Những tờ giấy màu trắng thường được gọi chung Fabric Softener dùng bỏ vào máy sấy để cho quần áo thơm tho, mềm mại hơn và không bị dính nhau lại, c̣n có nhiều công dụng khác nữa. Sau đây là những kinh nghiệm mà nhiều phụ nữ đă chia sẻ để chúng ta biết sử dụng Fabric Softener cho nhiều mục đích khác nhau :
1. Khi bạn đặt một miếng Fabric Softener ở gần nơi có kiến, chúng sẽ chạy đi hết.
2. Tránh được mùi hôi mốc bằng cách kẹp một miếng giấy Fabric Softener vào sách hay cuốn album lâu ngày không mở ra.
3. Vào mùa có nhiều muỗi, khi ra ngoài vườn sinh hoạt, bạn có thể đeo nơi thắt lưng một miếng Fabric Softener th́ mấy chàng muỗi sẽ không thèm lại gần.
4. Dùng miếng Fabric Softener để lau những vết xà bông đóng ở cửa kính của bồn tắm.
5. Làm cho đồ ṿật hay áo quần thơm tho và tươi mát bằng cách đặt một tấm Fabric Softener trong mỗi hộc tủ hay treo trong closet.
6. Để tránh chỉ bị rối hăy dùng miếng Fabric Softener vuốt sợi chỉ đă xâu vào kim trước khi may.
7. Nếu không muốn vali đựng quần áo bị ẩm, hăy đặt một miếng Fabric Softener dưới đáy trước khi xếp hành lư mang theo.
8. Làm cho không khí trong xe hơi trong lành bằng cách đặt một miếng Fabric Softener dưới ghế ngồi.
9. Muốn rửa sạch những thức ăn dính chặt bên trong xoong nồi th́ hăy đặt một miếng Fabric Softener vào trong xoong rồi ngâm nước qua đêm.
Hôm sau mới dùng miếng sponge để chùi rửa. Chất dùng để chống lại sự dính nhau (static) có trong Fabric Softener sẽ làm cho đồ ăn rớt ra khỏi xoong nồi dễ dàng hơn.
10. Đặt một miếng giấy Fabric Softener dưới đáy của mỗi thùng rác để tránh mùi hôi.
11. Dùng miếng Fabric Softener để lau những nơi có dính lông chó hay mèo, nó sẽ lấy đi những lông rụng đó một cách sạch sẽ.
12. Dưới mỗi giỏ đựng quần áo dơ, bao giờ cũng đặt một miếng Fabric Softener để khỏi có mùa hôi.
13. Làm cho giày không có mùi hôi bằng cách đặt miếng Fabric Softener trong đó qua đêm. Ngày mai, đôi giày sẽ thơm tho để mang đi làm hay đi học.
14. Dùng Fabric Softener để lau mặt kính máy TV sẽ làm cho bụi bặm bớt đóng lớp trên đó.
Khi coi thường mạng sống, người ta dễ liều mạng phạm tội.
Chắc hẳn những ai có lương tri đều đắng ḷng khi đọc những thông tin liên tục về các vụ án được xử mà kết cục là án tử h́nh. Họ là những thanh niên trẻ trung, mang dáng vẻ thư sinh, nhưng lại liều lĩnh phạm tội và trở thành những kẻ sát nhân máu lạnh. Họ được cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng hai ba chục năm, đặt rất nhiều hy vọng ở tương lai, vậy mà bây giờ họ trở nên mối nguy hiểm cho xă hội. Hy vọng của cha mẹ và gia đ́nh họ đă bị tắt lịm. Người vào tù đau khổ v́ mối ân hận day dứt. Người ở ngoài đau khổ v́ bia miệng tiếng đời. Tiếc rằng, con số những vụ việc như nêu trên tăng nhanh tới mức chóng mặt.
Mục đích những bản án tử h́nh hay tù tội là nhằm giáo dục và răn đe những người khác. Thế nhưng, mặc dù có biết bao lời lên án mỗi khi có một vụ án nghiêm trọng, nhưng xem ra người ta không sợ. Vẫn liên tiếp xảy ra những vụ cướp của giết người. Vụ sau tinh vi và nguy hiểm hơn vụ trước. Người ta lăng phí sự sống và đem sinh mạng của ḿnh ra làm tṛ đùa.
Một linh mục Ḍng Tên người Hàn Quốc, Cha Joseph Kim Yong-hae, đă nhận định: “Tỷ lệ phá thai gấp hai lần tỷ lệ sinh đẻ và tỷ lệ tự tử đứng đầu danh sách các nước trong Tổ chức Phát triển và hợp tác kinh tế. Hiện tượng này, cùng với một số vụ việc khác đă khiến người ta có cảm giác xă hội Hàn Quốc đă ch́m sâu trong nền văn hóa sự chết và tuyệt vọng”(Ucan News, bản tin 21-5-2012).
Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đă báo động về một nền văn hóa mang tên sự chết. Đó là một lối sống ích kỷ, chỉ lo hưởng thụ, không nghĩ đến tha nhân và cũng chẳng quan tâm đến ngày mai. Nền văn hóa này đang có nguy cơ thấm nhập vào xă hội của chúng ta, kéo theo những hệ lụy là sự dối trá, thù hận, thủ đoạn và vô trách nhiệm. Văn hóa sự chết chối bỏ các giá trị tôn giáo và nhân bản.
Giáo lư Công giáo dạy: “Sự sống con người phải được coi là linh thánh, v́ từ lúc khởi đầu của ḿnh, sự sống đó ‘đ̣i phải có hành động của Đấng Tạo Hóa’ và măi măi được liên kết một cách đặc biệt với Đấng Tạo Hóa, là cùng đích duy nhất của ḿnh. Chỉ có Thiên Chúa là Chúa của sự sống từ khi sự sống khởi đầu cho đến khi kết thúc: không ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào, có thể dành cho ḿnh quyền trực tiếp đem cái chết đến cho một thụ tạo nhân linh vô tội”(Sách Giáo lư của Giáo Hội Công giáo, số 2258).
Chúa cũng truyền lệnh trong Điều thứ năm của Thập điều: “Ngươi không được giết người” (Xh 20,13). Lệnh truyền này phải được hiểu theo hai chiều: không được cất mạng sống người khác, đồng thời cũng không có quyền tự cất mạng sống ḿnh.
Tuân theo Luật Chúa, Giáo hội luôn luôn đấu tranh để bảo vệ sự sống con người. Giáo hội vẫn không ngừng kêu gọi hủy bỏ án tử h́nh tại những quốc gia c̣n giữ bản án này, v́ các nhà nước vẫn có khả năng chế ngự tội ác cách hữu hiệu mà không cần phải tước đoạt cách vĩnh viễn mạng sống của các tội nhân (x SGLCG số 2267). Giáo hội cũng đưa ra những chỉ dẫn trong đời sống gia đ́nh nhằm bảo vệ sự sống và góp phần thăng tiến con người. Ngay cả trong những quốc gia khuyến khích việc phá thai hay việc chết êm dịu, Giáo hội vẫn thi hành chức năng ngôn sứ của ḿnh, lên án những h́nh thức giết người, trực tiếp hay gián tiếp, v́ đó là sự vi phạm đến Luật Chúa và nhân phẩm con người.
Chúng ta đă bước vào Mùa Vọng, là thời gian chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh. Con Thiên Chúa xuống thế làm người dưới h́nh hài một trẻ thơ trong hang đá. Hài Nhi Giêsu sinh ra là niềm vui cho cả thế giới. Lễ Giáng sinh là lễ của ḥa b́nh. Lễ Giáng sinh cũng là lễ của sự sống, v́ Đức Giêsu mang lấy thân phận con người để nâng cao phẩm giá của con người, thông truyền cho họ sự sống siêu nhiên. Hài Nhi Giêsu trong hang đá máng cỏ là lời kêu gọi bảo vệ sự sống, từ những thai nhi c̣n trong ḷng mẹ đến những người đang sống trên cơi đời này.
Nếu mỗi người đều biết tôn trọng sự sống của ḿnh và của những người xung quanh, th́ cuộc sống này sẽ rất an b́nh và vui tươi. Mong sao điều ấy được thực hiện nơi xă hội Việt Nam chúng ta.
Nhiều người quan niệm, cà phê không tốt cho sức khỏe . Tuy nhiên, nếu bạn uống một lượng vừa phải vào buổi sáng trước các bài luyện tập thân thể, chắc hẳn bạn sẽ bất ngờ với nhiều tác dụng mà cà phê mang lại.
1. Giảm đau
Một nghiên cứu gần đây được thực hiện tại trường Đại học Illinois chỉ ra rằng, uống hai đến ba tách cà phê vào khoảng một tiếng trước khi tiến hành các bài tập vận động sẽ giúp giảm các cơn đau cơ. Các nhà khoa học tin rằng, lượng caffeine trong cà phê góp phần tăng cường sức mạnh cũng như sự dẻo dai cho cơ.
2. Tăng cường quá tŕnh tuần hoàn máu
Một nghiên cứu được thực hiện tại Nhật Bản về tác dụng của cà phê đối với quá tŕnh tuần hoàn máu của những người không thường xuyên uống cà phê. Theo đó, mỗi người uống khoảng gần 30 ml cà phê. Sau đó, các nhà nghiên cứu xác định quá tŕnh lưu thông của máu tới các ngón tay.
Kết quả cho thấy, những người uống cà phê thường xuyên tăng khoảng 30% lượng máu lưu thông trong khoảng thời gian hơn 75 phút so với nhóm người không uống cà phê. Sự lưu thông máu tốt hơn đồng nghĩa với việc lượng oxy vận chuyển tới các cơ nhiều hơn.
3. Tăng cường trí nhớ
Đại học John Hopkins đă tiến hành một cuộc nghiên cứu và phát hiện chất caffeine trong cà phê có thể tăng cường trí nhớ tỏng ít nhất 24 giờ sau khi con người uống cà phê.
4. Nạp nhiều nhiên liệu hơn cho cơ
Một nghiên cứu khác được công bố trên Tạp chí Sinh lư Ứng dụng chỉ ra rằng, một lượng nhỏ caffeine rất hữu ích cho những người phải luyện tập thân thể với cường độ cao, đặc biệt là các vận động viên. Những người bổ sung caffeine tăng 66% hàm lượng glycogen trong cơ. Glycogen đóng vai tṛ là nguồn năng lượng thiết yếu đối với các buổi tập thể thao tốn sức, giúp bạn tập luyện trong thời gian dài hơn.
5. Bảo vệ cơ
Nghiên cứu trên động vật được các nhà khoa học tại trường Đại học Conventry thực hiện cho thấy, caffeine trong cà phê có tác dụng hỗ trợ bù đắp sự suy giảm sức mạnh của cơ theo tuổi tác. Với một hàm lượng vừa phải, cà phê cũng có thể bảo vệ sức khỏe chúng ta, giảm nguy cơ các tổn thương liên quan đến tuổi tác.
-You nhớ bỏ mấy cục gị sống vào cho cháo nó thêm ngọt nhe!
Bà mở ngăn tủ lạnh vít vài miếng gị sống bỏ vào nồi cháo và nói vọng lên:
-OK, nồi cháo nầy mà không ngon là khỏi trả tiền nhe.
Bà nếm thử, rồi quậy nhè nhẹ lên, theo order của ông, trong nồi cháo nào là thịt xay, gị thịt chỗ bắp đùi phần trên, bây giờ ông lại c̣n muốn bỏ thêm gị sống nữa, ăn thế nầy mà không bị bịnh th́ cũng lạ.
Lát nữa trước khi múc ra tô, bà phải bỏ nhúm giá trước, bóp nhè nhẹ cho giá gẫy khúc, rồi mới múc cháo ra tô, xong rồi th́ bỏ hành ng̣ lên trên. Tô của bà khi ăn bà phải bóp vào một miếng tương bột Housin sauce, đây là món khoái khẩu của bà từ hồi c̣n bé, dù hồi đó nhà nghèo con đông, má bà nấu nồi cháo to ít thịt, nhưng lúc nào bà cũng dặn má bà mua một chút tương xay, cho vào cháo ăn mới ngon.
Ngồi nhâm nhi từ từ v́ cháo mới múc c̣n nóng quá, bà để ông nói ǵ th́ nói, bà cứ ậm ừ cho qua chuyện, nhưng đầu óc bà lạc về phương trời nào ấy. Bà nhớ lại, thế mà đă 26 năm.
*****
Năm ấy thằng con lớn của bà được 2 tuổi. Khi sanh nó, bà đau bụng đă hơn tuần lễ mà vẫn chưa sinh được, bụng lúc đầu đau râm râm, tới ngày thứ nh́ đau hơn và cứ đau hơn nữa, cho tới lúc cô y tá khám và nghe tim thai th́ em bé đă thở yếu lắm rồi, nằm ở đây đă 3 ngày, nhưng không có dấu hiệu ǵ sắp sinh cả. Năm ấy bà đă 35 tuổi, bà lấy chồng muộn nên có con muộn. Cô y tá trưởng đề nghị đem bà đi mổ gấp, nếu không mổ kịp sẽ chết cả mẹ lẫn con. Rồi th́ họ cứu được cả 2 mẹ con.
Nuôi thằng nầy thật trần ai khoai củ. Nó vẫn bú nhiều, ăn nhiều, bụ bẫm, nhưng bịnh th́ vẫn cứ bịnh, cứ ho, cảm, nóng,... Nó bệnh theo sự trở mùa của thời tiết. Mỗi khi nó bệnh, bà hay bồng nó đi bác sĩ Trinh ở HH. Bà không đem con tới bác sĩ A, v́ ông nầy hay cho kèm trụ sinh là Tetraciline, nên phần đông con nít lớn lên răng đều bị vàng khè, mà không thể nào đánh cho trắng được, bao nhiêu tiền lương dạy học, tiền dạy thêm, tiền buôn bán vặt vănh đều bỏ vào tiền đi bác sĩ, nhà thương, thuốc thang cho nó. Có những lúc, bà hết sạch sành sanh tiền v́ nó cứ bệnh đau liên tục. Bà cũng biết nguyên nhân v́ đâu, khí hậu Việt Nam, lúc đầu hôm th́ nóng, bà để quạt máy, nửa đêm th́ lạnh v́ nhà máy tôn, khi lạnh th́ thật lạnh, mà nóng th́ thật nóng.
Hôm ấy nó bịnh, nóng không biết bao nhiêu độ, sờ vào bà biết là không thể để ở nhà. Bà không c̣n một đồng dính túi. Bây giờ chỉ có cách là đến cầu cứu thằng em. Nó là em thứ sáu, trong nhà nầy ngoài những đứa em c̣n nhỏ ra, th́ những khi quá cần mà không thể chạy được nơi nào khác, th́ bà phải cầu cứu nó. Nó làm công trong xưởng vẽ, là họa sĩ, mà họa sĩ vào năm 1988 th́ có phải đâu “goodjob.” Năm ấy th́ nhà nước "mở cửa" rồi, nhưng đất nước vẫn c̣n như ngại ngùng, lạ lẫm khi tiếp xúc với các xứ tự do, nên ngành vẽ cũng không lấy ǵ đắt khách.
Bà dắt xe đạp vào xưởng ở đường 3/2, trên cái giỏ chổ khung xe là cu Tí. Thằng em ngạc nhiên hỏi:
-Chị chở cháu đi đâu mà sớm vậy?
-Đi Nhi Đồng, hồi hôm nó nóng quá mà chị chẳng c̣n đồng nào cả.
Thế là nó lấy cái quần treo trên đinh nó móc sạch nhách, móc cho đến đồng bạc cuối cùng:
-Chị lấy đỡ bao nhiêu đây đi, em lănh lương rồi tính sau.
Chị cho mớ tiền vào túi áo và gài cái kim tây cho chắc ăn. Mẹ chở con vào nhà thương bằng xe đạp, thằng con được nằm viện.
Sau khi mẹ con đà yên chỗ, chị xuống căn tin mua cho con chút cháo, phần chị th́ đă có mớ cơm nguội và mấy con khô đây rồi, cũng qua được bữa nay, tối th́ tính sau.
