Năm mới thường là thời điểm và cũng là cơ hội tốt để kiểm điểm lại t́nh h́nh sinh hoạt trong năm qua. Vậy, người viết xin được mượn Tập San Xuân Nhân Bản để cùng độc giả duyệt lại t́nh h́nh đất nước và nhất là t́nh h́nh đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam.

Tâm lư kẻ sĩ Á Đông vẫn ăn sâu trong năo trạng của các thế hệ khoa bảng Việt Nam
Cơ hội này này càng đáng được nắm bắt, khi công ty tư vấn Business Monitor International (BMI) vừa công bố bản báo cáo về dự đoán t́nh h́nh kinh doanh và chính trị Việt Nam, từ đây cho đến năm 2022. Nếu căn cứ vào nghiên cứu này th́ – trong đoản kỳ – BMI đánh giá thấp mức độ rủi ro về bất ổn chính trị Việt Nam. Nói một cách khác, BMI quan niệm rằng một thay đổi chính trị sẽ khó có thể xảy ra từ đây cho đến 10 năm nữa. Tuy nhiên, khi nh́n xa hơn thập kỉ trước mắt, công ty tư vấn này đă dự đoán rằng chính quyền Việt Nam sẽ phải trực diện với những thử thách khó khăn. Thật vậy, chế độ độc đảng Việt Nam đang phải đương đầu với những áp lực đ̣i hỏi dân chủ hóa ngày càng gia tăng, trong một khu vực mà chiến lược ngoại giao thúc đẩy Đảng Cộng sản Việt Nam phải dựa vào các nước dân chủ Tây Phương nếu muốn duy tŕ độc lập quốc gia. Khi định hạng, công ty BMI đă xếp Việt Nam ở hàng ghế thứ 15 về đề tài ổn định chính trị dài hạn – với số điểm 57,7 – trên tổng số 21 quốc gia được nghiên cứu.
Đáng ghi nhận hơn là việc BMI đề nghị ba giả thuyết trong tiến tŕnh thay đổi chính trị Việt Nam. Giả thuyết thứ nhất: Một chế độ kỹ trị sẽ được h́nh thành. Nói một cách vắn tắt, chính quyền Việt Nam sẽ biến thành một chế độ của những chuyên gia. Mục đích của sự hoán chuyển này có mục tiêu duy tŕ chế độ bằng cách cố gắng giữ vững mức tăng trưởng kinh tế và tái thiết công bằng xă hội. Giả thuyết thứ hai: Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ từng bước tự do hóa chính trị (Đa dạng hoá làng báo, chấp nhận những ư kiến khác biệt nhưng vẫn phục tùng nguyên tắc độc đảng, dần dần đi đến bầu cử tương đối tự do…). Giả thuyết cuối cùng : T́nh trạng loạn lạc khiến chính quyền phản ứng bằng cách đàn áp. Với giả thuyết thứ ba, có nhiều xác suất Việt Nam bị loại ra khỏi cộng đồng thế giới văn minh và phải gánh chịu một số biện pháp trừng phạt kinh tế với hệ lụy cô lập hoá và cực đoan hóa của chính quyền.
Trong ba kịch bản trên, có lẽ giả thuyết kỹ trị là kịch bản khó xảy ra nhất. Lư do rất hiển nhiên: Thành phần kỹ trị chưa đủ trọng lượng để xuất hiện như một tầng lớp xă hội có tổ chức và có bản lănh để nắm lấy vai tṛ quyết định. Cần công nhận rằng – từ thập niên 90 cho đến nay – đất nước đă đào tạo được rất nhiều chuyên gia có «tay nghề» khá cao. Họ đă tu học hay tu nghiệp tại các quốc gia tân tiến. Quan trọng hơn nữa, giới chuyên gia Việt Nam đă có cơ hội trực tiếp quản lư những hồ sơ hệ trọng của đất nước và không có trường học nào có thể đào tạo một cách xuất sắc bằng mái trường cọ-xát-thực-tiễn.
