MỘT CÂU CHUYỆN Ý NGHĨA
Ông Winston Churchill –
Cựu Thủ tướng Anh từng nói rằng “chúng ta sinh sống bằng những gì chúng ta kiếm được, nhưng chúng ta tạo lập đời mình bằng chính những gì mà chúng ta cho đi”.
Thế giới này là một nơi tuyệt vời. Bạn cho đi thứ gì thì sẽ nhận được những điều tốt đẹp đáp lại!
Câu chuyện ý nghĩa dưới đây sẽ giúp mỗi chúng ta nhìn thấy được “nhân” và “quả” của cuộc đời mình, nó cũng sẽ là bài học để mỗi khi bạn đứng trước một hoàn cảnh cần phải gieo hạt tốt, bạn sẽ không ngần ngại hành động.
THOÁT CHẾT VÌ HÀNH ĐỘNG THEO NHÂN – QUẢ
Câu chuyện kể về vị danh tướng Dwight Eisenhower. Ông là một vị tướng 5 sao trong Lục quân Hoa Kỳ và là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 34 từ năm 1953 đến 1961. Trong thời Thế chiến thứ 2, ông phục vụ với tư cách là tư lệnh tối cao các lực lượng đồng minh tại Châu Âu, có trách nhiệm lập kế hoạch và giám sát cuộc tiến công xâm chiếm thành công vào nước Pháp và Đức năm 1944 – 45 từ mặt trận phía Tây.
Vào thời đó, một hôm ông Eisenhower cùng với đoàn tùy tùng vội vã lái xe về tổng hành dinh quân đội ở Pháp để tham dự một cuộc họp khẩn cấp.
Lúc đó trời đang mùa đông lạnh buốt lại thêm mưa tuyết rơi phủ đầy khắp nơi. Xe đang chạy thì ông bất ngờ để ý nhìn thấy có hai vợ chồng già người Pháp ngồi ở bên lề đường đang run rẩy vì cái lạnh giá buốt.
Ông lập tức ra lệnh cho đoàn tùy tùng ngừng lại và muốn phái một thông dịch viên tiếng Pháp tới hỏi thăm cặp vợ chồng này.
Một viên tham mưu nhắc nhở ông là nên để cho nhân viên công vụ tại địa phương lo chuyện này, phái đoàn phải đi nhanh lên vì sợ trễ cuộc họp. Ông nói nếu đợi cảnh sát địa phương tới thì sợ là quá muộn và hai người này sẽ chết cóng.
Sau khi hỏi thăm, ông Eisenhower biết được là họ đang muốn tới Paris để gặp con trai nhưng xe của họ bị chết máy giữa đường.
Ông bảo hai vợ chồng già mau lên xe của ông. Ông liền ra lệnh thay đổi lộ trình, đưa cặp vợ chồng tới Paris trước, rồi ông và đoàn tùy tùng mới lái xe tới tổng hành dinh để dự cuộc họp.
Không ngờ chính sự chuyển hướng bất ngờ ngoài kế hoạch này đã cứu mạng ông! Quân Quốc Xã có tin tình báo nên biết chính xác hành trình của ông và đã bố trí sẵn các tay súng bắn tỉa nấp rình tại các ngã tư. Nếu ông tới thì sẽ bị hạ sát ngay chỗ đó. Nhưng hóa ra chỉ nhờ vào lòng tốt gieo đúng lúc đã giúp ông đổi lộ trình và tránh thoát cuộc mưu sát.
THOÁT CHẾT
Câu chuyện thâm thúy trên đang nói với chúng ta một triết lý mà không phải ai cũng thấu hiểu, tin tưởng.
Sự cho đi hay “gieo hạt” là một quy luật vũ trụ, sự cho đi có ý nghĩa, giá trị chính là ở thời điểm và cách cho. Bạn gieo hạt đúng lúc, có thể thay đổi cả số mệnh và cuộc đời của bạn.
Vì vậy, nếu bạn đang khó khăn, bế tắc,… hãy nhìn lại hành trình mà bạn đã đi qua, sự cho đi đã đúng và đủ hay chưa. Đừng đòi hỏi quá nhiều cho bản thân khi chúng ta chưa biết cho đi nhiều hơn.
Lời Phật dạy là vô cùng vô tận, trong khi sự hiểu của chúng ta tuy nhiều nhưng ứng dụng thì còn giới hạn. Học Phật để làm người tốt hơn, đó là vấn đề cốt lõi.
>>Lời Phật dạy
Mục đích học Phật là gì?
Bài liên quan
Làm thế nào cảm hóa người nhà học Phật?
Người học Phật có nhiều mục đích khác nhau: Học Phật để thành Phật, học Phật để giải thoát sinh tử, học Phật để về Tây Phương, học Phật để thoát khổ, học Phật chuyển hóa thân tâm,…Nhưng dù thế nào đi nữa, học Phật để làm người tốt, có ích cho gia đình và xã hội chính là điều cơ bản nhất.
Điều kỳ diệu của đạo Phật chính là lời Đức Phật dạy không phải là công thức cứng ngắt mà nó huyền biến trong từng đối tượng, căn cơ của mỗi người và tùy hoàn cảnh. Nghĩa là người đau khổ muốn hạnh phúc thì ứng dụng lời Phật dạy ở góc độ nào? Người muốn thành Phật ứng dụng lời dạy theo phương pháp nào?