Ở nhà khi nó nóng th́ cuống quít lên, vào đây th́ cả ngày y tá chỉ phát cho vài viên thuốc uống cho trẻ bớt nóng rồi chờ xét nghiệm máu xem nó có nhiễm virus sốt suất huyết hay không,
Bà sợ bệnh t́nh con biến chuyển không biết thế nào, nên chút tiền của đứa em, bà c̣n để trong túi mà không dám xài, bụng th́ lâm râm đói, nhưng thôi ráng ngủ đi cho quên đói.
Đêm ở nhà thương Nhi Đồng tầng trên nơi con nít nằm, ban đêm sao thanh vắng, thỉnh thoảng vài tiếng khóc của trẻ, tiếng ú ớ, tiếng la, tiếng dỗ con. Bà trằn trọc bên con, phần th́ lạ chỗ ngủ, phần th́ đói, bụng kêu rồ rồ không sao ngủ được, tiếng ḿ gơ lốc cốc... Giờ nầy mà có tô ḿ th́ hết xẩy. Bà nghĩ đến quậy ly sữa ḅ của con để uống, nhưng cũng không được, phải để dành cho nó...
Bà cứ trằn trọc măi, đoán giờ nầy chắc cũng 9, 10 giờ đêm rồi. Bỗng cuối hành lang có tiếng guốc lạch cạch, lạch cạch, tiếng như có cái ǵ gơ vào từng cửa pḥng dọc hành lang và tiếng nói oang oang trong đêm vắng vẻ “Bà con nào muốn ăn cháo th́ đem gà-mên xuống múc." Nghe tiếng trở ḿnh của người đàn bà nằm với đứa con bên cạnh, bà hỏi với sang:
-Bộ họ cho cháo hả chị?
Giọng ngáy ngủ, bà kia ọ ẹ trả lời:
-Ừ, cháo ế, đêm nào nó cũng kêu cho.
Bà nghe vậy, xốc con lên, không cần biết thằng nhỏ ngủ hay thức, bà cơng nó trên vai, lấy cái gà-mên có 3 ngăn cầm theo, trước khi đi, bà nói với bà bên cạnh:
-Chị trông dùm đồ đạc của tui, chẳng có ǵ quư, chỉ có cái b́nh thủy là quư thôi.
-Ừ đi đi , không ai lấy đâu.
Thế là vai cơng con, tay xách gà mèn, bà lần xuống căntin, vừa đi vừa chạy, sợ người khác lấy hết. Bà nói nhỏ vào tai con:
-Con ơi, ḿnh đi xin cháo, vậy là ḿnh có đồ ăn rồi con ơi.
Thằng con được mẹ cơng chạy tưng tưng, nó cười khanh khách, tỉnh ngủ.
H́nh như mọi người cũng quen với cảnh nầy và thấy cũng ít ai xuống lấy, cô có nhiệm vụ bán căn tin sắp sửa rửa nồi, nên chắc nghĩ rằng đổ th́ uổng nên kêu mọi người xuống lấy, buổi sáng mua cho con, họ bán có chút thịt bầm, bây giờ th́ thấy múc vào gà-mên 3 cục thịt bầm to bằng bàn tay vắt lại, như cơm vắt, cháo mới hâm sôi c̣n nóng hổi. Vậy là để dành tới mai c̣n ăn được.
H́nh như từ sau khi lấy chồng đến lúc nầy, bà chưa bao giờ được ăn tô cháo ngon quá như vậy. Đúng ra v́ nghèo quá, con th́ cứ đau cứ bệnh, bao nhiêu tiền đều đổ vào tiền bác sĩ, tiền thuốc, tiền nhà thương mà chẳng làm ǵ được ra tiền ngoài việc đi dạy học.
Nguyên cả ngày hôm sau, bà sống lay lất nhờ gà-mên cháo ban tối, c̣n thằng nhỏ vẫn phải mua cháo nóng cho nó.
Buổi chiều th́ bố nó vào, bà không dám hỏi ông ăn ǵ chưa, v́ nếu hỏi khi ông trả lời là chưa th́ bà phải lấy tiền đi mua đồ ăn, mà tiền nầy chưa biết sẽ xài cho thằng con bao nhiêu, và không biết bệnh t́nh nó ra sao, v́ vậy bà không dám hỏi. Ông có ư ở lại, ông nằm dưới nền nhà, thở dài thườn thượt, môi th́ khô, chắc là cũng đói, vào với mẹ con, xem con đỡ chưa và đương nhiên thế nào bà cũng phải kiếm ǵ cho ông ăn, nhưng bà không hỏi, v́ bụng bà cũng đang rỗng tuếch đây. Bà nghe bụng ông cũng kêu ồm ộp.
Rồi bỗng nhiên như "đến hẹn lại lên", tiếng guốc lạch cạch, lạch cạch, tiếng gơ côm cóp vào từng cửa pḥng, tiếng la oang oang “lấy cháo! lấy cháo! ai xuống lấy cháo!”
Bà ngồi dậy, phản ứng như bị điện giựt, lấy cái gà-mèn để sẵn. Bà dợm bước đi th́ thằng con la lên “Mẹ, mẹ cho con đi với!”
Ông ngồi dậy, vài giây đầu ông không hiểu chuyện ǵ xảy ra. Bà nằm kế bên tỉnh giấc hơn tối qua, thấy ông ngạc nhiên, bà nói: “Đi xin cháo dưới căntin.”
Ông mắng liền, như thường ngày ông vẫn hay mắng bà:
-Đi đâu, đi ăn xin hả -?
Bà nghẹn ngào khựng lại vài giây, nghĩ trong bụng: ông không biết, ông không hiểu ǵ cả, từ ngày lấy nhau, bà đă nhịn đói dài dài, để nhường tất cả cho con và cho ông. Bà đă thường ăn đồ thừa, bà cố che giấu cái bất lực của ḿnh v́ không thể nào kiếm nhiều tiền hơn được nữa, phổi đă nấu thành cháo và cũng sắp lủng hết 2 lá rồi.
Sau cùng, cơn đói đang hành hạ và h́nh như ông cũng đang đói mà c̣n cố giữ cái sĩ diện rỗng tuếch, bà như không c̣n biết sợ là ǵ nữa, bất chấp ông chồng đang nổi xung, bà cơng con chạy theo tiếng la c̣n vọng lại cuối hành lang. Sau đó bà đem về pḥng một gà-mên cháo c̣n nóng hổi. Thằng con vui lắm, tỉnh ngủ, bi bô nói chuyện tiếng được tiếng mất với bố, “Bố, bố, mẹ cơng con mẹ chạy.” Bàn tay ú nần sờ mặt bố, vừa cười vừa nói ngọng nghệu nghe cũng mắc cười. Ông cười theo thằng con.
Bà không nói ǵ hết, chia cho ông phần dưới là phần to nhất. Ông lặng lẽ ra hành lang ăn. Và bà thấy h́nh như ông đang khóc (có lẽ ông hối hận v́ muốn giữ cái sĩ diện không xin xỏ mà mắng oan bà chăng?)
*****
-Ê, you! Cháo you nấu ngon quá hé!
-Mấy chục năm kinh nghiệm rồi you ơi, nhưng vẫn không ngon bằng gà-mên cháo ở Nhi Đồng.
26 năm trôi qua, lưu lạc qua xứ Huê Kỳ, cho đến bây giờ ông cũng không hề biết: nồi cháo ế hằng đêm ở nhà thương Nhi Đồng và cô bán căntin tốt bụng đă giúp bà đỡ đói trong hai ngày đêm ở đó.
BÀI TOÁN KHÓ NHẤT: Ư THỨC
THE HARDEST PROBLEM: CONSCIOUSNESS
Phạm Viết Hưng
Ai cũng biết ư thức tồn tại, nhưng không ai biết bản chất ư thức là cái ǵ. Các nhà khoa học muốn nắm bắt được ư thức, nhưng họ chỉ tóm được cái bóng của nó chứ không phải bản thân ư thức. Vấn đề bản chất của ư thức đă trở thành bài toán khó nhất đang thách thức khoa học…(Everyone knows that consciousness exists, but no one knows what the nature of consciousness is. Scientists want to grasp consciousness, but they grasp only its shadow, not the consciousness itself. The problem of consciousness’ nature has become the hardest problem challenging science…)
Nếu có một cái ǵ đó hiển nhiên rơ ràng nhất nhưng lại bí ẩn khó hiểu nhất th́ đó là Ư THỨC.
Ngay từ thời cổ Hy Lạp, một nhà thông thái bậc nhất như Socrates cũng đă phải thốt lên: “Tôi biết rằng tôi chẳng biết ǵ cả” (I know that I know nothing), rồi ông khuyên: “Hăy hiểu chính ḿnh” (Connais-toi, toi même!). Dường như ông muốn nói với người đời rằng bao nhiêu hiểu biết cũng chẳng có ư nghĩa ǵ nếu không hiểu chính ḿnh. Thế nào là hiểu chính ḿnh? Ấy là đặt ra những câu hỏi về bản thân ḿnh và trả lời những câu hỏi đó, chẳng hạn: sự hiểu biết của ḿnh có đầy đủ không? Sự hiểu biết của ḿnh có đúng đắn không? Tại sao ḿnh có thể nhận biết, tư duy, cảm xúc, suy tưởng? Sự vật mà ḿnh nhận thức được là hiện thực khách quan hay chỉ là ảo ảnh do ư thức tạo ra? Bản chất của ư thức là ǵ?… Có lẽ Socrates không thể t́m được câu trả lời thỏa đáng cho những câu hỏi này nên ông cảm thấy bao nhiêu sự biết của ḿnh vẫn như chẳng biết ǵ cả. Trở ngại chính đối với ông có lẽ là bí mật về bản chất của ư thức.
Từ đó đến nay, ngót 2 thiên niên kỷ rưỡi đă trôi qua, loài người đă đạt được những tiến bộ vượt bậc trong sự hiểu biết thế giới, nhưng dường như vẫn dậm chân tại chỗ trong sự hiểu biết về chính ḿnh, mặc dù các nhà triết học và khoa học không ngừng nghiên cứu, thảo luận, tranh căi về bản chất của ư thức. T́nh h́nh này đă được phản ánh rơ ràng và thú vị trong một bài báo của Oliver Burkeman trên tờ The Guardian của Anh ngày 21/01/2015. Tiêu đề là một câu hỏi chất vấn: “Tại sao những trí tuệ vĩ đại nhất thế giới đều bất lực trước bí mật của ư thức?” ( Why can’t the world’s greatest minds solve the mystery of consciousness? ).
Hỏi tức là đă trả lời: Bí mật của ư thức vượt quá khả năng của những trí tuệ vĩ đại nhất của nhân loại. Một trong những trí tuệ đó là René Descartes (1596-1650), nhà toán học và triết học trứ danh của nước Pháp và thế giới, cha đẻ của H́nh học Giải tích, một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật lần thứ nhất trong lịch sử văn minh của nhân loại.
1/ Luận thuyết Descartes
consciousness-2Từ nửa sau thế kỷ 20 cho tới nay, sự phát triển vượt bậc của khoa học và công nghệ đă tạo ra một lợi thế rất lớn trong việc nghiên cứu bản chất của ư thức. Ấy là sự ra đời của một ngành khoa học “chạm” vào ư thức của con người: Khoa học về “Trí thông minh nhân tạo” (Artificial Intellgigence), viết tắt là AI. Thành tựu của AI đă và đang làm cho mọi người kinh ngạc, nhiều dự đoán cho rằng AI sẽ chế tạo ra những robots thông minh bằng và hơn con người trong một tương lai không xa. Năm 1997, chương tŕnh Deep Blue đă đánh cờ thắng vua cờ Gary Kasparov, làm cho niềm hy vọng chế tạo ra trí thông minh trở nên hiện thực hơn bao giờ hết.
Nhưng đúng vào lúc đó, khi tư duy logic cơ giới thô thiển hí hửng nhất, th́ những nhà khoa học có đầu óc triết học sâu sắc lại nhận ra sự thật của trí thông minh là cái ǵ ─ cái mà từ xưa tới nay từng được coi là thước đo của trí thông minh là tư duy logic tính toán hóa ra không phải là “thành phần chủ yếu của tư duy thực sự”, như Douglas Hofstadter nhận định trong cuốn sách nổi tiếng của ông, “Gödel, Escher, Bach”. Đây là một cuốn sách từng đoạt Giải Pulitzer, một sách “gối đầu giường” của tất cả các nhà khoa học về trí thông minh nhân tạo hiện nay, một tác phẩm đặc biệt chuyên sâu dành cho tất cả những ai quan tâm tới vấn đề bản chất của ư thức và trí thông minh của con người. Nguyên văn câu nói của Hofstadter như sau:
“Khi một hoạt động trí năo nào đó đă được chương tŕnh hóa th́ người ta sẽ mau chóng ngừng coi nó như một thành phần chủ yếu của tư duy thực sự” (Once some mental function is programmed, people soon cease to consider it as an essential ingredient of real thinking) [1]
consciousness-3Đó là một nhận định mang tính cách mạng về bản chất của ư thức, làm tiêu tan hy vọng của những ai tưởng rằng có thể giải mă bí ẩn của ư thức thông qua công nghệ trí thông minh nhân tạo.
Nếu quả thật toàn bộ ư thức có thể chương tŕnh hóa th́ chắc chắn đến một lúc nào đó con người sẽ có thể chế tạo ra những robots có ư thức, và như thế th́ ư thức không c̣n ǵ là bí mật nữa. Khi đó ư thức có thể được xem như kết quả của một hệ thống vật chất hoạt động theo những quy tắc logic xác định. Có nghĩa là thành tựu của khoa học và công nghệ AI một mặt nói lên sức mạnh của tư duy logic, nhưng mặt khác chỉ ra rằng tư duy logic chỉ là một bộ phận của ư thức và thậm chí không phải là bộ phận chủ yếu của tư duy thực sự. Theo tờ The New York Times, Hofstadter cho rằng ư thức thực sự của con người nằm ở tư duy cảm xúc, chẳng hạn như soạn nhạc, viết văn ─ “những lĩnh vực đ̣i hỏi một linh hồn” (they require a soul), cái mà robots không có và không bao giờ có thể có [1].
Tại sao robots không thể có tư duy cảm xúc? Đơn giản v́ cảm xúc không tuân thủ chương tŕnh, cảm xúc là một dạng tư duy phi logic (non-logical thinking) trong khi computer là một cỗ máy hoạt động theo chương tŕnh..
Tóm lại, thành tựu của AI càng làm cho vấn đề bản chất của ư thức càng trở nên khó hiểu hơn. Nó chỉ ra rằng con người, hay sự sống nói chung, là những thực thể hoàn toàn khác biệt với những cỗ máy, mặc dù con người và sự sống nói chung cũng có những yếu tố của những cỗ máy.
Bài báo trên tờ The Guardian ngày 21/01/2015 (đă dẫn) cũng có những ư kiến làm sáng tỏ thêm nhận định nói trên. Xin tóm lược một đoạn thú vị nhất:
consciousness-4Các nhà triết học và khoa học đă tranh căi nẩy lửa trong hàng thập kỷ nay về vấn đề cái ǵ làm cho con người phức tạp hơn robots. Bộ năo đặt ra đủ các loại bài toán làm cho các nhà khoa học phải bận tâm. Chẳng hạn, chúng ta học như thế nào, làm thế nào để ghi nhớ, hoặc để nhận biết sự vật? Có một số bài toán được xếp vào loại dễ, thí dụ: Làm thế nào để bạn biết rụt tay lại khi chạm phải nước nóng, hoặc nghe thấy tên ḿnh trong một căn pḥng hội hè ồn ào? Nếu có đủ thời gian và tiền tài trợ, một ngày nào đó các chuyên gia về thần kinh có thể sẽ đưa ra lời giải đáp. Chỉ có một bài toán duy nhất thực sự khó, được gọi là Bài toán Hóc búa về Ư thức (the Hard Problem of Consciousness), nội dung gồm những câu hỏi như: Tại sao mọi quá tŕnh phức tạp diễn ra bên trong bộ năo có cảm giác như từ bên trong nội tâm? Tại sao chúng ta không chỉ thông minh như robots (nói cách khác, tại sao chúng ta không ngu như robots) tức là chỉ có khả năng ghi nhận thông tin, hoặc có phản xạ đáp ứng với ngoại cảnh như tiếng ồn hoặc mùi vị của thức ăn bốc lên từ xoong chảo,… nhưng vẫn dốt đặc và trống rỗng cuộc sống nội tâm? Và làm thế nào mà bộ năo sản sinh ra những cảm xúc nội tâm đó? Làm thế nào mà một bộ năo nặng khoảng 1.4kg với những mô năo mầu hồng nhạt nằm bên trong hộp sọ lại có thể làm nẩy sinh ra một cái ǵ đó đầy bí ẩn như ư thức về sự sống mà nó và toàn bộ cơ thể được gắn vào sự sống đó?