Tuy nhiên, cũng phải nh́n nhận rằng giới chuyên gia Việt Nam c̣n quá ít và c̣n thiếu quá nhiều thời gian để chiếm được một địa vị trên chính trường, nhất là khi chính trường đó được an bài bởi một chính quyền độc đoán với tập quán (hay, nói đúng hơn một phản xạ) « hồng hơn chuyên ». Hơn thế nữa, tâm lư kẻ sĩ Á Đông vẫn ăn sâu trong năo trạng của các thế hệ khoa bảng Việt Nam. Tâm lư này đă làm thui chột thái độ dám nghĩ-dám làm và óc sáng kiến. Trong điều kiện này, nếu có cơ hội được tham chính, giới chuyên gia Việt Nam chỉ có thể là những người giúp việc ngoan ngoăn của một chính quyền độc tài đảng trị. Cứ duyệt lại lịch sử Nam Mỹ với những « Chicago boys » tốt nghiệp tại Hoa Kỳ và về nước « phục vụ » th́ có thể tiên đoán được những ǵ sẽ xảy ra nếu kịch bản kỹ trị được đưa lên sân khấu Việt Nam.
Nói tóm lại, giả thuyết này khó có thể đưa ra một lối thoát cho đất nước. Và nếu có, kịch bản này chỉ có thể là một đáp số giai đoạn cho những kẻ đương quyền. Chính v́ vậy không những đây là một kịch bản có ít xác suất xảy ra mà – hơn thế nữa – cần từ bỏ nó và phải tương kế tựu kế tống cổ nó đi trong trường hợp nó lấp ló hiện h́nh.
Về kịch bản thứ ba, nhiều dữ kiện cho thấy giả thuyết này cũng sẽ không thành hiện thực: Với một chiều dài lịch sử chiến tranh và xung đột, có lẽ dân tộc Việt Nam đă quá mệt mỏi. Hơn thế nữa, người dân đă thấu hiểu và thấm thiá cái giá phải trả khi đi đến chạm trán. Sự mệt mỏi của một dân tộc nhiều khi cũng có khiá cạnh tích cực của nó. Nó giành thế thượng phong cho giải pháp tranh thủ, thuyết phục hay – nhiều lắm – khắc phục. Nó cân nhắc và thường gạt phăng ra những giải pháp xung đột đổ máu vô ích.
Ngoài ra, nói đến bạo loạn là đề cập đến đám đông, nếu không muốn nói đến quần chúng. Nhưng đám đông hay quần chúng không lạc quan tếu và không lăng mạn. Quần chúng chỉ ồ ạt xuống đường đ̣i hỏi thực thi những yêu sách khi… t́nh h́nh đă ngă ngũ và chính quyền gần như chắc chắn phải nhượng bộ để rồi sụp đổ. Đừng để những h́nh ảnh về các cuộc cách mạng quần chúng trên thế giới làm mờ mắt. Trong tuyệt đại đa số những trường hợp trên, khi người dân quy tụ tại quảng trường đ̣i chính quyền từ chức th́ gần như sự sụp đổ của chính quyền chỉ c̣n là vấn đề thời gian và thương lượng (Giới đương quyền rút lui ra sao? Các hồ sơ trọng đại sẽ được xử lư thế nào? Điều kiện lưu vong của Thủ tướng và các Bộ trưởng? Quốc gia nào chấp nhận họ? Bao nhiêu trương mục sẽ bị khoá lại?...).
Và ngay trong trường hợp quần chúng xuống đường, cũng cần có một tổ chức chính trị điều động, điều khiển và – sau khi thành công – thay mặt quần chúng tiếp thu chính quyền. Điều kiện này c̣n thiếu vắng ở Việt Nam.
Có thể ví von so sánh việc xuống đường thách đố chính quyền độc tài như một cuộc đánh cờ tướng. Hai bên có thể « đớp » con xe hoặc « vồ » con pháo. Nhưng chưa bao giờ con tướng « bị ăn » cả. Tướng chỉ có thể bị « chiếu ». Trong trường hợp này, chỉ có hai giải pháp: Một, phía « bị chiếu » nhận thấy không c̣n cứu vớt được t́nh h́nh và phải chấp nhận nhường phần thắng cho đối phương. Ván cờ được kết thúc mà con tướng không hề hà ǵ. Hai, phiá « bị chiếu » vẫn c̣n khả năng tự vệ và mức độ hung hăn của sự phản công-đàn áp nhất định sẽ ngang tầm với sự ô nhục v́ vừa bị « chiếu ». Tất cả những cuộc đàn áp quần chúng xuống đường (Thiên An Môn, Yemen, Syria) đều xuất phát từ hành động sai lầm kêu gọi – hoặc không ngăn cản – xuống đường khi t́nh h́nh chưa ngă ngũ.

