trong nhật kư ngày 24 tháng 5 năm 1972, anh tự hỏi chính ḿnh: “Thạc c̣n buồn không? Có c̣n buồn bă v́ những năm tháng phải xa trường đại học, v́ không được ra nước ngoài học tập – V́ các bạn Thạc, người đi đây, người đi đó, sống êm ả, sung tức với tập giáo tŕnh. Ngày mai, các bạn về, các bạn có kiến thức, các bạn là kỹ sư, là các nhà bác học, c̣n Thạc sẽ chỉ là một con người b́nh thường nhất, nếu chiến tranh không cướp đi của Thạc một bàn chân, một bàn tay…” Anh không thể tự trả lời. Tuy nhiên, đoạn nhật kư trong cùng ngày đă giải thích lư do một học sinh hạng A1, giỏi toàn diện và từng đoạt giải giỏi văn nhất miền Bắc như anh lại không được đi học nước ngoài: “Lại nói tiếp về những trang lư lịch – Người ta bắt khai tỉ mỉ hết sức – Nào là ông, bà, cô d́, chú bác. Làm sao mà nhớ được cơ chứ – Ngay cả cái tên ḿnh cũng khó mà nhớ được Nữa là phải nhớ cả ngày tháng năm sinh. Nhớ cả sinh hoạt vật chất và chính trị của các cụ ấy từ ngày ḿnh có lẽ chưa có một chút ǵ trên trái đất này, ngay cả đó là những tế bào đầu tiên đơn sơ nhất!”
Anh Thạc nhiều tài năng đă chết một cách oan uổng chỉ v́ như anh viết “vết đen của quá khứ gia đ́nh đè trĩu hai vai”. Cha mẹ anh chẳng phải phạm tội cướp của giết người ǵ cả nhưng từng có xưởng dệt, mướn thợ làm công và như thế trên quan điểm Marx-Lenin, anh thuộc thành phần tư sản bóc lột, tội ác.
Anh Thạc chưa được kết nạp vào đảng và cũng chưa được làm đối tượng đảng. Anh viết trong nhật kư ngày 7 tháng 5 năm 1972:“Chao ôi, bao nhiêu lần ḿnh ao ước có được hạnh phúc xa vời ấy, được Đảng tin và trao cho những nhiệm vụ nặng nề. Có người sẽ bảo: Th́ đấy, anh được đi bộ đội đó th́ sao? Chẳng lẽ anh không được Đảng tin cậy mà lại trao nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc à? Không, đừng ai nói thế! Chuyện ǵ cũng có điều tế nhị của nó. Nói ra ư, không khéo th́ trở thành phản cách mạng mất. Có đi trong quân đội mới cảm thấy nỗi khổ của những người không phải Đỏ hoàn toàn.” Trong cùng ngày, anh viết: “Cứ mỗi lần khai lư lịch, ḿnh lại buồn, buồn tận sâu xa.”
Anh Thạc nhắc đi nhắc lại đến mười một lần hai chữ “lư lịch” trong nhật kư và điều đó cho thấy “vết đen” lư lịch ám ảnh anh sâu đậm đến mức nào. Anh khổ tâm, đau đớn v́ lư lịch gốc tư sản của cha mẹ anh trước đây cũng là điều dễ hiểu. Trong xă hội miền Bắc, Đảng là chiếc thang duy nhất đại diện cho quyền lực và quyền lợi mà mọi người phải chen nhau, đạp nhau và ngay cả giết nhau để được trèo lên cao.
Chủ nghĩa CS và chủ nghĩa Quốc Xă Đức giống nhau một điểm quan trọng, đó là sự tin tưởng vào mỗi cá nhân đặt cơ sở trên lư lịch. Chính trị lư lịch (Bio-politics) không chỉ bảo đảm tính kế tục về gịng giống nhưng c̣n bảo đảm mụch đích của chế độ được hoàn thành trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Chính Adolf Hitler, đối thủ hàng đầu của Stalin, đă từng bày tỏ sự thán phục dành cho Stalin và ca ngợi y trong việc làm thuần khiết hóa đảng CS Liên Xô qua việc loại bỏ các mầm mống Do Thái như Leon Trotsky, Grigory Zinoviev, Lev Kamenev, Karl Radek khỏi nội bộ lănh đạo đảng. Stalin phê b́nh quan điểm chủng tộc Aryan siêu việt của Hitler và gọi đó là Phát Xít nhưng chính y lại biện hộ cho chính trị lư lịch dựa trên giai cấp xă hội.