Khởi nguồn những tranh căi về bản chất của ư thức dẫn chúng ta đi ngược trở về quá khứ những năm 1600, khi René Descartes nêu lên một luận thuyết về ư thức mà hàng trăm năm sau vẫn là chủ đề để các học giả tiếp tục tranh căi mà không t́m thấy lời giải. Một mặt Descartes nhận thấy không có cái ǵ rơ ràng hơn và khó bác bỏ hơn một thực tế là tất cả chúng ta đều có ư thức. Về lư thuyết, tất cả mọi thứ mà bạn nghĩ là bạn biết về thế giới đều có thể chỉ là một ảo ảnh được tạo ra để đánh lừa bạn, nhưng bản thân ư thức th́ không thể là một ảo ảnh. Mặt khác, hiện tượng quen thuộc nhất và chắc chắn nhất này lại không tuân thủ bất kỳ một quy luật thông thường nào của khoa học. Nó dường như không phải là vật chất. Nó không thể quan sát được, ngoại trừ sự cảm nhận từ bên trong, bởi chính ư thức của con người. Thậm chí nó không thể thực sự mô tả được. Do đó, Descartes kết luận, ư thức phải được tạo ra bởi một chất liệu ǵ đó đặc biệt, phi vật chất, không tuân thủ các định luật của tự nhiên; v́ thế ư thức ắt phải là một cái ǵ đó do Chúa truyền cho chúng ta.
Luận thuyết Descartes nói trên đẩy khoa học duy vật vào t́nh trạng bế tắc: thừa nhận luận thuyết Descartes th́ tự bác bỏ ḿnh, không thừa nhận th́ buộc phải chứng minh ư thức là vật chất. Nhưng làm thế nào để chứng minh?
Bế tắc! Bốn thế kỷ qua không có chứng minh nào cả! Thành tựu của khoa học về trí thông minh nhân tạo cho thấy trí thông minh thực sự nằm ở cảm xúc, một dạng ư thức phi logic, không tuân thủ bất kỳ một chương tŕnh nào cả, và do đó nó nằm ở bên kia tầm với của khoa học. Trớ trêu thay, khoa học về trí thông minh nhân tạo không những không chống lại Descartes, mà vô t́nh c̣n ủng hộ Descartes.
Vậy là sau bốn thế kỷ, luận thuyết Descartes vẫn giữ nguyên giá trị. Bất chấp sự thắng thế của chủ nghĩa duy vật trong thế kỷ 20, những trí tuệ vĩ đại nhất trong thế kỷ này vẫn nghiêng về phía Descartes. Nhận định này có thể kiểm chứng thông qua tư duy của những đại diện khoa học lớn nhất trong thế kỷ 20.
2/ Các nhà khoa học giỏi nhất nghĩ ǵ về bản chất của ư thức?
Muốn bác bỏ Descartes th́ phải chứng minh ư thức là vật chất. Rất nhiều công tŕnh nghiên cứu muốn quy ư thức về một dạng năng lượng, nhưng khốn thay, không có cách nào để phát hiện ra dạng năng lượng đó. Vậy hăy t́m hiểu xem những bộ năo vĩ đại nhất trong thế kỷ 20 và hiện nay nghĩ ǵ về vấn đề này.
Max Planck (1858 – 1947)
consciousness-61Max Planck là cha đẻ của khái niệm lượng tử, mở đầu cuộc cách mạng vĩ đại về nhận thức trong thế kỷ 20. Tầm vóc khổng lồ về khoa học và tư tưởng của ông là điều không thể bàn căi. Các nhà khoa học duy vật rất ngại trích dẫn Planck bởi uy tín của ông quá lớn, nhưng ông lại có những phát biểu đối nghịch hoàn toàn với chủ nghĩa duy vật. Thật vậy, ông tuyên bố:
“Tôi coi ư thức là nền tảng căn bản, và vật chất bắt nguồn từ ư thức. Chúng ta không thể biết được những ǵ đằng sau ư thức. Mọi thứ chúng ta bàn đến, mọi thứ mà ta coi là đang tồn tại, đều do ư thức mặc nhận” (I regard consciousness as fundamental. I regard matter as derivative from consciousness. We cannot get behind consciousness. Everything that we talk about, everything that we regard as existing, postulates consciousness) [2]
Ư Planck muốn nói ư thức là gốc rễ của mọi nhận thức, phải có ư thức th́ mới nhận biết được vật chất, v́ thế không thể giải thích cái gốc rễ ấy là cái ǵ được. Giống như trong một hệ logic, không thể giải thích hệ tiên đề của hệ logic đó, v́ hệ tiên đề là những nguyên lư đầu tiên chỉ có thể thừa nhận như một tiên nghiệm. Trong một trường hợp khác, ông nhắc lại ư kiến này trên phạm vi toàn vũ trụ.
“Mọi vật chất bắt nguồn và tồn tại chỉ v́ một lực… Chúng ta phải thừa nhận đằng sau lực này tồn tại một Trí Tuệ có ư thức và thông minh. Trí Tuệ này là cái sinh ra mọi vật chất” (All matter originates and exists only by virtue of a force… We must assume behind this force the existence of a conscious ans intelligent Mind. This Mind is the matrix of all matter) [3]
Chú ư rằng chữ “Trí Tuệ” trong câu nói trên được Planck viết hoa. Vậy Trí Tuệ đó là ǵ nếu không phải Nhà Thiết kế Thông minh của vũ trụ mà Lư thuyết Thiết kế Thông minh ngày nay mô tả?
consciousness-7Albert Einstein (1879-1955)
Người hiểu rơ khái niệm năng lượng hơn ai hết là Albert Einstein, nhưng Einstein chưa bao giờ thể hiện quan điểm coi ư thức như một dạng năng lượng, dù chỉ ở mức nghi vấn hoặc đặt vấn đề. Công thức nổi tiếng của ông, E = mc^2 , thâu tóm toàn bộ năng lượng và vật chất trong vũ trụ, nhưng không có chỗ cho ư thức ở đó. Ngược lại, ư thức đối với ông vẫn là một cái ǵ đó hoàn toàn không thể hiểu được, nó không thể là vật chất. Ông nói:
“Điều khó hiểu nhất về vũ trụ là ở chỗ nó có thể hiểu được” (The most incomprehensible thing about the universe is that it is comprehensible).
C̣n ai hiểu vũ trụ bằng Einstein? Chẳng phải Thuyết tương đối tổng quát của ông đă mô tả toàn bộ vũ trụ trong một phương tŕnh duy nhất đó sao? [4] Vậy mà ông không hiểu tại sao cái vũ trụ ấy lại có thể được phản ánh trong ư thức của con người, hay nói cách khác, làm sao mà con người có thể nắm bắt được cái vũ trụ mênh mông và kỳ diệu như thế. Giữa vũ trụ và ư thức của con người có một mối quan hệ tương tác như thế nào để ư thức có thể trở thành một tấm gương phản chiếu vũ trụ? Nếu vũ trụ quá bí ẩn th́ cái ư thức nắm bắt được vũ trụ c̣n bí ẩn gấp bội! Tại sao vậy? V́ ư thức không tuân thủ bất cứ một định luật tự nhiên nào, như Descartes khẳng định! Nếu vũ trụ quá kỳ diệu để làm cho Einstein phải thốt lên những lời ngạc nhiên thán phục th́ ư thức c̣n làm cho ông ṭ ṃ gấp bội, v́ nó hoàn toàn bí ẩn đối với ông. Ông nói: “Trải nghiệm cái bí ẩn – dù có pha trộn cảm giác sợ hăi – cũng chính là trải nghiệm mà tôn giáo đă tạo ra. Hiểu biết về sự hiện hữu của cái mà ta không thể nh́n thấu, của những biểu hiện lư trí sâu thẳm nhất và cái đẹp rực rỡ nhất, những cái chỉ có thể đến với trí năo của ta trong những h́nh thức sơ khai nhất; chính cái biết và cái cảm này làm nên tính tín ngưỡng đích thực; những người có tín ngưỡng sâu xa” [5] Tín ngưỡng mà ông nói ở đây là niềm tin vào sự hiện hữu của cái không thể chứng minh được. Đối với người Thiên Chúa giáo, đó là Chúa, là Thượng Đế. Đối với các nhà khoa học như Pascal, Newton, Galilé, Pasteur, Mendel, Kelvin, Einstein, Heisenberg, Godel,… đó là Đấng Sáng tạo. Bản thân ư thức cũng là một hiện hữu không thể nh́n thấu, không thể chứng minh bằng khoa học, v́ thế niềm tin vào sự hiện hữu của ư thức cũng chính là một tín ngưỡng. V́ thế không có ǵ để ngạc nhiên khi bốn thế kỷ trước, Descartes cho rằng ư thức có nguồn gốc từ Chúa. Einstein không nói rơ như Descartes, nhưng cũng nói điều tương tự khi tuyên bố:
“Tư duy trực giác là một quà tặng thiêng liêng…” [6]. Quà tặng thiêng liêng ấy do ai tặng, nếu không phải Đấng Sáng tạo?
Chú ư rằng tư duy trực giác cũng chỉ là một dạng thức đặc biệt của ư thức. Nó chẳng phải cái ǵ khác chiếc đèn pha của ư thức giúp con người phát hiện được chân lư một cách trực tiếp và bất chợt, không thông qua suy luận. Tất cả các nhà khoa học lớn đều thấy rơ điều đó. Henri Poincaré, nhà toán học vĩ đại nhất cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, cũng từng nói “Logic giúp ta chứng minh, trực giác giúp ta khám phá”. Nhưng có lẽ Einstein là người băn khoăn nhiều nhất về bí ẩn của trực giác, v́ thế ông thường xuyên nhắc tới vai tṛ định hướng của trực giác trong khám phá, đồng thời gợi ư cho chúng ta suy ngẫm về tính chất bí ẩn không thể giải thích của dạng năng lực tinh thần kỳ lạ này. Ông nói:
“Tri thức đóng vai tṛ thứ yếu trên con đường khám phá. Có một sự nhảy vọt trong ư thức được gọi là Trực giác hay gọi là ǵ tùy ư, nhờ đó mà bạn t́m thấy lời giải nhưng bạn không hiểu điều đó diễn ra như thế nào và tại sao” (The intellect has little to do on the road to discovery. There comes a leap in consciousness, call it Intuition or what you will, the solution comes to you and you don’t know or why).
Nếu Einstein c̣n để cho chúng ta tự suy đoán nguồn gốc của năng lực tinh thần kỳ lạ đó th́ Nicolas Tesla, một nhà khoa học xuất chúng đầu thế kỷ 20 lại nói rơ rằng nó đến từ một Trung Tâm trong vũ trụ.
consciousness-8Nicolas Tesla (1856 – 1943)
Vào thời của Tesla, khái niệm trung tâm phát thanh và truyền h́nh hoặc là chưa có, hoặc là c̣n quá non trẻ, vậy mà Tesla đă quan niệm bộ óc của chúng ta chỉ là một chiếc máy nhận thông tin, giống như chiếc radio hay tivi bây giờ vậy. Nói cách khác, theo Tesla, ư thức đơn giản chỉ là những thông tin xuất phát từ một Trung tâm trí tuệ trong vũ trụ. Trung Tâm này là ǵ, nếu không phải Thượng Đế? Đây, ông nói:
“Bộ năo của tôi chỉ là một điểm tiếp nhận. Trong Vũ trụ tồn tại một trung tâm mà từ đó chúng ta nhận được tri thức, sức mạnh, cảm hứng. Tôi chưa thâm nhập được vào những bí mật của trung tâm này, nhưng tôi biết nó tồn tại” (My brain is only a receiver. In the Universe there is a core from which we obtain knowledge, strength, inspiration. I have not penetrated into the secrets of this core, but I know that it exists) [7]
Câu nói trên, mặc dù không có chứng minh khoa học, nhưng nó mang bóng dáng của một ngoại cảm tiên tri. [8]
Một câu nói khác của ông cũng chứa đựng nhiều gợi ư về bản chất của nhận thức:
“Thật nghịch lư nhưng là sự thật khi nói rằng chúng ta càng hiểu biết càng trở nên dốt nát theo nghĩa đen, bởi v́ chỉ thông qua sự khai sáng th́ chúng ta mới ư thức được những hạn chế của chúng ta” (It is paradoxical, yet true, to say, that the more we know, the more ignorant we become in the absolute sense, for it is only through enlightenment that we become conscious of our limitations) [9].
Tôi không rơ câu nói này được nói ra vào thời điểm nào, nhưng nó hoàn toàn phù hợp với tư tưởng của Định lư Bất toàn của Gödel năm 1931. Định lư này khẳng định rằng nhận thức của chúng ta bị hạn chế. Nhưng Tesla ư thức được tính hạn chế đó không phải do Định lư Gödel, mà do được khai sáng, tức được Chúa mặc khải. Khái niệm được mặc khải thực ra cũng là khái niệm trực giác như Einstein nhấn mạnh, đó là món quà thiêng liêng…
consciousness-9Kurt Gödel (1906 – 1978)
Như chúng ta đă thấy, ư thức của con người bao gồm cả logic lẫn phi logic, và Douglas Hofstadter đă chỉ ra rằng tư duy logic không phải là thành phần mang tính người nhiều nhất. Tư duy mang tính người nhiều nhất là tư duy cảm xúc ─ dạng tư duy theo cảm hứng, phi logic và không tuân thủ chương tŕnh…
Sau một thời gian dài các nhà khoa học đánh giá trí thông minh theo cái gọi là IQ, để rồi thấy không ổn, gần đây họ sáng tác ra cái gọi là EQ. Đây là hệ quả của chủ nghĩa duy vật thô thiển, muốn quy mọi hiện tượng trong thế giới hiện thực về vật chất có thể cân đong đo đếm được. Điều đáng buồn là những sáng tác này được đám đông hùa theo, đương nhiên coi đó là những khái niệm khoa học. Nhưng đối với những người có cái nh́n triết học sâu sắc, đó chỉ là những tṛ hề khoa học. Bản thân chữ EQ (Emotional Quotient) đă là sai lầm, bởi cảm xúc là một hiện tượng không thể đo được. Nói cách khác, mọi giá trị đo lường về cảm xúc đều phiến diện, sai lệch, làm méo mó sự thật. Thí dụ, mọi cách cho điểm các bức tranh của Van Gogh đều vô nghĩa, kể cả việc đo giá trị bức tranh bằng số tiền bán được. Tất cả những con số đó đều là lừa dối, không phản ánh được cảm xúc thực sự của người thưởng thức tranh. V́ thế, Hofstadter từng nói nếu computer có thể vẽ tranh hay viết văn ở tŕnh độ nghệ thuật th́ đó sẽ là một thảm họa.
Tất cả những thảo luận nói trên sẽ có thể kém thuyết phục nếu không có Định lư Bất toàn của Kurrt Gödel, “nhà logic vĩ đại nhất kể từ sau Aristotle”.
Thật trớ trêu, Định lư Bất toàn là con đẻ của toán học logic, nó đặt nền móng cho khoa học computer, nhưng nội dung của nó lại nói lên tính bất toàn của logic. Nếu trường phái Hilbert tôn sùng logic như “đấng toàn năng” của toán học th́ Gödel lại hạ nó xuống đúng vị trí của nó, rằng logic là ngôn ngữ đắc dụng của computer, với những hạn chế mang tính bản chất không thể khắc phục được, và đối với con người, logic chỉ là một bộ phận của ư thức ─ ư thức của con người rộng lớn hơn và phức tạp hơn rất nhiều so với cái phần logic đó. Đây, hăy nghe ông nói:
“Bộ năo là một chiếc máy tính được kết nối với một tâm linh” (The brain is a computing machine connected with a spirit) và “Ư thức được kết nối với một cái toàn thể” (Consciousness is connected with one unity) [10].