Giả thuyết bạo loạn đưa đến đàn áp khó xảy ra
Nói tóm lại, giả thuyết bạo loạn và đàn áp khó xảy ra tại Việt Nam v́ nó đ̣i hỏi lời kêu gọi đám đông đầy nhiệt huyết xuống đường. Nhưng, trong điều kiện Việt Nam hiện nay, đám đông đầy nhiệt huyết vẫn c̣n thiếu vắng v́ lư do lịch sử. Hơn nữa, những giới hạn văn hoá và tổ chức đă kiềm hăm sự ra đời của một tổ chức đầy đủ tín nhiệm kêu gọi quần chúng làm việc này. Ở đây, người viết xin mở ngoặc để hy vọng rằng một tổ chức như trên rồi sẽ xuất hiện… nhưng tổ chức này sẽ cân nhắc kỹ càng t́nh huống để không vội vă kêu gọi quần chúng hành động khi môi trường chưa chín muồi.
Vậy chỉ c̣n lại giải pháp tự do hoá chính trị. Hăy tạm cho là giải pháp này khả thi. Hơn nữa – trong ba giả thuyết được đề xuất – cần nh́n nhận đây là giả thuyết tốt lành nhất cho đất nước.
Nhưng không phải v́ vậy mà phải chấp nhận kịch bản này với bất cứ điều kiện nào!
Sinh hoạt chính trị là chấp nhận vượt qua chính ḿnh để tiếp tục là ḿnh. Nhưng chính trị cũng đ̣i hỏi thái độ kiên định trên những đề tài bất khả nhân nhượng để ḿnh c̣n tiếp tục là ḿnh. Kịch bản tự do hoá chính trị là một thí dụ điển h́nh. Ở đây, cần nhận diện rơ lằn ranh giữa hai thái độ: Một, hoài vọng tự do hoá chính trị sẽ đến từ chính quyền qua hành động xin-cho. Hai: quyết tâm đ̣i hỏi tự do hoá chính trị xuất phát từ người dân.
Cho đến những ngày gần đây thái độ thứ nhất vẫn là tập quán của người Việt Nam. Ṿng lẩn quẩn này được thể hiện qua những lời thỉnh cầu, những xin xỏ chính quyền hay những kiến nghị. Nó tiềm tàng trong những lời yêu cầu xây dựng đảng, trong sạch hoá đảng. Ở một mức độ nào đó, thái độ này cũng phần nào giải thích tư thế « dựa hơi » vào những thần tượng cách mạng cộng sản để cầu mong một ân sủng từ chính quyền. Tuy nhiên, thực tế đă nhiều lần chứng minh đây chỉ là một công thức vô vọng. Hơn nữa, lịch sử cũng luôn rung chuông nhắc nhở mọi người rằng Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ phản ứng dưới những nhu cầu của thực tế và những đ̣i hỏi của người dân. Những chính sách cải tổ hay đổi mới chưa bao giờ xuất phát từ viễn kiến của lănh đạo cộng sản. Nói một cách ngắn ngọn, thay đổi ở Việt Nam chỉ có thể phát động từ « dưới toả lên » chứ chưa bao giờ xuất phát « từ trên để rồi lan rộng xuống ».
Chính v́ vậy, có thể dứt khoát cam đoan rằng sẽ không có giải pháp khả quan hoặc khả thi nào nếu kịch bản tự do hoá chính trị lựa chọn lộ tŕnh xin-cho để chờ đợi một thái độ tích cực đến từ chính quyền độc tài.
