“…Xin hăy nghĩ rằng người dân cả ba miền Bắc Trung Nam ngày nay là một, đang kề vai sát cánh đấu tranh nhằm thay đổi thế chế độc tài Cộng Sản…”
Hàng năm, cứ tháng 4 về, trên các forum và nhiều trang mạng lại sôi nổi chủ đề về một “tháng 4 đen” hay “ngày quốc hận”…
C̣n truyền thông chính thống Việt Nam (chịu sự chỉ đạo của một đảng độc tài) th́ vẫn chưa chịu thôi luận điệu tuyên truyền cũ rich “Đại thắng mùa xuân 1975”.
Cả hai cách gọi này đều phản cảm, không phù hợp với ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Lich sử là lịch sử, không ai có thể tự viết nó bằng chính kiến chủ quan của ḿnh, dù là bên “thắng” hay bên ‘thua”!
Về nguyên nhân sâu sa, chủ quan và khách quan dẫn dến cuộc chiến huynh đệ tương tàn này, cũng nên tham khảo ư kiến của các học giả phương Tây, không loai trừ chính người Mỹ.
Walter Bedell Smith, thứ trưởng Ngoại giao Mỹ, trong bản Tuyên Ngôn tại Washington D.C. về Hiệp Định Genève đă xác định như sau:
“Trong trường hợp những quốc gia nay bị chia đôi ngoài ư muốn, chúng ta sẽ tiếp tục t́m kiếm giải pháp thống nhất qua bầu cử tự do, giám sát bởi Liên Hiệp Quốc để bảo đảm là bầu cử được thi hành nghiêm chỉnh” và “Hoa Kỳ sẽ tự kiềm chế, không đe dọa hay dùng vơ lực để phá những sự Thỏa Hiệp”. (In the case of nations divided against their will, we shall continue to seek to achieve unity through free elections, supervised by the United Nations to ensure that they are conducted fairly… The US will refrain from the threat or the use of force to disturb them).
Thế nhưng,trong cuốn The United States In Vietnam: An Analysis In Depth Of The History Of America’s Involvement In Vietnam, hai Giáo sư đại học Cornell, George McTurnan Kahin và John W. Lewis, lại viết rơ:
“Tuy Hoa Kỳ nói rằng “sẽ tự kiềm chế, không đe dọa hay dùng vơ lực để phá những sự Thỏa Hiệp” nhưng điều hiển nhiên chúng ta thấy ngay sau đó là Hoa Kỳ đă sửa soạn dùng mọi phương cách khác để ủng hộ chế độ Saigon [do Mỹ dựng lên]trong việc không tôn trọng những điều khoản trong Thỏa Hiệp”.(Though the US said it would “refrain from the threat or the use of force to disturb” the agreements, it soon become evident that it was prepared to use every other means to back up the Saigon regime in its departure from their central provisions).
Như vậy, rơ ràng là Hoa kỳ đă làm trái cam kết của hiệp định Genève, với sự có mặt của Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc, Lào, Việt Nam DCCH và Quốc gia Việt Nam về lập lại ḥa b́nh ở Đông Dương, ngầm hậu thuẫn cho chế độ của tổng thống Ngô Đ́nh Diệm ở miền Nam chống lại việc thống nhất nước Việt Nam thông qua tổng tuyển cử vào năm 1956. Họ cho rằng, nếu để Tổng tuyển cử xảy ra, ông Hồ Chí Minh sẽ chiếm ít nhất 80% phiếu và hy vọng chặn đứng chủ nghĩa Cộng Sản của họ ở Việt Nam sẽ trở thành mây khói.
Trước đó cũng chính Hoa Kỳ đă đổ trên một tỷ dollar vào ủng hộ ngụi Pháp trong nỗ lực duy tŕ Việt Nam làm thuộc địa, máy bay “made in” Pháp nhưng người lái lại là phi công Mỹ, việc này cho thấy không những họ đă giúp người Pháp về tài mà c̣n cả về nhân lực.
Người Mỹ, ngoài tiêu chí ngăn chặn sự bành chướng của chủ nghĩa Cộng Sản ở Đông Nam Á, ai có thể khẳng đinh rằng, họ không lo sợ mất quyền lực kinh tế ở khu vực Thái B́nh Dương? Nếu Ấn độ, Nhật Bản, Philippines… không thể là tiền đồn của chủ nghĩa Tư Bản? Vậy, họ có thật sự vô tư can thiệp vào nội bộ Việt Nam chỉ v́ muốn người Việt Nam được hưởng tự do dân chủ, no ấm hay không? Đúng, họ không có ư định xâm lược và ở lại lănh thổ Việt Nam để coi Việt Nam như một thuộc địa kiểu mới sau người Pháp, nhưng rơ ràng là những việc làm đó đă cho thấy họ là tác nhân chính để gây ra cuộc chiến tương tàn giữa những ngừoi Việt Nam với nhau. Họ chính là tác giả của những “Chiến dịch Phựợng hoàng”,”chiến tranh cục bộ” rồi “Việt Nam hóa chiến tranh,”… công khai tuyên chiến với Bắc Việt Nam bằng cuộc không kích Hà Nội 12 ngày đêm 1972 …Chỉ khi nhận rơ t́nh thế, họ mới chịu rút quân theo hiệp định 1973, để lại hậu quả không thế lường khi có đến vài thế hệ người Việt Nam phài chịu di chứng của chất độc màu da cam, chưa kể hiệu ứng tâm lư ảnh hưởng nặng đến đời sống của không ít cựu chiến binh Mỹ.