Chữ “bộ năo” trong câu nói trên phải được hiểu là ư thức lưu hành trong bộ năo. Vậy theo Gödel, ư thức ấy không chỉ có tư duy tính toán, tư duy theo chương tŕnh, mà bao gồm cả tâm linh ─ phần ư thức chứa đựng tất cả những ǵ mà toán học nói riêng và khoa học nói chung bất lực, chẳng hạn như cảm xúc âm nhạc, cảm xúc trước cái đẹp, cảm xúc thi ca, khả năng trực giác, ngoại cảm, tiên tri,… Ở một mức độ nào đó, có thể thấy Gödel vượt xa Einstein trong những suy nghĩ về bản chất của ư thức ─ ông không dừng lại ở chỗ ngạc nhiên trước sự kỳ lạ khó hiểu về những khả năng không thể giải thích được của ư thức, mà cho rằng cái ư thức đó được nối kết với một trung tâm trí tuệ nào đó của vũ trụ, cái mà ông gọi là “một toàn thể” (one unity). Ở chỗ này ta thấy Gödel có phần nào giống Tesla, khi Tesla cho rằng bộ năo chỉ là chiếc máy thu những tri thức được phát ra từ một Trung Tâm trong vũ trụ.
Cái mà Tesla gọi là một Trung Tâm, và Gödel gọi là một Toàn thể, thực ra là Thượng Đế, hoặc Đấng Sáng tạo, Đấng Toàn năng, Nhà Thiết kế Vũ trụ, Nhà Lập tŕnh Vũ trụ, Chúa, Brama, Alah, Bà Mẹ Tự Nhiên,… Điều này rất dễ hiểu, bởi cả Tesla lẫn Gödel đều công khai bầy tỏ Đức tin của ḿnh.
Tesla từng nói: “Quà tặng sức mạnh tinh thần đến từ Chúa, Thực thể Thần thánh, và nếu chúng ta tập trung tư tưởng của chúng ta vào chân lư đó, chúng ta sẽ ḥa hợp với sức mạnh vĩ đại ấy. Mẹ tôi dạy tôi t́m kiếm mọi chân lư từ trong Kinh Thánh”. [11]
Gödel c̣n đi xa hơn thế, ông không chỉ khẳng định sự tồn tại của những thế giới khác với thế giới chúng ta đang sống, mà c̣n dùng toán học logic để chứng minh sự hiện hữu của Chúa. Đầu năm 2013 hai nhà khoa học computer là Christoph Benzmüller thuộc Đại học Tự do ở Berlin (Free University of Berlin) và Bruno Woltzenlogel Paleo thuộc Đại học Kỹ thuật Vienna đă bắt tay vào việc “computer hóa” toàn bộ chứng minh của Gödel. Không đầy một năm, đến Tháng 10, kết quả được công bố trong một công tŕnh mang tên: “Formalization, Mechanization and Automation of Gödel’s Proof of God’s Existence” (H́nh thức hóa, Cơ giới hóa và Tự động hóa chứng minh của Gödel về sự hiện hữu của Chúa). Công tŕnh này được giới khoa học computer nhiệt liệt hưởng ứng như một mẫu mực của bài toán computer hóa các định lư toán học. [12]
consciousness-10Erwin Schrödinger (1887 – 1961)
Erwin Schrödinger là nhà vật lư lỗi lạc người Áo, đoạt Giải Nobel năm 1933, nổi tiếng với phương tŕnh sóng trong Cơ học Lượng tử. Ông tuyên bố rất rơ ràng và dứt khoát về bản chất của ư thức như sau:
“Ư thức không thể giải thích được bằng những thuật ngữ mang tính vật chất. V́ ư thức là khái niệm gốc rễ, không thể giải thích được bằng thuật ngữ của bất cứ thứ ǵ khác” (Consciousness cannot be accounted for in physical terms. For cansciousness is absolutely fundamental. It cannot be accounted for in terms of anything else). [13]
Ư kiến này có thể xem như một lời thuyết minh hoặc tán thưởng ư kiến của Planck đă dẫn ở trên, rằng phải có ư thức th́ mới nhận thức được mọi thứ, ư thức là mắt xích đầu tiên của hệ thống nhận thức, v́ thế không thể giải thích mắt xích đầu tiên ấy là cái ǵ được.
Tóm lại, luận thuyết Descartes vẫn đứng vững trong thế kỷ 20, ít nhất trong tư tưởng của những nhà khoa học tài giỏi nhất và có tầm nh́n triết học sâu xa nhất.
Tuy nhiên, các nhà khoa học duy vật không có lựa chọn nào khác là phải cố gắng chứng minh ư thức chỉ là một dạng vật chất đặc biệt nào đó. Hy vọng chứng minh này dấy lên mạnh mẽ trong bối cảnh xuất hiện ngày càng nhiều hiện tượng ngoại cảm và tâm linh trên khắp thế giới. Nổi tiếng nhất là hiện tượng chữa bệnh bằng tâm linh có hiệu quả thực tế rất cao của nhà chữa bệnh bằng tâm linh Bruno Gröning ở Đức giai đoạn 1949-1959 và nhà chữa bệnh bằng tâm linh Nguyễn Đức Cần ở Việt Nam những năm 1970,… Nhiều dự án nghiên cứu những hiện tượng này đă xuất hiện ở nhiều quốc gia, được gọi tắt trên sách báo quốc tế là PSI, thu hút sự chú ư của rất nhiều nhà khoa học lẫn người không làm khoa học. Vậy kết quả PSI ra sao?
/ PSI và những nghiên cứu thực tế về bản chất của ư thức
PSI là chữ viết tắt của thuật ngữ “Psychic phenomenna”, dịch nôm na là những hiện tượng tâm linh. T́m hiểu kỹ hơn trên Google, gơ “what does psychic mean” (psychic nghĩa là ǵ), chúng ta nhận được kết quả như sau:
– Nếu đóng vai tṛ tính từ, “psychic” có nghĩa thứ nhất là tính chất liên quan đến những hiện tượng dường như không thể giải thích được bằng các định luật tự nhiên, đặc biệt là hiện tượng thần giao cách cảm (telepathy) hoặc thấu thị (clairvoyance). Những từ đồng nghĩa với nó là “supernatural” (siêu tự nhiên), “paranormal” (dị thường, ngoài phạm vi giải thích của khoa học), “other-worldly” (thuộc thế giới khác), “supernormal” (siêu thường), “preternatural” (vượt quá tự nhiên), “metaphysical” (siêu h́nh), “extrasensory” (ngoại cảm), “transcendental ” (siêu việt), “magic” (huyền ảo), “mystical” (huyền bí), occult (huyền bí),…
– Nghĩa thứ hai, “psychic” là tính chất liên quan đến linh hồn (soul) hoặc tư tưởng (mind).
– Nếu đóng vai tṛ danh từ th́ “psychic” là một người có khả năng “psychic”, tức là có những khả năng dị thường không thể giải thích bằng các định luật tự nhiên được.
Vậy bản thân sự giải thích của Google (dựa trên các từ điển học thuật) đă thừa nhận hai sự thật:
Một, những hiện tượng ngoại cảm và tâm linh không thể giải thích được bằng các định luật tự nhiên là có thật! Những hiện tượng này tồn tại khách quan, hoàn toàn không phải là bịa đặt, mê tín dị đoan như một số người lầm tưởng! V́ thế, việc quan tâm nghiên cứu những hiện tượng đó là cần thiết.
consciousness-11Hai, những hiện tượng ngoại cảm và tâm linh không thể giải thích bằng các định luật tự nhiên, tức là nằm bên ngoài khoa học. Nói cách khác, khoa học không thể giải thích những hiện tượng ngoại cảm và tâm linh!
Hai kết luận trên hoàn toàn phù hợp với kết luận trong cuốn BÊN NGOÀI KHOA HỌC do NXB Khoa học & Kỹ thuật Hà-nội xuất bản năm 2004, trong đó viết:
•“Đ̣i hỏi về tính phổ quát là một trong những lư do v́ sao thật khó thực hiện một sự khảo sát khoa học về các hiện tượng như tâm động và ngoại cảm, các hiện tượng này dường như chỉ đi liền với một số cá nhân nào đó trong những hoàn cảnh đặc biệt. Với cùng lư do như vậy, kinh nghiệm cá nhân độc nhất, dù gây ấn tượng như thế nào đối với người nhận, không thể xem là một phần của khoa học” (ư kiến của nhà vật lư Peter Hodgson, trang 20).
•“PSI vẫn c̣n đang trôi nổi! … V́ sao các nhà khoa học không chấp nhận PSI? Lư do đối với sự hoài nghi chính là chúng ta cần các số liệu lặp lại được và một lư thuyết có thể đứng vững được. Cả hai đ̣i hỏi này vẫn c̣n thiếu trong nghiên cứu về PSI…. Chừng nào mà người cổ vũ cho PSI vẫn chưa thể làm rơ việc ư nghĩ được sản sinh ra bởi các nơ-ron trong năo của người gửi có thể đi qua xương sọ để vào năo của người nhận th́ hoài nghi là sự đáp ứng thích hợp…” (ư kiến của GS Đặng Mộng Lân, đồng dịch giả và biên tập viên của cuốn BÊN NGOÀI KHOA HỌC, trang 25-27, đă công bố trên tạp chí Vật lư Ngày nay số Tháng 10/2003).
Tóm lại, cho đến hôm nay, khi độc giả đang đọc những ḍng này, th́ tất cả những công tŕnh nghiên cứu về ngoại cảm và tâm linh đều chưa đem lại một kết quả ǵ có lợi cho khoa học duy vật, và có lẽ điều này là BẤT KHẢ, v́ như bản thân khái niệm “psychic”, tức “ngoại cảm và tâm linh”, đă được định nghĩa là những hiện tượng không thể giải thích được bằng các định luật tự nhiên.
Nói cách khác, những nghiên cứu về ngoại cảm và tâm linh không hề chứng minh được rằng ư thức là một dạng vật chất, mặc dù trong những nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu thường xuyên dùng những thuật ngữ vật lư để gán cho khả năng ngoại cảm và tâm linh, chẳng hạn, “trường sinh học”, “năng lượng tinh thần”, “năng lượng tâm linh”,… Thực chất, đây là một việc làm “gượng ép” ─ việc dùng những khái niệm và thuật ngữ quen thuộc trong một thế giới quen thuộc để mô tả một hiện tượng không biết rơ bản chất trong một thế giới chưa biết ─ tương tự như t́nh trạng khủng hoảng trong vật lư học đầu thế kỷ 20, khi các nhà vật lư cố gắng mô tả thế giới lượng tử bằng những khái niệm và thuật ngữ của thế giới vật chất thông thường. Niels Bohr đă cảnh tỉnh thế giới vật lư rằng đây là một nỗ lực BẤT KHẢ (impossible), và do đó đừng bao giờ cầu mong có thể hiểu được thế giới lượng tử một cách rơ ràng và xác định như thế giới hàng ngày của chúng ta. Rốt cuộc các nhà vật lư chỉ có thể tiên đoán các hiện tượng lượng tử theo xác suất, và sự khôn ngoan mách bảo chúng ta rằng đừng cố hiểu bản chất của thế giới lượng tử, mà hăy tận dụng các hiện tượng lượng tử vào đời sống của chúng ta, miễn là đem lại lợi ích cho loài người. Các nhà vật lư đă khôn ngoan đi theo con đường này. Chẳng hạn, “tương tác ma quái” giữa hai hạt photon là một hiện tượng không thể giải thích được, nhưng đă và đang được nghiên cứu để ứng dụng truyền thông tin tức thời, được gọi là “viễn tải lượng tử” (teleportation).
Đó là một bài học rất tốt cho những nghiên cứu về ngoại cảm và tâm linh, hay nói chung cho những nghiên cứu về bản chất của ư thức. Nói gợi ư cho chúng ta thấy không nhất thiết phải ôm lấy quan điểm lỗi thời cho rằng mọi thứ trong thế giới hiện thực đều là vật chất. Hăy thừa nhận sự tồn tại của những hiện thực phi vật chất hoặc siêu nhiên mà khoa học bất lực, để t́m cách ứng dụng những hiện tượng đó vào những mục đích thiết thực đối với đời sống loài người, điển h́nh là việc chữa bệnh.
consciousness-11bDù khoa học thừa nhận hay không, việc chữa bệnh của “hai vị thánh chữa bệnh”, Bruno Gröning và Nguyễn Đức Cần, vẫn mang lại những kết quả phi thường không thể chối căi. Nếu phương pháp chữa bệnh bằng tâm linh của “hai vị thánh” này không thể giải thích được bằng khoa học th́ đơn giản là khoa học vật chất quá nghèo nàn để giải thích các hiện tượng thuộc về ư thức và tâm linh.
Sự nghèo nàn này thiết tưởng đă quá rơ.
Định lư Bất toàn của Gödel đă nói rằng tư duy lư lẽ và logic không đủ để chứng minh mọi hiện tượng ngay trong thế giới vật chất thông thường chứ đừng nói đến những thế giới bên ngoài hoặc bên trên thế giới vật chất. V́ thế, cái cần phải thay đổi không phải là t́m kiếm một thứ máy móc hay công cụ vật lư tối tân hơn, tinh vi hơn, để chụp ảnh hay ghi lại dấu vết của ư thức hoặc tâm linh, mà là thay đổi thế giới quan, thay đổi cách nh́n về thế giới!
PSI không được khoa học thừa nhận v́ nó nghiên cứu những hiện thực khách quan cao hơn, rộng hơn thế giới vật chất ─ thế giới bên ngoài hoặc bên trên tầm với của khoa học. Vậy nếu nh́n nhận khoa học chỉ là một trong số những con đường khám phá chân lư th́ hăy bổ sung cho những hiểu biết hạn hẹp của khoa học bằng những phương pháp nhận thức khác.
4/ Những con đường tiệm cận tới bản chất của ư thức
Việc PSI không được công nhận là khoa học không phải là một tin buồn đối với những người tin vào thế giới tâm linh, mà ngược lại, đó là một tin vui, v́ nó chứng tỏ hai điều:
•Nó xác nhận hiện tượng tâm linh là có thật.
•Nó chỉ ra rằng khoa học vật chất không đủ để nghiên cứu ư thức và tâm linh. Nói cách khác, nó chỉ ra “cái gót A-sin” của khoa học duy vật ─ một dạng nhận thức dựa trên tư tưởng nền tảng cho rằng thế giới chỉ có vật chất và vật chất, ngoài ra không có cái ǵ khác.
Cái “gót A-sin” ấy cản trở con người tiến về phía trước trên con đường nhận thức sự thật. Điều này đă được nhấn mạnh bởi David Hawkins, nhà triết học khoa học nổi tiếng của Mỹ trong thế kỷ 20 (từng là thành viên trong Dự án Manhattan – Dự án chế tạo bọm nguyên tử của Mỹ trong những năm 1940). Ông nói:
consciousness-12“Trở ngại chính trên con đường phát triển của chúng ta là sự thiếu hiểu biết về bản chất của bản thân ư thức” (The main obstacle to our development is our lack of knowledge about the nature of consciousness itself). [14]
Làm thế nào để vượt qua trở ngại đó? Liệu khoa học có thể tự nó vượt qua trở ngại này không?
Câu trả lời là KHÔNG, chừng nào khoa học c̣n tiếp tục duy tŕ quan điểm lỗi thời cho rằng thế giới chỉ có vật chất và vật chất mà thôi. Nếu đóng khung trong quan niệm như thế th́ làm sao một lư thuyết thuần túy vật chất có thể giải thích một hiện thực phi vật chất? Chẳng phải các nhà khoa học giỏi nhất thế kỷ 20 như Max Planck, Einstein, Tesla, Gödel, Schrödinger,… đă nói rơ điều này rồi sao?
consciousness-13Các nhà triết học, thần học cũng thấy rơ điều đó. Trong cuốn “Vũ trụ trong một nguyên tử”, Đức Đạt Lai Lạt ma dùng thuyết nhân quả để bác bỏ khả năng quy giản tinh thần thành vật chất. Ngài viết:
“Điều cốt yếu để hiểu khái niệm của Phật giáo về ư thức – và sự bác bỏ của nó về khả năng quy giản tinh thần thành vật chất – là thuyết nhân quả” (trang 195, Công ty Nhă Nam và NXB Thế giới xuất bản năm 2016).
Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh rằng ư thức mang tính chủ quan, nhưng khoa học chỉ coi trọng những chứng cứ khách quan, và do đó khoa học dường như chẳng đạt được kết quả nào trong việc khám phá bản chất của ư thức:
“Kinh nghiệm của ư thức là hoàn toàn chủ quan. Tuy nhiên, điều nghịch lư là mặc cho thực tại không thể nghi ngờ của chủ quan tính của chúng ta và hàng ngàn năm khảo cứu triết học, có rất ít đồng thuận về vấn đề ư thức là ǵ. Khoa học, với phương pháp ngôi thứ ba đặc trưng của nó – cái nh́n khách quan từ bên ngoài – chỉ đạt được những tiến bộ ít ỏi đến kinh ngạc trong sự hiểu biết này” (trang 177, sách đă dẫn) (chữ in đậm do tôi nhấn mạnh, PVHg).
Vậy có cách nào để khoa học vượt qua trở ngại hiện nay không?
Đức Đạt Lai Lạt ma nêu lên một đề nghị: kết hợp các phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học với phương pháp nghiên cứu truyền thống của Phật học. Cụ thể, kết hợp phương pháp thí nghiệm khách quan, mà ngài gọi là “phương pháp ngôi thứ ba), của khoa học với phương pháp chủ quan của thiền định Phật giáo, mà ngài gọi là “phương pháp ngôi thứ nhất”.
Cái khó trong sự kết hợp này là ở chỗ khoa học xưa nay chỉ chấp nhận “phương pháp ngôi thứ ba”, tức là chỉ chấp nhận những kết luận được rút ra từ những thí nghiệm khách quan, có thể lặp đi lặp lại, cùng cho một kết quả như nhau. Chẳng hạn, quy luật F = ma dù được bạn kiểm tra ở Việt Nam hay tôi kiểm tra tại Úc sẽ đều cho một kết luận như nhau. Và khoa học xưa nay không chấp nhận bất kỳ một kinh nghiệm cá nhân chủ quan nào, nếu nó không được kiểm chứng bởi những người khác và cho cùng một kết quả. V́ thế khoa học rất khó có thể chấp nhận những kinh nghiệm thiền định của các bậc tu hành bất kể các ngài đắc đạo như thế nào. Xin nhắc lại ư kiến của nhà vật lư Peter Hodgson trong cuốn BÊN NGOÀI KHOA HỌC đă dẫn ở trên:
“…kinh nghiệm cá nhân độc nhất, dù gây ấn tượng như thế nào đối với người nhận, không thể xem là một phần của khoa học”.
Giả sử có một thiền giả cao cấp đă chứng ngộ được những sự thật huyền nhiệm ở những cơi giới ư thức siêu linh, đồng thời lại là một nhà khoa học xuất chúng về vật lư, có khả năng quy kết những sự thật chứng ngộ được thành một định luật biểu thị dưới dạng toán học, liệu định luật đó có được khoa học công nhận không?
Câu trả lời là KHÔNG, nếu định luật đó không thể phát biểu được ở “ngôi thứ ba”, tức là không được kiểm chứng bởi những người khác ở địa vị hoàn toàn khách quan.
Thực chất vấn đề Đức Đạt Lai Lạt ma nêu lên cũng chính là vấn để hóc búa nhất của PSI ─ làm thế nào để kiểm chứng những ư thức nẩy sinh trong bộ năo của những nhà ngoại cảm? Làm thế nào để biết ư thức thực sự diễn ra như thế nào ở các “vị thánh chữa bệnh”? Không có cách nào cả. Chúng ta chỉ có thể xác nhận đó là những hiện thực, những sự thật diễn ra trước mắt, để tin rằng đó là những phép lạ có thật. Đọc cuốn “Nguyễn Đức Cần, nhà văn hóa tâm linh” của Nguyễn Phúc Giác Hải và Nguyễn Tài Đức, do NXB Văn hóa Thông tin xuất bản năm 2013, một người có thể chất tinh thần lành mạnh không thể không tin đó là sự thật. Cá nhân tôi, tôi hoàn toàn tin đó là sự thật, v́ hai lư do: một, tôi có người nhà được cụ Cần chữa bệnh; hai, bản thân tôi có những trải nghiệm tâm linh nhất định, đủ để tôi tin vào sự tồn tại của những thế giới tâm linh khác và cao hơn thế giới vật chất của chúng ta. Tuy nhiên, niềm tin của cá nhân tôi và của hàng ngh́n hàng vạn người khác không đủ để trở thành một phát biểu ở “ngôi thứ ba” mà khoa học yêu cầu. Đức Đạt Lai Lạt Ma viết:
“Tôi biết rằng có sự hoài nghi sâu sắc về các phương pháp ngôi thứ nhất trong khoa học hiện đại” (trang201, sách đă dẫn).
Nhưng ngài cho rằng ĐĂ ĐẾN LÚC khoa học phải t́m cách dung nạp những trải nghiệm chủ quan, nếu thực sự muốn khám phá bí ẩn của ư thức, bởi bản thân ư thức mang tính chủ quan:
“Do đó một nghiên cứu khoa học toàn diện về ư thức phải dung chứa cả hai phương pháp ngôi thứ ba và ngôi thứ nhất” (trang 199, sách đă dẫn).
Đây thực sự là một lời mời gọi khoa học nhưng đồng thời là một thách thức quá lớn đối với khoa học, bởi nếu khoa học chấp nhận “ngôi thứ nhất” th́ khoa học không c̣n là khoa học nữa, ít nhất là khoa học theo cách hiểu như hiện nay.
Riêng tôi, từ lâu tôi đă cho rằng có thể tiệm cận tới thế giới kỳ diệu của ư thức bằng một phương pháp hoàn toàn khác, đó là phương pháp của logic toán học, mà Kurt Gödel từng gợi ư. Để đi theo hướng này, nhà khoa học phải xây dựng cho ḿnh một hệ tiên đề. Từ đó nêu lên các định lư, tập hợp các định lư sẽ tạo nên một lư thuyết logic về ư thức. Nếu lư thuyết này phù hợp với các hiện tượng thực tế liên quan đến ư thức th́ nó sẽ được chấp nhận; ngược lại nếu mâu thuẫn với thực tế th́ sẽ bị loại bỏ.
Việc gán cho ư thức bản chất vật chất, như năng lượng hoặc một trường vật chất nào đó, sẽ gặp phải hai khó khăn lớn: Một, phải chỉ ra dạng vật chất đó, hoặc phải cân đong đo đếm được dạng vật chất đó; Hai, việc cố gắng giải thích bản chất vật chất của ư thức là mâu thuẫn với logic nhận thức.
Thật vậy, theo logic nhận thức mà Planck và Schrödinger đă nói (mục 2 ở trên), phải có ư thức th́ mới nhận biết được vật chất, do đó việc quy giản ư thức thành vật chất là một quy tŕnh ngược, trái với logic nhận thức!
Tóm lại, khái niệm ư thức phải được coi là một tiên nghiệm, không cần giải thích. Nhưng từ tiên nghiệm đó có thể nêu lên các tiên đề về sự hiện hữu của ư thức, làm cơ sở cho một hệ thống lư thuyết logic về ư thức. Cụ thể, tôi xin nêu lên Hệ tiên đề về ư thức của sự sống gồm 3 tiên đề sau đây:
Tiên đề 1: Ư thức là một dạng thông tin đặc biệt mà chỉ sự sống mới có, được gọi là thông tin ư thức (conscious information).
Tiên đề 2: Tồn tại một Trung Tâm Ư Thức trong vũ trụ.
Tiên đề 3: Bộ năo là một cỗ máy sinh học có khả năng thu nhận, lưu trữ, xử lư và phát ra thông tin ư thức.
Nếu bạn hiểu Lư thuyết Thông tin, bạn sẽ dễ dàng chấp nhận Tiên đề 1. Thật vậy, theo Lư thuyết Thông tin, thông tin là một hiện thực phi vật chất, nhưng nó biểu lộ thông qua vật chất. Hoàn toàn tương tự, ư thức cũng là một hiện thực phi vật chất, và cũng biểu lộ thông qua vật chất.
Nếu bạn hiểu ư kiến của Planck và Tesla như đă dẫn ở mục 2, bạn cũng sẽ dễ dàng chấp nhận Tiên đề 2. Xin nhắc lại, Planck nói: “Mọi vật chất bắt nguồn và tồn tại chỉ v́ một lực… Chúng ta phải thừa nhận đằng sau lực này tồn tại một Trí Tuệ có ư thức và thông minh. Trí Tuệ này là cái sinh ra mọi vật chất”.
Tesla cũng nói: “Bộ năo của tôi chỉ là một điểm tiếp nhận. Trong Vũ trụ tồn tại một trung tâm mà từ đó chúng ta nhận được tri thức, sức mạnh, cảm hứng.”
Nếu bạn từng so sánh bộ năo với computer, bạn cũng sẽ dễ dàng chấp nhận Tiên đề 3. Vật chất của bộ năo giống như phần cứng; ư thức lưu hành trong bộ năo giống như thông tin lưu hành trong computer.
Với hệ tiên đề đó, tôi cho rằng có thể giải thích được hầu hết các hiện tượng về ư thức của sự sống, từ những hiện tượng thông thường ta gặp hàng ngày đến những chuyện khó hiểu như bí mật của các giấc mơ, từ những thiên tài khoa học như Einstein, Gödel… đến những vị thánh chữa bệnh như Bruno Gröning, Nguyễn Đức Cần,…
Thí dụ, Eisnstein giỏi hơn chúng ta không phải v́ ông có bộ năo tốt hơn chúng ta, như khoa học thần kinh muốn chứng minh, mà v́ ông nhận được những thông tin đặc biệt từ Trung Tâm Ư Thức trong vũ trụ. Những nhà ngoại cảm hay các “vị thánh chữa bệnh” cũng vậy. Đó là lư do để ông thánh Bruno Gröning nói với những bệnh nhân được ông chữa lành rằng “Đừng cám ơn tôi, hăy cám ơn Thượng Đế”. Thượng Đế mà ông nói chính là Trung Tâm Ư Thức đă nói ở Tiên Đề 2.
Nếu ai chất vấn tôi rằng làm thế nào mà kiểm chứng các tiên đề nói trên, tôi xin trả lời rằng: Tiên đề là những mệnh đề được xây dựng trên niềm tin. Bất kỳ một lư thuyết khoa học nào cũng đều xây dựng trên một hệ tiên đề dựa trên niềm tin ban đầu. Toán học có hệ tiên đề Euclid, hệ tiên đề Hilbert,… Vật lư cũng có những tiên đề của nó, chẳng hạn, vũ trụ là đồng nhất và đẳng hướng, các định luật vật lư đúng trong mọi thời điểm của lịch sử h́nh thành vũ trụ,…
Hệ tiên đề về ư thức của sự sống nêu trên có thể không đầy đủ. Điều này là b́nh thường. Theo Định lư Bất toàn của Gödel, không tồn tại một hệ tiên đề nào vừa đầy đủ vừa phi mâu thuẫn. Vậy điều quan trọng nhất là ở chỗ lư thuyết xây dựng từ hệ tiên đề nói trên có phù hợp với các sự kiện thực tế về ư thức hay không. Hiện c̣n quá sớm để nói điều này. Phải có thời gian nghiên cứu và kiểm chứng mới có thể có một kết luận chính xác. Nhưng trực giác gợi ư cho tôi thấy hệ tiên đề nói trên là hợp lư và hữu dụng để xây dựng nên một lư thuyết cho phép giải thích được phần lớn những hiện tượng về ư thức của sự sống. Vậy xin tạm thời bỏ ngỏ việc kiểm chứng tính hợp lư và hữu hiệu của hệ tiên đề nói trên cho những nghiên cứu tiếp theo.
Để kết, xin giải thích đôi lời tại sao tại sao nên áp dụng phương pháp tiên đề để nghiên cứu ư thức.
V́ vấn đề ư thức thực chất là vấn đề siêu h́nh (phi vật chất), không thể dùng khoa học vật chất để khám phá một đối tượng siêu h́nh. Chỉ có thể áp dụng triết học và thần học để xử lư các vấn đề siêu h́nh. Tuy nhiên, triết học và thần học từ trước tới nay không được coi là khoa học chính xác, v́ thế chưa có độ thuyết phục cao. Liệu có thể có một thứ triết học hay thần học có tính chính xác cao như toán học hay các khoa học vật chất không?
consciousness-14Một lần nữa, Kurt Gödel, tác giả của Định lư Bất toàn nổi tiếng, nói cho chúng ta biết rằng CÓ! Có thể có một thứ triết học hoặc thần học chính xác như thế. Ông nói:
“Triết học, với tư cách một lư thuyết chính xác, nên áp dụng cho siêu h́nh học như Newton đă làm đối với vật lư. Tôi cho rằng có nhiều khả năng sự phát triển của một lư thuyết triết học như thế sẽ xảy ra trong ṿng 100 năm tới hoặc sớm hơn” (Philosophy as an exact theory should do for metaphysics as much as Newton did for physics. I think it is perfectly possible that the development of such a philosophical theory will take place within the next hundred years or even sooner) [10]
Ông cũng nói: “Tôn giáo cũng có thể được xây dựng như một hệ thống triết học dựa trên một hệ tiên đề” (Religion may also be developed as a philosophical system built on axioms). [10]
Bản thân Gödel đă áp dụng phương pháp tiên đề để chứng minh sự hiện hữu của Chúa ─ bài toán lớn nhất của triết học, thần học và siêu h́nh học nói chung [12]. Đó là một mô h́nh mẫu mực của việc sử dụng phương pháp tiên đề để giải quyết các bài toán của siêu h́nh học, như ông khuyên chúng ta nên làm.
Việc xây dựng Hệ tiên đề về ư thức của sự sống như tôi tŕnh bầy ở trên là một thử nghiệm phương pháp tiên đề theo lời khuyên của Gödel.
6/ Kết luận
Kết luận 1: Ư thức không phải là vật chất.
Như chúng ta đă thấy, Planck và Schrödinger đều cho rằng phải có ư thức mới nhận thức được vật chất. Đó là quy luật tự nhiên. Do đó dùng khoa học vật chất để giải thích ư thức là đi ngược lại quy luật tự nhiên.
Mặt khác, theo Định lư Bất toàn của Gödel, mọi hệ tự quy chiếu (self-referential system) ─ hệ tự ḿnh nói về ḿnh ─ đều dẫn tới mâu thuẫn (dao sắc không gọt được chuôi). Việc dùng khoa học để giải thích ư thức, tức là dùng ư thức để giải thích ư thức, chính là một hệ tự quy chiếu, do đó dẫn tới mâu thuẫn. Đó là lư do khoa học thất bại trong nỗ lực giải thích bản chất của ư thức.
Kết luận 2: Để hiểu biết rơ hơn về ư thức, phải đi ra ngoài thế giới ư thức của con người.
Thật vậy, theo Định lư Gödel, muốn phán xét một hệ A đầy đủ hơn, phải đi ra ngoài hệ A. Tức là phải sử dụng những tiên đề bổ sung không nằm trong hệ A. V́ thế, muốn hiểu rơ thế giới ư thức của con người, phải đi ra bên ngoài thế giới ư thức của con người. Làm thế nào để thực hiện điều đó?
Theo tôi, có 2 con đường.
Con đường thứ nhất là con đường của các bậc tu hành đắc đạo, các bậc thiền giả cao cấp, những yogi bậc thầy, những nhân vật có sứ mệnh đặc biệt,… Những vị này có thể thoát xác, đạt tới những cảnh giới khác, tức là thoát ra bên ngoài thế giới ư thức của con người, do đó chứng ngộ được những sự thật mà người b́nh thường không thể biết. Sự chứng ngộ này chính là những “nhận thức chủ quan” mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đề cập đến. Tuy nhiên, tôi cho rằng những nhận thức chủ quan này khó có thể chia sẻ với khoa học, v́ bản chất của khoa học chỉ thừa nhận những tri thức khách quan.