Ngược lại, nếu muốn kịch bản tự do hoá chính trị được « mẹ tṛn con vuông » tại Việt Nam, đ̣i hỏi mới là thái độ thích hợp nhất. Những dấu hiệu gần đây cho thấy một sự chuyển hướng tư tưởng quan trọng theo chiều hướng này : Lời Tuyên Bố Công Dân Tự Do là một chứng minh hùng hồn. Nó đ̣i hỏi tiếng nói và địa vị xứng đáng cho mọi công dân trên những đề tài liên quan đến tương lai đất nước. Nó không xin xỏ chính quyền bất cứ điều ǵ. Ngược lại, nó kêu gọi những công dân khác tham gia vào Tuyên Bố để giành lấy những quyền lợi căn bản của ḿnh. Hiện nay, có hơn 7000 người trong và ngoài nước đă hưởng ứng Tuyên Bố. Không cần nói nh́ều, cần ủng hộ nhiệt t́nh hơn nữa Lời Tuyên Bố Công Dân Tự Do để những hành động tương tự xuất diện ngày càng nhiều tại Việt Nam. Nó sẽ tạo điều kiện tốt cho một tiến tŕnh tự do chính trị mà động cơ chính phải đến từ những đ̣i hỏi của mỗi công dân.
Nh́n sâu hơn vào vấn đề, xu hướng này đă manh nha xuất hiện vào cuối năm 2012 khi lần lược nhiều bài viết đă xuất hiện với nội dung đề nghị một nhân vật tiêu biểu – trong hay ngoài nước – đứng lên đại diện cho phong trào dân chủ Việt Nam. Dữ kiện này chứng minh sự trưởng thành của phong trào dân chủ Việt Nam. Thật vậy, nhu cầu về một tổ chức và về một nhân vật lănh đạo – để điều động, phân công và xác định những đ̣i hỏi dân chủ – đă được nh́n nhận như hai yếu tố không có không được, nếu muốn giành lấy thắng lợi.
Đi xa hơn nữa, cũng cần nhận diện một hiện tượng đang thành h́nh : Sự chọn lựa phương pháp đấu tranh có tổ chức, có lớp lang và được suy nghĩ chính chắn trước khi bước vào hành động. Có thể nói mà không sợ sai lầm rằng, sau một thời gian dài sàng lọc, một lớp người đấu tranh mới, tương đối rất trẻ, đă xuất hiện với những phong cách sinh hoạt khác hẳn với những tập quán trước đây. Có thể xem họ là những nhà đạo diễn thuộc trào lưu mới. Họ sẽ tích cực góp phần gầy dựng kịch bản tự do chính trị cho Việt Nam. Và các diễn viên chính chắc chắn sẽ là những người tự xem ḿnh như những công dân tự do có quyền và có trách nhiệm đối với đất nước.

Một lớp người đấu tranh mới đă xuất hiện, với những phong cách sinh hoạt mới
Phải làm tất cả những ǵ cần làm để những đạo diễn và những diễn viên này có được cơ hội phát huy tài năng của họ.
Một lời cuối: Năm qua là thời điểm mà hiện tượng sàng lọc đang đi vào giai đoạn cuối của nó tại Việt Nam, với những kết quả tích cực. Tại hải ngoại, hiện tượng này cũng đă xảy ra nhưng nó đă đi vào hồi kết : Thật vậy, ngay từ tháng 05/1975 đă có rất nhiều hội đoàn và tổ chức đấu tranh thi nhau ra đời. Cũng phải nh́n nhận rằng có nhiều sai lầm đă vấp phải, gây ra thất vọng và bỏ cuộc. Với thời gian, rất nhiều tổ chức dấn dần biến mất, nhường chỗ lại cho một vài tổ chức có viễn kiến và có định hướng đúng. Khi hai đợt sàng lọc đă hoàn tất công việc của nó, những con người kiên tŕ c̣n lại – trong và ngoài nước – chắc chắn sẽ kỳ phùng trong một mặt trận dân chủ.
Cho dù « hữu duyên, thiên lư năng tương ngộ » nhưng thử thách lớn trước mắt là làm sao tạo điều kiện để sự hội ngộ này diễn ra càng sớm càng tốt. Như vậy, sẽ chứng minh cho các công ty tư vấn, những văn pḥng nghiên cứu hay những cơ quan dự đoán chiến lược ngoại quốc một điều : Họ hoàn toàn sai lầm ! Dân chủ gơ cửa đất nước Việt Nam sớm hơn họ tưởng với một kịch bản khác với những ǵ họ đă suy tưởng.
Nguồn: Nguyễn Gia Dương/ Tintuchangngay