Cũng khoan hăy nói về tính ưu việt của chủ nghĩa Tư Bản so với Cộng Sản v́ thời điểm đó, người Việt Nam, nhất là ở miền Bắc, c̣n nghèo nàn lạc hậu sau 9 năm chống Pháp, họ chưa có điều kiện để nhận thức rơ ràng về cuộc đối đầu giữa các nước lớn, họ cũng không cần biết những người lănh đạo Việt Nam cũng như Liên Xô ,Trung Quốc hay Anh, Pháp, Mỹ …đang đi theo chủ thuyết ǵ.
Với ư thức tự tôn dân tộc: “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc thuần Việt suốt chiều dài lịch sử và chính đặc điểm “thuần Việt” này đă h́nh thành cho người Việt tư tưởng Một dân tộc, Một quốc gia hay Dân tộc đồng nhất với Quốc gia, để từ đó đi đến nguyên lư bất di bất dịch: không thể có độc lập dân tộc thực sự với một quốc gia bị chia cắt về lănh thổ, hay độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất lănh thổ quốc gia, thống nhất đất nước”. (Chiến tranh Việt nam và ngày 30 tháng 4 dưới mắt tiến sĩ CHHV), xuất phát từ ḷng yêu nước nồng nàn, họ đă dấn thân một cách vô tư trong sáng…
Phải nói thêm rằng những người Cộng Sản đă thành công trong việc lợi dụng truyền thống yêu nước và giữ nước của dân tộc để tuyên truyền, hô hào cho một cuộc Nam tiến không đáng có, khiến hàng triệu thanh niên miền Bắc đổ máu , hy sinh ở lứa tuổi đẹp nhất của đời người, bao bà mẹ mất con, vợ mất chồng…
Trở lại với hiệp định Genève năm 1954, giả thiết rằng, nếu ông Diệm chịu thực hiện Tổng tuyển cử 1956, cho dù ông hay ông Hồ Chí Minh trúng cử, th́ ít nhất ḥa b́nh đươc thiết lập, người đứng đầu nhà nước Việt Nam thống nhất khi ấy do chính những lá phiếu của người dân cả hai miền (đâu phải chỉ có miền Bắc) bầu ra? Khi ấy chính người Việt Nam sẽ làm chủ xu thế chính trị của ḿnh.
Thế chế nào mang lại cơm no áo ấm, tự do, dân chủ, hợp ḷng dân, thể chế ấy sẽ tồn tại và ngược lại…
Nhưng, giả thuyết chỉ là giả thuyết, thực tế, sau bao nhiêu biến cố mất mát đau thương, phải trải qua tới 21 năm mới có ngày 30 tháng 4 mà dù vui hay buồn, nó vẫn là một cái mốc quan trọng trong lịch sử khẳng định Việt Nam là một quốc gia thống nhất, có toàn quyền tự quyết định vận mệnh của ḿnh.
Xin hăy gắng quên đi những cái tên Hướng Điền, Phú Lợi, Mỹ Lai, Mậu Thân kinh hoàng… xin hăy quên đi Hà Nội mùa đông 1972… Bấy nhiêu hệ lụy khốc liệt mà chiến tranh chẳng ưu ái bên nào, cho dù lỗi thuộc về ai…
Chẳng lẽ chúng ta không mong có một ngày đất nước hoàn toàn không c̣n tiếng súng, không c̣n cảnh đầu rơi, máu chảy?
Chẳng lẽ chúng ta không mong có một ngày người lính hai bên coi nhau như những người anh em cùng màu da tiếng nói, không c̣n phải gọi nhau là “giặc” hay “Việt cộng”, “ngụy quân”?
Dù chiến tranh có do ai lầm lỗi..
Dù ai thắng ai thua…
Xin hăy gạt bỏ “tháng 4 đen” hay “ngày quốc hận” trong tâm thức về một quá khứ đau thương để thay bằng “NGÀY THỐNG NHẤT BẮC NAM”.
Xin hăy nghĩ rằng người dân cả ba miền Bắc Trung Nam ngày nay là một, đang kề vai sát cánh đấu tranh nhằm thay đổi thế chế độc tài Cộng Sản mà Lập pháp, Tư pháp, Hành pháp đều nằm trong tay một nhóm người chóp bu tham quyền cố vị, đang tâm kết án, bỏ tù những người yêu nước bát chấp cường quyền, đấu tranh v́ tự do, v́ quyền làm người trong một quốc gia thống nhất, và, trên hết, để giành lại chủ quyền lănh thổ từ tay ngoại bang Trung Quốc – kẻ thù ngàn đời của lich sử Việt Nam. Đó là Điếu Cày, Phạm Thanh Nghiên, Cù Huy Hà Vũ, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Lê Công Định, Đỗ Thị Minh Hạnh. Bùi Thị Minh Hằng… và nhiều những người con ưu tú khác đă và đang ngày đêm đấu tranh ôn ḥa cho tương lai Việt Nam theo gương nước láng giềng Myanma.
Xin hăy chung tay làm nên sức mạnh đoàn kết. Chỉ có đoàn kết mới có thể làm nên mọi chuyện.