Con đường thứ hai chính là con đường Gödel đă nêu lên ─ con đường dùng triết học chính xác, dựa trên một hệ tiên đề được thừa nhận, từ đó suy ra những hệ quả logic tất yếu. Nhưng để triết học này có thể vượt ra ngoài thế giới ư thức của con người th́ hệ tiên đề phải chứa đựng những niềm tin vượt ra ngoài thế giới ư thức của con người. Đó là lư do Hệ tiên đề về ư thức của sự sống do tôi nêu lên ở mục 5 chứa đựng những niềm tin vượt ra bên ngoài ư thức thông thường của con người, cụ thể là niềm tin vào sự tồn tại của Trung Tâm Ư Thức trong vũ trụ (như Planck, Tesla đă tin).
Với Hệ tiên đề đó, cùng với lư thuyết thông tin và khoa học computer, chúng ta có thể xây dựng nên một Lư thuyết về Ư thức của Sự sống rất phong phú
nhiet dien gay o nhiemNgày nay, một vấn nạn trầm trọng mà trái đất và mọi loài đang gánh chịu, đó là hiện tượng nóng lên của trái đất, kèm theo đó là thiên tai, băo lụt thất thường, nước biển dâng, đất đai bị khô cằn… Nguyên nhân là do con người tác động vào trái đất, làm phá vỡ cân bằng sinh thái, phá vỡ hiệu ứng nhà kính, mà vốn trước đây, nhờ hiệu ứng đó được cân bằng mà con người tồn tại.
Khí nhà kính là những khí có khả năng hấp thụ các bức xạ sóng dài (hồng ngoại) được phản xạ từ bề mặt trái đất khi được chiếu sáng bằng ánh sáng mặt trời, sau đó phân tán nhiệt lại cho trái đất, gây nên hiệu ứng nhà kính. Các khí nhà kính, chủ yếu là carbon dioxide (CO2 ), methane và hơi nước, giúp giữ nhiệ t tỏa ra từ mặ t trời chiếu xuống trái đất và có công dụng như tấm màn nhiệ t phủ quanh trái đất, với nhiệt độ tương đối ổn định cho mọi loài sống được. Nhưng với việ c sử dụng ngày càng nhiều năng lượng hóa thạch (than đá, dầu, khí…) và tàn phá rừng, con người đang thải ra nhiều khí CO2 và các khí khác vào khí quyển, vượt quá mức cần thiết, chúng tiếp thu sức nóng từ ánh sáng mặt trời, phản xạ và phát tán sức nóng, khiến nhiệ t độ trái đất tăng lên.
Để ngăn chặn đà suy thoái của trái đất, các chính phủ khắp thế giới đă trải qua nhiều lần họp bàn, và đă ra đời Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu năm 2015 (cho dẫu chính quyền Mỹ mới đây rút lui, tuy nhiên, rất nhiều bang của Mỹ, 300 thành phố, hơn 1.200 doanh nghiệp, khẳng định vẫn tiếp tục tuân theo Hiệp định Paris đă kư kết)1 .
Biện pháp cụ thể và nghe có vẻ đơn giản là giảm thải khí CO2 ra không khí. Về phía quản lư nhà nước, cần có sự chuyển đổi từ sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang các dạng năng lượng khác (gió, mặt trời…), gia tăng phủ xanh đồi núi trọc, khuyến cáo người dân sử dụng phương tiện đi lại ít tốn năng lượng, đi xe đạp, xe buưt…
Ngày nay, các phương tiện di chuyển và các công cụ cơ giới, các tiện ích cá nhân và gia đ́nh, đă phát ra quá nhiều khí thải, nhất là ở các đô thị lớn. Chuyện này, ai cũng tham dự vào, trực tiếp hay gián tiếp, tuy nhiên chắc chắn có sự khác biệt lớn giữa ông nhà giàu, nhà cao cửa lớn, sử dụng tiện nghi nhiều và hiện đại, đi xe riêng… với ông nhà nghèo, không sử dụng bao nhiêu máy móc, nhà ở tuềnh toàng, sử dụng phương tiện giao thông công cộng hoặc phương tiện xe hai bánh. Phải chăng người càng giàu th́ càng làm vẩn đục trái đất?
Có lẽ đúng thế, nhưng cũng cần nói thêm, và chỉ đề cập lănh vực di chuyển.
Một tài liệu được công bố ngày 2/11/2014 tại Copenhague (Đan Mạch) bởi Nhóm liên chính phủ của những chuyên gia về biến đổi khí hậu (Groupe intergouvernemental d’experts sur l’évolution du climat) lặp lại chứng cứ đă biết từ lâu: nếu không chống lại sự rối loạn khí hậu, đến kỳ hạn nào đó, con người phải trả giá đắt. Sự thách đố khởi đầu bằng tác động vào lănh vực chuyên chở, một lănh vực chịu trách nhiệm thải ra 23% lượng khí thải CO2 do sự đốt cháy những nhiên liệu hóa thạch, trên toàn thế giới. Những ai đi lại ngày càng nhiều, vào mọi lúc và luôn luôn nhanh, nên suy nghĩ để mà dè dặt khi đi lại như thế.
Trên thực tế, ai đă phát thải khí CO2 khi đi đây đi đó? Một khảo sát của Trung tâm nghiên cứu và giám định rủi ro, môi trường, chuyển động và quy hoạch (Centre d’études et d’expertise sur les risques, l’environnement, la mobilité et l’aménagement, gọi tắt là Cerama) - một tổ chức thuộc Nhà nước Pháp - trả lời: đó là “những người đỗ đạt bằng cấp cao”. Khảo sát dựa trên 20.000 cuộc trao đổi cá nhân thực hiện năm 2008, trong khuôn khổ cuộc điều tra quốc gia “chuyên chở và di chuyển”, đă phân tích những kết quả của 125.000 chuyến đi hàng ngày và 18.000 cuộc du lịch từ 80km trở lên, không kể cách thức vận chuyển.
Tại Pháp, 60% lượng khí thải là do 20% số người dân Pháp thải ra. Ông Damien Verry của Phân viện “Sự di chuyển bền vững” của Cerama, trong một tài liệu phổ biến tại hội thảo ngày 14/10/2014 ở Paris, do tổ chức Hợp tác để phát triển và cải thiện chuyên chở đô thị và siêu đô thị, đă cho biết: “Những vận chuyển sản sinh 26% trong số 500 đến 700 tấn tương đương CO2 thải ra hàng năm tại Pháp, và tỉ lệ đó càng tăng lên. Nói rơ là 20% số người dân Pháp chịu trách nhiệm về 60% lượng thải đó.” Cerama đă phác họa chân dung tiêu biểu của “người phát thải lớn” này: Đó là “người giàu, đỗ đạt bằng cấp cao, năng động, có một hay nhiều xe hơi, sống trong mái ấm gia đ́nh có một hoặc hai con, trong một vùng nông thôn hoặc ở ngoại vi thành phố, xa những phương tiện công cộng, trường học và khu thương mại”.
Nhưng chân dung như thế thật ra che giấu nhiều nhóm người khá khác biệt, đó là.
- Những người di chuyển như con thoi, chiếm 13% dân số, chịu trách nhiệm thải 30%. Sống trong những siêu đô thị và có thu nhập bảo đảm rất tiện nghi, họ thải nhiều khí CO2 do di chuyển nhiều hàng ngày, nhưng ít đi du lịch.
- Những “nhà du lịch lớn”, chiếm 1,6% dân số, thải 10% lượng khí thải do di chuyển. Đó là những cặp vợ chồng năng động, đỗ đạt học vị cao, sống ở trung tâm thành phố, trong số này cũng kể thêm những người về hưu giàu có. Nếu như họ biết giới hạn khí thải do hiểu biết hiệu ứng nhà kính khi đi hàng ngày, th́ chính những người du lịch này chịu trách nhiệm về lượng thải lớn do đi đường dài.
- Một loại thứ ba “siêu di động”, thể hiện những đặc điểm của hai loại trên: đỗ đạt bằng cấp cao, năng động, thoải mái, phương tiện cơ giới hóa và sống trong những vùng ngoại ô giàu có ở những thành phố chính. Họ chiếm khoảng 5% dân số nhưng phát ra đến 19% lượng khí thải toàn bộ.
Tổ hợp những dữ kiện trên cho phép Cerama tách ra điểm chung chính của những “người thải lớn”, đó là: đỗ đạt bằng cấp cao và thu nhập có thể không cao (người ta dễ lầm tưởng thu nhập cao th́ nhất thiết phát thải lớn). Nói cách khác, những người càng trải qua những năm dài trên ghế đại học hay những ngôi trường lớn, th́ càng có khuynh hướng di chuyển làm gia tăng hiệu ứng nhà kính. Có thể nói thêm rằng, người ta càng có nhiều phương tiện để ư thức nguy cơ phát thải CO2 , th́ họ lại càng phát thải nhiều. Một nhà giáo đại học ở thành phố Nice (Pháp), Yannick Rumpala, đă đặt câu hỏi công khai vào năm 2009: “Những nhà nghiên cứu phải chăng nên bớt đi dự hội nghị?”.
Một nhà nghiên cứu khác là giáo sư nổi tiếng Hervé Philippe làm việc tại Viện Hóa Hữu cơ thuộc Đại học Montréal (Canada) đă đề cập rơ hơn về vấn đề này. Ông đă thử định lượng tác động của ông vào môi trường năm 2007 và cho biết ông đă thải khí CO2 ít nhất hai lần cao hơn mức phát khí thải CO2 trungb́nhcủa người Mỹ. Từ đó, ông muốn nói với giới nghiên cứu khoa học rằng: Hăy giảm bớt số hội nghị, bằng cách thay thế bằng những lần gặp gỡ ít thường xuyên hơn, nhưng mỗi lần dài ngày hơn, và dùng thường xuyên hơn những hội nghị video (videoconference) hay tổ chức hội nghị “ảo” (conference “virtuelle”).
Như thế, “trước hết đó là đặc điểm của những cá nhân, đặc biệt là bằng cấp và hoạt động của họ, giải thích chuyện phát ra khí thải liên quan đến vấn đề đi lại” như phân tích của ông M. Verry. Ông cũng đă phản bác “hiệu ứng ḷ nướng” như các nhà xă hội học đă từng nêu như thế này: “những cư dân siêu đô thị, lên xe mỗi buổi sáng, không phát thải nhiều cho bằng cư dân ở trung tâm thành phố, là những người đi lại mọi ngày bằng phương tiện công cộng, họ cũng đáp tàu đi dự những hội thảo hay các cuộc hẹn công việc, không kể đi máy bay cuối tuần. Sự di chuyển ở trung tâm thành phố phát ra sức nóng từ khí thải: đó là hiệu ứng ḷ nướng. C̣n những cư dân siêu đô thị, mỗi lần kết thúc đi lại hàng ngày, họ không chuyển động nữa, họ ở yên quanh ḷ nướng”.
Theo những tính toán của M. Verry, mặc dầu hiệu ứng ḷ nướng, “trung b́nh một cư dân siêu đô thị phát thải nhiều khí CO2 trong việc di chuyển hơn là cư dân ở trung tâm thành phố”.
Những khảo sát, những tính toán lạnh lùng nói trên, tiếc thay, lại đả động đến những nhà khoa học, những vị khoa bảng, những người cống hiến cuộc đời cho tri thức nhân loại. Nhưng chỉ là tiếc cho những con người khoa học, trí thức thực thụ, chứ đối với không biết bao nhiêu vị cũng vét-tông cà-vạt như ai, đến dự hội nghị, hội thảo khoa học để chẳng thu hoạch được ǵ v́ thiếu tŕnh độ, th́ tội nghiệp cho trái đất thêm nóng, thêm vẩn đục. Nhưng biết làm sao được, chỉ một chút mặt trái của chuyện họp hành và hội thảo cũng cần thiết để họ phải xem xét lại - nếu đúng như thế - sao cho lương tâm không áy náy v́ chuyện khí thải, một vấn đề mà rồi ai ai cũng phải góp phần làm ngăn chặn đà nóng lên ngôi nhà chung của nhân loại.
Ghi chú:
1. Theo Quỳnh Trang, Việt Nam cần chuyển đổi năng lượng cấp bách, Tuổi Trẻ cuối tuần, ngày 5-11-2017.
Tài liệu tham khảo:
1. Olivier Razemon, “Plus on est diplômé, plus on émet de CO2 en se déplaçant”, transport.blog.lemon de.fr, 3/11/2014
2. Trang web: https://yannickrumpala.wordpress. com/2009/09/01/chercheurs-et-scientifiques-doivent-ilsfaire-moins-de-conferences/.
3. Các trang mạng khác.
Cao Huy Hóa
Văn Hóa Phật Giáo số 300 ra ngày 1-7-2018
Thư Viện Hoa Sen
Tu tâm dưỡng tánh là nơi đời mà hành đạo, nơi thân mà giữ đạo, nơi ư mà niệm đạo, nơi khẩu mà hợp đạo, nơi cơi trần mà nhập đạo, nơi cơi pháp mà xuất thế đạo.
Trần gian là cơi dục giới trong ba cơi là cơi dục giới, cơi sắc giới và cơi vô sắc giới. Trần gian cũng là cơi tạm v́ thời gian thấm thoát thoi đưa, có c̣n được mất, phút chóc vô thường nên trong ba cơi th́ cơi trần gian dục giới có thọ mạng thời gian ngắn nhất so với hai cơi c̣n lại. Đó là nhược điểm nhưng cũng là ưu điểm đối với người tu hành.
V́ cơi trần có thời gian thọ mạng ngắn là vô thường nên tâm cũng vô thường, v́ tâm vô thường thân, khẩu, ư, niệm đều vô thường, cho đến tất cả pháp có h́nh sắc hay không có h́nh sắc, âm thanh hay ngôn ngữ h́nh tượng đều vô thường. Nhưng trong cái vô thường đó có một cái hữu thường bất biến đó là tánh chân như hay tâm chân như hay Phật tánh là tánh giác ngộ trong mỗi chúng sanh.
Tánh giác ngộ là sự sáng rơ, sự thấu suốt, sự rơ biết các pháp vô thường, khổ, không, vô ngă, tịch diệt. Các pháp đă không thật th́ cái ta tổng hợp từ duyên các pháp cũng không chắc thật, cái ta không thật th́ cũng không có thọ, ái, thủ hữu dẫn tới lăo tử vô thường bởi cái gốc cội vô minh.
Trong thập nhị nhân duyên từ vô minh tới lăo tử th́ thọ, ái là nhận vào và quyến luyến là gốc dẫn tới luân hồi sinh diệt. Sinh diệt từ ư niệm tới hành động hành vi để từ đó nuôi dưỡng cái ta không thật trong vô minh không sáng tỏ che mờ cái tánh sáng suốt rơ biết. Vậy trong thập nhị nhân duyên để phá cái vô minh th́ ái là cái cần phá trong mắc xích đó đầu tiên. Ái là sự yêu mến ưu thích, nhưng làm chủ cái ưu thích là ở thức.
Có tất cả tám thức, trong đó sự suy nghĩ nhận biết nằm ở ư thức. Nên tu là chuyển ư thức nhận biết nghĩ suy thành ư nghĩ tốt, ư niệm tốt sau đó dần dần thay đổi từ ư tới thân khẩu cho hợp đạo. Vậy đạo là thân khẩu ư chơn chánh trong cái tâm thanh tịnh, yên b́nh. Mà gốc đạo là ở nơi tâm tánh.
Tu đạo là tu tâm, dưỡng tánh để đưa tâm yên nguyên không tịch là chơn như Phật tánh về trạng thái thanh tịnh vốn có ban đầu, để từ đó nghiệp giảm hóa, phước đầy đủ, đức tṛn sáng ngơ hầu nhập thể kiến tánh giải thoát. Tu đạo không đâu xa là tu nơi tâm ḿnh, đảnh lễ quy y Phật là quay lại tâm tánh ḿnh mà thủ giữ đạo, là nơi tâm tánh chơn thật mà hành đạo, là nơi tâm mà sống đạo, là nơi tánh mà giải thoát đạo.
Đầu năm Canh Tư này có khá nhiều biểu hiện bất tường trên khắp hành tinh, chỉ hi vọng là.. ''tiền Hung th́ hậu Kiết''. Chúng ta, những người con Phật càng thấy rơ thêm về luật Nhân Quả vận hành trên từng thân phận con người, thân phận của mỗi quốc gia thật là chính xác, và cũng hiểu sâu sắc thêm một điều rằng: Quả báo có thể đến muộn nhưng đừng v́ thế mà cho là không có quả báo.
Thái độ tích cực trong năm mới này của Phật tử chúng ta là nên cố gắng tinh tấn tu tập, làm nhiều Phước thiện rồi hồi hướng cho nhân gian, cho Pháp giới chúng sinh, đó là cách thương đời, thương người, đó là cách thể hiện ḷng Từ bi thiết thực nhất. Xin bạn đừng nghĩ rắng sự nổ lực của từng cá nhân là không đáng kể v́ '' góp gió sẽ thành băo '', sẽ gây ảnh hưởng, xua tan ác nghiệp của chúng sanh..
- Đức Phật dạy: ''Cái này sinh th́ cái kia sinh. Cái này diệt th́ cái kia diệt''. Chúng sinh và vạn vật sống trên tinh cầu này là tương quan mật thiết, cộng sinh cộng tồn với nhau, người khác hạnh phúc cũng ảnh hưởng đến ta, mà người khác đau khổ cũng chi phối đến ta. Chăm sóc tốt cho ḿnh cũng chính là chăm sóc tốt cho người, thương yêu người cũng chính là thương yêu bản thân ḿnh vậy.
Mời bạn đọc lại một đoạn Kinh:
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ kheo:
Các loài hữu t́nh nào, này các Tỷ kheo, vào buổi sáng, thân làm việc thiện, nói lời nói thiện, ư nghĩ điều thiện, các loài hữu t́nh ấy, này các Tỷ kheo, có một buổi sáng tốt đẹp.
Các loài hữu t́nh nào, này các Tỷ kheo, vào buổi trưa, thân làm việc thiện, nói lời nói thiện, ư nghĩ điều thiện, các loài hữu t́nh ấy, này các Tỷ kheo, có một buổi trưa tốt đẹp.
Các loài hữu t́nh nào, này các Tỷ kheo, vào buổi chiều, thân làm việc thiện, nói lời nói thiện, ư nghĩ điều thiện, các loài hữu t́nh ấy, này các Tỷ kheo, có một buổi chiều tốt đẹp.
'' Nguyện ngày an lành đêm an lành...'' cùng khắp cả .
- Mô Phật- Như Nhiên chuẩn bị xuất hành đầu năm,
Chùa Online Thích Tánh Tuệ sẽ đóng cửa một thời gian.
Kính chúc cả chùa luôn sức khỏe, tinh tấn, an lành trong Hồng ân Tam Bảo nha!..
''Xin chào nhau giữa con đường
Mùa Xuân phía trước miên trường phía sau..''
BG
“Hóa giải nạn dịch virus Corona”: vẫn có người tin!
“Niềm tin phải có căn cứ”
Hôm Chủ Nhật, ngày 26 tháng 1, tức Mồng Hai Tết Canh Tư, facebook được cho là thuộc quyền quản lư của sư trụ tŕ Thích Trúc Thái Minh đăng tin về khóa tu tập hồi hướng hóa giải nạn dịch virus corona. Chương tŕnh kêu gọi Phật tử tinh tấn tu tập 49 ngày để hồi hướng cho nạn dịch sớm được tiêu trừ với thông tin chi tiết là phúc báu tu tập này sẽ được hồi hướng cho các nhà quản lư, các nhà khoa học, các nhân viên y tế và tất cả những ai đang nỗ lực trong công cuộc pḥng ngừa, khống chế và dập tắt dịch Virus Corona tại Việt Nam cũng như trên thế giới. Phúc báu tu tập này cũng được hồi hướng cho tất cả những bệnh nhân đang điều trị có thêm năng lượng trợ duyên tích cực cho việc điều trị bệnh và hồi hướng cho tất cả những bệnh nhân quá văng sớm được sinh về cảnh giới an lành.
Ngay tối hôm đó, trên trang web chuabavang.com.vn và trang facebook "Thích Trúc Thái Minh" cùng lúc phát trực tiếp chương tŕnh "Tu tập hồi hướng hóa giải nạn dịch virus corona". Buổi thuyết giảng của trụ tŕ chùa Ba Vàng có hàng trăm người theo dơi, trong đó có đông thanh niên trẻ và các sư thầy.
Một phật tử có pháp danh Hạnh Ngộ từ Tây Ninh cho biết Cô không tin kêu gọi của trụ tŕ chùa Ba Vàng, nơi từng bị báo chí trong nước lật tẩy hồi năm ngoái về cái gọi là ‘trục vong oan gia trái chủ’:
“Em không tin. Cái đó là mê tín dị đoan, là một cách kiếm tiền của sư thầy thôi. Chùa Ba Vàng từng có vụ ‘oan gia trái chủ’ bị báo chí đăng hồi năm ngoái ai mà tin nữa!?”
Một phật tử khác ở Sài G̣n có pháp danh Diệu Tâm cũng đưa ư kiến về việc khả năng sư thầy có thể hóa giải nạn dịch do virus Corona gây ra:
“Làm ǵ có chuyện đó. Y học mới giải quyết được thôi chứ thầy chùa nào mà làm được! Đó là dịch bệnh th́ phải y học can thiệp. Niềm tin phải có căn cứ như ở hiền gặp lành, làm việc tốt th́ gặp điều tốt, chứ bây giờ bệnh dịch đến lại kéo nhau đi gặp ông thầy giải bệnh th́ tôi không tin.”
Ông Nguyễn Văn Thành, Phó Chủ tịch UBND TP. Uông Bí cho báo chí trong nước biết, việc sư thầy Thích Trúc Thái Minh và chùa Ba Vàng đưa thông tin hóa giải dịch cúm Corona chưa được thành phố cho phép.
Trong khi đó phía chùa Ba Vàng giải thích rằng ‘mọi việc xảy ra trong cuộc sống đều có nguyên nhân, xuất phát từ việc làm của mỗi con người nên chùa tổ chức khóa lễ để hóa giải, cầu nguyện nạn dịch sớm được kiểm soát và không lây lan sang Việt Nam'.
Ngôi chùa này từng tổ chức những buổi lễ oan gia trái chủ, trục vong, gọi hồn với số người tham dự rất đông và số tiền thu được lên đến trăm triệu gây chú ư trên mạng xă hội cũng như báo chí chính thống vào dịp Tết năm ngoái.
Lúc bấy giờ Nhà nghiên cứu văn hóa, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện nói với RFA:
“Qua hiện tượng chùa Ba Vàng và một số chùa khác th́ tôi thấy là đạo Phật của Việt Nam đang đến hồi mạt pháp và làm rối loạn tâm linh, rối loạn ḷng người và báo hiệu một chương rất đen tối của lịch sử Phật Giáo Việt Nam.”
Theo kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019, số người theo Phật giáo ở Việt Nam là 4,6 triệu người, chiếm khoảng 4,8% dân số cả nước. Số theo tín ngưỡng dân gian hoặc không tôn giáo chiếm hơn 73%.
thap nhang
Một phụ nữ thắp hương trong chùa ngày Tết. Ảnh minh họa. RFA
Nghi thức văn hóa tâm linh của người Việt thường là giỗ chạp, cúng bái các ngày tết, mồng một, ngày rằm. Văn hóa tâm linh cho rằng ‘Ở hiền th́ gặp lành, ở ác th́ sẽ gặp quả báo”. Văn hóa tâm linh hướng con người sống khoan dung, hướng thiện.
Trái lại, mê tín dị đoan cho rằng người ta sống như thế nào không quan trọng, chỉ cần cầu khẩn với mâm cao, cỗ đầy, tiền cúng nhiều th́ người ta có thể cầu ǵ được nấy. Làm điều ác có thể hóa giải bằng lễ “dâng sao giải hạn”, không sợ quả báo...
Thực tế này được ghi nhận tại những lễ hội với từng đoàn người ś sụp khấn vái cầu may ở những đền chùa, miếu mạo khắp nơi trên cả nước.
Nhà nghiên cứu xă hội học, Tiến sĩ Phạm Quỳnh Hương cho rằng một khi xă hội không an toàn th́ người ta t́m chỗ bấu víu khác. Bà nói:
“Ở Việt Nam bây giờ người ta cầu khấn, cúng bái không hẳn chỉ do tín ngưỡng, mà họ muốn cầu cho một sự an toàn nào đó. Nếu một xă hội không bảo đảm an sinh, cuộc sống nhiều bấp bênh th́ mức độ người dân phải cầu, cúng, bấu víu vào một cái ǵ đó để có chút niềm tin sẽ càng tăng. C̣n nếu một xă hội an toàn hơn th́ mức độ cầu cúng của người dân chắc sẽ giảm xuống.”
Cũng cùng suy nghĩ, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện cho rằng chưa bao giờ các vấn đề về băng hoại giá trị truyền thống rạn nứt như bây giờ, ḷng tin của con người trong cuộc sống hiện tại không c̣n nữa cho nên người dân không t́m được sự an ủi, niềm tin nơi trần thế th́ họ phải t́m kiếm trong tôn giáo.
Nhà báo Vơ Văn Tạo từ Nha Trang từng nhận định:
“Đạo đức xă hội xuống cấp, người dân đă mất hết niềm tin vào ban lănh đạo đất nước, trong khi nhu cầu cuộc sống luôn phải có chỗ để gửi gấm niềm tin th́ họ phải đặt niềm tin chỗ khác. Đó cũng là nhu cầu tự nhiên thôi.”
RFA tiếp xúc với một số người tự nhận là Phật tử cũng thừa nhận họ tin rằng bệnh tật có thể được hóa giải bằng tâm linh miễn họ có niềm tin thật sự và không cần sự can thiệp của y khoa. Họ cho rằng đây là một môn khoa học huyền bí nên họ không giải thích được mà họ tin vào những ǵ sư thầy thuyết giảng.
Trong cuốn ‘Believing in Magic: The Psychology of Superstition’, tác giả Stuart Vyse viết rằng, “gốc rễ của mê tín dị đoan là sự thiếu kiểm soát. Con người luôn muốn được kiểm soát tốt hơn trong các hoàn cảnh bất an. Khi gặp điều ǵ đó quan trọng nhưng không chắc chắn, mê tín dị đoan sẽ được dùng để lấp vào khoảng trống sợ hăi và làm con người cảm thấy tốt hơn”.
Không ít lần được nghe Đức pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thích Phổ Tuệ răn dạy đệ tử, Phật tử, tôi thấy ngài luôn lưu ư người xuất gia tu hành không được lạm dụng bát gạo, đồng tiền tín thí thập phương.
thichphotue-10Chùa to, giảng đường đẹp, pḥng ốc sang dù sao cũng chi là phương tiện. C̣n linh hồn của nó là thầy và tṛ trong quan hệ tu tập và hành tŕ. (Đức Pháp Chủ Đại Lăo HT Thích Phổ Tuệ)
Người đứng đầu Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đức Pháp chủ Thích Phổ Tuệ, năm nay đă 103 tuổi, ở chùa tu hành 96 năm, là bậc chân tu quảng bác, được các đệ tử, phật tử kính nể, ngưỡng vọng, đă tiếp kiến, đàm đạo với nhiều vị lănh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, trong đó có Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng.
Nhà sư làm ruộng trí tuệ uyên thâm
Mấy ai biết rằng một đại lăo ḥa thượng, Đức Pháp chủ đă suốt đời ḿnh sống thanh bần lạc đạo, tụng kinh viết sách, tu tập dưới mái chùa làng khiêm tốn, thanh tịnh. Đó là chùa Giáng - Viên Minh tự (huyện Phú Xuyên, Hà Nội), nơi vị pháp sư nổi tiếng Nguyên Uẩn đă sáng lập năm 1900, là một trong ba trung tâm truyền dạy Phật giáo lớn nhất thời đó.
Đến năm 1961, người kế thừa pháp sư Nguyên Uẩn là ḥa thượng Thích Quảng Tốn viên tịch, hoà thượng Thích Phổ Tuệ tiếp nối làm trưởng sơn môn.
"Thưa ḥa thượng, khi đă được suy tôn làm pháp chủ, tại sao ḥa thượng vẫn ở ngôi chùa nhỏ tại một làng quê yên b́nh này", tôi hỏi. Đức Pháp chủ trả lời: "Tôi ở đây là để giữ ǵn nghiệp tổ để lại. Gần trăm năm xuất gia tu hành, tôi cũng chưa từng đến nơi phồn hoa đô hội, chưa xuất ngoại lần nào, quen ở nơi vắng vẻ".
Chưa từng ra nước ngoài, không thích nơi phồn hoa đô hội, nhưng Đức Pháp chủ lại tự học kinh phật đến thông tuệ, góp công hoàn thành nhiều công tŕnh nghiên cứu, dịch thuật Phật học lớn như Đại từ điển Phật học, Đại tạng kinh Việt Nam, Phật học là tuệ học…
Năm 1987, Đức Pháp chủ đương thời đă phái 3 vị cao tăng, trong đó có ḥa thượng Thích Kim Cương Tử, đến vời ḥa thượng Thích Phổ Tuệ giữ chức sắc của giáo hội và chủ tŕ hiệu đính Đại Tạng Kinh Điển.
Tṛ chuyện với Đức Pháp chủ, tôi chưa từng thấy ông coi ḿnh là người đứng trên các đệ tử, phật tử. "Tôi là người cao tuổi, xuất gia lâu năm nên được các chư tăng ủy thác vào ngôi Pháp chủ. Chứ ngôi vị Pháp chủ theo nghĩa cứu cánh tuyệt đối th́ chỉ có một vị có đầy đủ phúc đức, trí tuệ để ǵn giữ, đó là Đức Thích Ca Mâu Ni", ông nói.
Bao giờ ông cũng nhận ḿnh là một nhà sư làm ruộng, bởi gần như cả cuộc đời (cho đến lúc già yếu), ông cùng các đệ tử tự cày ruộng, cấy lúa nuôi thân, chuyên tâm tu tập.
"Tôi sống đời hơn trăm tuổi, đă gần trăm năm xuất gia theo nghiệp là tu hành, nuôi thân chủ yếu bằng nghề làm ruộng, chưa từng dám lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương. Khi nào chư Phật, chư tổ cho gọi th́ về thôi", ông tâm sự.
Phúc cứ lạm hưởng sẽ thành họa
Không ít lần được nghe Pháp chủ răn dạy, tôi thấy lời ông không trừu tượng cao xa, mà gần gũi dung dị, dễ hiểu, dễ thấm nhuần. Có lần, một phật tử có người nhà mới mất, hỏi ông là khi an táng th́ nên chôn theo những ǵ, Pháp chủ giải thích rằng khi con người về thế giới bên kia th́ thân xác bị thối rữa, tại sao người ta lại đem tiền bạc, kinh sách quư chôn theo các xác thối rữa ấy? Không nên.
Các phật tử đến chùa Giáng - Viên Minh tự cũng được yêu cầu không cúng vàng mă, không đốt tiền vàng. V́ vậy, đây là một trong số ít cơ sở thờ tự Phật giáo không có khói lửa của hành vi đốt vàng mă.
Một lần khác, chúng tôi đến chùa Giáng, được gặp Đức Pháp chủ, có phật tử đi cùng tôi đă quỳ xuống xin được Đức Pháp chủ xoa đầu để được may mắn.
Đức Pháp chủ Thích Phổ Tuệ cười, xoa đầu phật tử nhưng giải thích rằng: nhiều phật tử đến đây xin tôi xoa đầu, tôi nói là xoa đầu không phải là ban thưởng, cũng không có nhiệm mầu, chỉ là chứng minh ḷng thành các phật tử đă đến đây, mong muốn tu tập theo con đường của Đức phật.
Phật tử khi tu tập hiểu được lời Phật dạy, sống và làm theo những lời khuyên dạy đó, từ bỏ được tham sân si trong thân tâm ḿnh, khi đó phật pháp mới linh diệu.
Khi được suy tôn làm Pháp chủ, năm 2012, trước nghi lễ đón rước lớn, ông nói rằng đó là nghi lễ "ngoài sức tưởng tượng" của ḿnh, và bày tỏ: "Chúng tôi đă làm được những ǵ trong cuộc đời tu hành của ḿnh mà dám nhận cái phúc lớn đó? Phúc là phải do tu mà có. Phúc th́ nên tích mà không nên tán. Phúc không tích thêm mà cứ lạm hưởng th́ rồi cũng hết. Khi đó phúc trở thành họa".
Đức Pháp chủ luôn răn dạy đệ tử rằng: Người xuất gia phải có trách nhiệm hiểu giáo lư của đạo Phật. Phải hiểu giáo lư của Phật tổ ra đời v́ lẽ ǵ, để cho người ta có thể chuyên tâm phụng đạo, giữ ǵn Phật pháp.
"Chúng ta xuất gia không phải để cầu an thân cho chính chúng ta, mà xuất gia để làm những điều Phật tổ dạy chúng ta, làm những điều ích nước lợi dân, cứu khổ độ mê. Cho nên đi học phải nhớ thực hành", ông nói.
Thế nên, khi bàn về cơ sở vật chất, ông chỉ nói ngắn gọn: "Chùa to, giảng đường đẹp, pḥng ốc sang dù sao cũng chỉ là phương tiện. C̣n linh hồn của nó là thầy và tṛ trong quan hệ tu tập và hành tŕ".
Tiếc thay, không ít phật tử mặc dù bước chân qua cổng chùa, cúi đầu trước Đức Phật, nhưng vẫn không hiểu được lẽ nhân duyên, nhân quả ở đời. Có những trường hợp mê tín mù quáng nên lễ bái quá nhiều, cung tiến xây chùa chiền phô trương đến chướng mắt, nhưng ngoài đời th́ tâm không nghĩ lẽ hay, tay không làm việc thiện.
Rồi cũng có không ít người xuất gia tu hành nhưng vẫn bị vật chất níu kéo, cũng thích ngồi xe sang, xài điện thoại xịn, đón rước hoành tráng.
Khi tṛ chuyện với Đức Pháp chủ, tôi cảm nhận được một trong những mong muốn lớn nhất của ông là làm sao biên soạn kinh Phật ra tiếng Việt thật dễ hiểu, dễ làm, để mọi phật tử thấm nhuần mà thực hành trong cuộc sống.
Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài có huyền kư rằng giáo pháp Phật sẽ trải qua 500 năm là thời Chánh pháp, 500 năm là thời tượng pháp và 1.000 năm là thời mạt pháp.
ducphatthichca_1Sau khi Đức Phật vắng bóng trên cuộc đời, trong khoảng thời gian 500 năm đầu, đa số các Tỳ-kheo c̣n giữ nguyên hạnh khất thực đầu đà theo tinh thần Phật dạy. Nhưng sang 500 năm thứ hai, chúng ta thấy Phật giáo Đại thừa phát triển rất mạnh, trong đó có những vị nổi danh như các vị Bồ-tát Mă Minh, Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân… Và cũng từ đó, Phật giáo bắt đầu mở rộng về hướng Trung Đông, Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, với nét đặc trưng là Phật giáo bản địa đă kết hợp với nền văn hóa truyền thống của các dân tộc mà tạo thành sự phát triển rực rỡ của Phật giáo Đại thừa.
Trong khi đó, Phật giáo gốc ở Ấn Độ lại nảy sanh t́nh trạng tranh chấp giữa Phật giáo và Bà-la-môn giáo, sau cùng dẫn đến sự chỉ trích giữa Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Đại thừa. Điều sai lầm này của giới Phật giáo Ấn Độ cho thấy ư nghĩa giải thoát trong đạo Phật đă bị lu mờ và đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho quần chúng Ấn Độ mất tín tâm, khiến họ quay về đạo gốc của họ là Bà-la-môn giáo đặt nền tảng trên sự cầu nguyện. Có thể nói kể từ đó, Phật giáo Ấn Độ suy yếu dần, cho đến khi các đạo quân của Hồi giáo tràn vào xâm chiếm Ấn Độ và tàn phá các Thánh tích Phật giáo, sát hại các Tăng sĩ Phật giáo.
Đến thế kỷ XIII đă xảy ra sự việc đúng với điều Đức Phật dạy trong kinh điển rằng sau khi Phật nhập diệt, có những nơi mà tên Tam bảo c̣n không được nghe đến, biết đến. Thật vậy, ở Ấn Độ, người dân Ấn hoàn toàn không biết ǵ về Phật giáo, trong lúc đó Phật giáo Đại thừa lại phát triển rất mạnh ở Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn quốc…
Đến khi đất nước Ấn Độ được độc lập, thoát khỏi sự đô hộ của người Anh, cố Thủ tướng Nerhu là một trong những người có công lớn đă quan tâm đặc biệt đến Phật giáo; v́ ngài nhận thấy rằng nguồn cội của Phật giáo phát xuất từ Ấn Độ, từ đó giáo pháp của Đức Phật đă lan tỏa đến nhiều quốc gia mà đến nơi nào Phật giáo cũng đă phát triển rực rỡ tạo thành nét đẹp đặc thù của văn hóa nơi đó, cũng như xây dựng được nếp sống hiểu biết, an vui, hạnh phúc cho đại đa số quần chúng, vậy mà người dân Ấn lại không hề biết đến Phật giáo, quả thực là đáng thương.
V́ vậy, năm 1956, cố Thủ tướng Nerhu đă tổ chức hội nghị thế giới tại New Delhi quy tụ các vị đại biểu của các nước theo Phật giáo để kỷ niệm 2.500 năm Đức Phật nhập diệt. Với sự kiện trọng đại này, cùng với đại biểu của các quốc gia bạn, Ḥa thượng Tố Liên đă đại diện cho Phật giáo Việt Nam sang Ấn Độ tham dự hội nghị và ngài trở về phổ biến tinh thần phục hồi Phật giáo Ấn Độ của cố Thủ tướng Nerhu đề xướng. Và đây chính là lần đầu tiên người dân Ấn Độ mới biết Phật giáo, mới biết Đức Phật đă ra đời ở đất nước họ từ 2.500 năm qua, mới biết sự hiện hữu của một đấng Toàn giác mà cả nhân loại phải kính ngưỡng. Và đây cũng là lần đầu tiên có một lễ quy y tập thể tổ chức tại Bồ Đề Đạo Tràng cho nửa triệu người Ấn thuộc thành phần cùng đinh được phước duyên sống theo lời dạy của Đức Phật.
Ư tưởng phục sinh Phật giáo Ấn Độ cũng từ đó được phát triển mạnh mẽ và rộng lớn, đă thúc đẩy Chính phủ Ấn Độ quyết định thành lập Đại học Phật giáo ở Nalanda. Ḥa thượng Thích Minh Châu lúc đó đă được Tổng hội Phật giáo Việt Nam gởi sang học ở Nalanda. 17 năm sau, tốt nghiệp học vị Tiến sĩ, ngài đă trở về Việt Nam và phát triển tinh thần giáo dục theo Nalanda để thành lập Đại học Vạn Hạnh.
Có thể nói một số du học Tăng khác từ các nước Thái Lan, Tích Lan… cũng xuất thân từ Đại học Nalanda ư thức được tinh thần ḥa hợp giữa các nước theo Phật giáo, để từ đó tạo thành ư thức rộng lớn trong việc đóng góp cho công cuộc phục hưng Phật giáo Ấn Độ. Và sự hồi sinh Phật giáo Ấn Độ càng trở nên mănh liệt hơn khi Chính phủ Ấn Độ quyết định cấp đất cho các quốc gia theo Phật giáo đến xây dựng các ngôi chùa tiêu biểu cho Phật giáo của từng quốc gia tại Bồ Đề Đạo Tràng. Đại diện cho Phật giáo Việt Nam là chùa Việt Nam Phật Quốc tự do Ḥa thượng Huyền Diệu xây dựng đầu tiên tại nơi này. Sau đó, các nước theo Phật giáo cũng tuần tự xây dựng các ngôi chùa chung quanh Bồ Đề Đạo Tràng.
Từ đó, khách hành hương khắp nơi trên thế giới mới t́m đến Bồ Đề Đạo Tràng và người Ấn mới nhận thấy đây là một cơ hội tốt đẹp cho họ tổ chức các chuyến du lịch văn hóa và tâm linh nơi đất Ấn; đồng thời, họ cũng tạo ra các sản phẩm mang tinh thần Phật giáo dùng làm kỷ vật lưu niệm cho khách hành hương. Ngày nay, số lượng khách hành hương đến chiêm bái Bồ Đề Đạo Tràng và các Thánh tích Phật giáo Ấn Độ ngày càng nhiều hơn. Hiện nay, người dân Ấn quy y theo đạo Phật tuy có gia tăng, nhưng cũng chỉ là một con số quá khiêm tốn so với một tỷ dân Ấn Độ.
Tóm lại, với tinh thần phục hưng Phật giáo tại đất nước Ấn Độ ngày càng phát triển, chúng ta kỳ vọng trong tương lai, Phật giáo Ấn Độ sẽ tạo được nhiều điều kiện thuận lợi cho người dân Ấn t́m được lời dạy quư báu của Đức Phật để áp dụng trong cuộc sống của chính họ, giúp họ thăng hoa được đời sống tâm linh và phát triển được đời sống vật chất.
Ngoài ra, thiết nghĩ Tăng Ni và Phật tử khắp nơi trên thế giới cần rút ra bài học kinh nghiệm quá đắt của Phật giáo Ấn Độ xưa kia, rằng không bao giờ cho phép chúng ta rời khỏi tinh thần giải thoát của Đức Phật; v́ xa rời nếp sống giải thoát là ngọn lửa châm ng̣i cho sự bùng nổ mọi việc tranh chấp, dẫn đến những thảm họa và Phật giáo sẽ tự diệt vong. Chắc chắn đó không phải là con đường sáng suốt và từ bi của Đức Phật vạch ra cho tất cả hàng đệ tử nối bước dấu chân Ngài trên thế gian này.
Những nhân vật bí ẩn nổi tiếng trong lịch sử chưa được xác định rơ danh tính cho tới ngày nay
Khoa học | Bí ẩn - Chuyện lạ
👨 Chia sẻ bởiBùi Thủy
2.301
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, rất nhiều nhân vật bí ẩn xuất hiện trong những sự kiện đặc biệt và trở nên nổi tiếng. Nhưng một số người trong số đó không thể xác định danh tính và trở thành bí ẩn lớn của nhân loại.
Dưới đây là một số nhân vật bí ẩn nổi tiếng trong lịch sử chưa được xác định rơ danh tính.
Tank Man - Người chặn xe tăng
Ngày 5/6/1989, trong vụ xung đột tại Quảng trường Thiên An Môn, khi những chiếc xe tăng tấn công người biểu t́nh ủng hộ dân chủ, một người đàn ông không sợ hăi đă đứng chặn trước một chiếc xe. Khi chiếc xe tăng phía trước cố gắng di chuyển, anh không chịu rời đi mà leo lên một trong những chiếc xe tăng để ngăn chặn chúng.
Hành động dũng cảm này đă được Jeff Widener, biên tập viên ảnh của hăng Associated Press ghi lại và được tạp trí TIME b́nh chọn là 1 trong 100 bức ảnh có tính biểu tượng của lịch sử.
Người đàn ông dũng cảm đó dường như chỉ là một người b́nh thường, không có vũ trang với hai túi xách trên tay. Hành động của người đàn ông bí ẩn này trở thành biểu tượng cho sự phản kháng của con người khi đối mặt với áp bức, bạo lực.
Cho đến nay, thực sự của người đàn ông chặn xe tăng vẫn là một bí ẩn.
Babushka Lady - Quư cô Babushka
Trong nhiều h́nh ảnh ghi lại vụ ám sát Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy vào năm 1963 có sự xuất hiện của một người phụ nữ đội chiếc khăn Babushka của những phụ nữ người Nga (v́ thế người ta gọi bà là Quư cô Babushka).
Người phụ nữ này cầm một chiếc máy ảnh và vẫn tiếp tục chụp toàn bộ khung cảnh đang diễn ra trong khi mọi người đang hoảng loạn, chạy trốn v́ Tổng thống bị bắn chết trên chiếc xe của ḿnh. Nhiều người tin rằng, quư cô Babushka có thể đă chụp lại được toàn bộ diễn biến vụ ám sát, trở thành một trong những nhân chứng nổi tiếng bí ẩn nhất của vụ ám sát John F. Kennedy.
Sau đó, cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI) đă ra thông báo công khai yêu cầu phụ nữ này giao nộp lại h́nh ảnh mà bà đă chụp, nhưng bà ta không bao giờ xuất hiện và cho tới nay không ai biết rơ danh tính của người phụ nữ này.
The Falling Man - Người đàn ông rơi
Ngày 11/9/2001, nhóm khủng bố Hồi giáo Al-Qaeda đă tấn công vào Ṭa tháp đôi (Hoa Kỳ). Đây là vụ tấn công tồi tệ nhất lịch sử nước Mỹ, cướp đi sinh mạng của 2.996 người, khiến hơn 6.000 người bị thương và tổng thiệt hại lên đến hơn 3 ngh́n tỉ đô la.
Một số người không chịu được sức nóng của lửa đă gieo ḿnh xuống đất chấp nhận cái chết. Richard Drew đă chụp được bức h́nh một người đàn ông rơi xuống từ trên ṭa tháp cao. Bức h́nh được đặt tên là The Falling Man và được tạp chí TIME b́nh chọn là 1 trong 100 h́nh ảnh có sức ảnh hưởng nhất thế giới.
Danh tính của người này không thể xác định trong số rất nhiều những nạn nhân ngày hôm đó. Người đàn ông là h́nh ảnh chân thực về hậu quả của vụ tấn công 11/9 và đă trở thành một biểu tượng của cuộc đấu tranh của thế giới văn minh chống lại khủng bố.
Sử dụng điện thoại thông minh sai tư thế có thể khiến hộp sọ của bạn "mọc đuôi"
Khoa học | Y học
Chia sẻ bởiPhương Phùng
374
Theo nghiên cứu các nhà khoa học đến từ Đại học Sunshine Coast ở Australia công bố trên tạp chí Science Report, ngày càng có nhiều người trẻ mọc ra một cái đuôi bất thường phía sau hộp sọ của họ và nguyên nhân là do họ dành quá nhiều thời gian cho các thiết bị cầm tay, đặc biệt là điện thoại thông minh. Đây là một minh chứng cho thấy sự "tiến hóa" khi cơ thể bạn phản ứng với thói quen dùng smartphone ở thế kỷ 21.
Phần tăng trưởng thêm được gọi với thuật ngữ khoa học là đáy gai nhô bên ngoài vùng chẩm (Enthesophytes or enlarged external occipital protuberance -EEOP). Trung b́nh, nó sẽ dài thêm khoảng 2,6 cm, nhưng cũng có thể dài tới 3,1cm đối với những trường hợp cá biệt.
Ảnh chụp X-quang phần gai nhô phía sau hộp sọ một người 28 tuổi.
Ảnh chụp X-quang phần gai nhô phía sau hộp sọ một người 28 tuổi.
Theo dự đoán của các nhà nghiên cứu, vùng xương này phát sinh từ vị trí nơi dây chằng hoặc gân bám vào xương. Thông thường, sẽ cần một khoảng thời gian rất dài để các dạng gai nhô này mọc ra và phát triển. Chúng sẽ xuất hiện phổ biến ở người già nhiều hơn so với người trẻ.
Tuy nhiên, nghiên cứu mới đây lại cho thấy điều hoàn toàn ngược lại. Cứ 3 người th́ có 1 người mọc ra một "chiếc đuôi" đằng sau hộp sọ, kết quả nghiên cứu trên 1.200 người từ độ tuổi 18 đến 86. Trong đó, đối tượng dễ gặp phải đột biến nhất lại là nam giới trong độ tuổi từ 18-29, lên tới hơn 35%. Với nhóm người từ 30 đến 50 tuổi, tỷ lệ giảm xuống c̣n khoảng 13%, ở nhóm những người trên 60 tuổi tỷ lệ này là 25%.
Trước năm 2000, các nhà khoa học khác cũng đă có những nghiên cứu về hiện tượng kỳ lạ này nhưng chưa có một nghiên cứu nào ghi nhận những người trẻ tuổi có đáy gai nhô ở vùng chẩm nhiều như vậy.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.