Người học Phật có nhiều mục đích khác nhau: Học Phật để thành Phật, học Phật để giải thoát sinh tử, học Phật để về Tây Phương, học Phật để thoát khổ, học Phật chuyển hóa thân tâm,…
Người học Phật có nhiều mục đích khác nhau: Học Phật để thành Phật, học Phật để giải thoát sinh tử, học Phật để về Tây Phương, học Phật để thoát khổ, học Phật chuyển hóa thân tâm,…
Bài liên quan
Tâm lý học Phật giáo
Do đó,Phật giáo có đến tám muôn bốn nghìn pháp môn để ứng với khả năng và mục đích tu học của từng người, dù ai, trong bất kỳ hoàn cảnh nào với mong muốn hướng thiện cũng dễ dàng tìm thấy phương pháp tương ứng trong những lời dạy của Đức Phật.
Đạo Phật luôn mang đến hạnh phúc cho đời sống thực tại bằng chính sự thực hành thông qua từng lời dạy. Và nếu tu tập không đúng phương pháp hoặc được hướng dẫn sai cách sẽ khiến bản thân dễ dàng rơi vào sự đau khổ của cuộc đời.
Thế nào là người tu học đúng?
Đức Phật từng dạy rằng: Phụng sự chúng sinh chính là cúng dường chư Phật.
Nghĩa là người tu học phải ứng dụng lời Phật để hoàn thiện bản thân rồi giúp đỡ những người lầm đường lạc lối hướng thiện. Đó mới đúng là sứ mệnh của người tu học chân chính.
Vì thế, đừng học Phật để mưu cầu sự trong sáng, thanh khiết, khác thường so với mọi người sẽ vô tình tạo nên khoảng cách của mình với người và đẩy đạo Phật xa rời thực tế.
Chúng ta học Phật để làm người tốt hơn chứ không phải sinh tâm ái ố trước những người thấp kém hơn mình.
Chúng ta học Phật để làm người tốt hơn chứ không phải sinh tâm ái ố trước những người thấp kém hơn mình.
Một số người càng tu học, họ trở nên khắt khe hơn khi đối nhân xử thế, nhất là đối với những người lầm đường lạc lối muốn quy hướng hay những người mới bước đầu học Phật bằng những giáo điều tự nghĩ ra, và cho rằng đó là đúng đắn.
Bài liên quan
Học Phật bằng cách nào?
Nhưng không, đây là hành động tạo nên một rào cản lớn cho chúng sanh và cho cuộc đời, nhất là người mê tín lại tạo một rào cản lớn hơn.
Trong kinh Di Ma có dạy rằng: Đời càng tệ chừng nào thì tâm nguyện, bản lĩnh của Bồ Tát càng cao. Nghĩa là người tu hành chân chính thì phải càng làm cho đạo gần gũi với đời, dấn thân vào cuộc đời mới thấy được thực tế và độ được chúng sinh. Hoa sen tươi mộc giữa bùn nhơ mà vẫn đẹp là như thế. Có tu học như thế mới trở thành người có ý nghĩa cho cuộc đời. Bởi đạo Phật ra đời chỉ để cứu độ những người đau khổ, khiến người xấu trở nên lương thiện hơn.
Chúng ta học Phật để làm người tốt hơn chứ không phải sinh tâm ái ố trước những người thấp kém hơn mình.
Đức Phật đã trở nên một con người vĩ đại nhờ vào những hành động nhỏ mà người người không làm, tránh xa. Người đã độ tận một U Ba Ly thuộc giai cấp thấp hèn nhất xã hội bị mọi người khinh chê, đến một anh chàng Vô Não giết người không gớm tay, tàn ác.
Là người học Phật, là sứ giả của Như Lai, chúng ta hãy phát huy đúng vai trò ấy để đưa đạo Phật đến gần hơn trong cuộc sống để hóa giải đi những phiền muộn, khổ đau cho mọi người.
Là người học Phật, là sứ giả của Như Lai, chúng ta hãy phát huy đúng vai trò ấy để đưa đạo Phật đến gần hơn trong cuộc sống để hóa giải đi những phiền muộn, khổ đau cho mọi người.
Người học Phật chúng ta phải nêu gương này. Không khởi tâm phân biệt đối với tất cả chúng sanh thấp hèn hay đã tạo nên tội lỗi mà ngược lại phải khởi tâm từ bi lớn hơn để tạo điều kiện giúp đỡ họ hướng thiện. Đừng tự biến mình thành người cao quý để xa rời chúng sinh, tu như thế không có ý nghĩa gì cả!
Bài liên quan
Đọc sách học Phật để trở thành Phật
Ý nghĩa của giác ngộ và giải thoát không đâu xa vời mà rất bình dị đối với sự tu học của mỗi con người. Giải thoát chính là tự do trong mọi ràng buộc, hạnh phúc, tự tại giữa khổ đau mà không nản chí và dao động. Có học Phật, chúng ta mới tốt hơn khi tự thân nhận diện được lỗi lầm và tránh xa nó cũng như giúp đỡ cho cuộc đời nhiều hơn. Nên người học Phật sẽ thay đổi về nội dung và hình thức.
Đạo Phật tuyệt vời là thế. Do đó, muốn con em chúng ta sống có đạo đức và hữu ích cho đời, hãy khéo léo dạy chúng bằng những giá trị đạo đức căn bản nhất theo lời Phật dạy bằng sự hiếu thảo, lòng biết ơn và lòng nhân ái. Khi chúng có nhận thức về điều đó thì tất nhiên sẽ có những hành động mang đến lợi ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Khi một cộng đồng sống có đạo đức thì đó là một cõi “Tịnh Độ nhân gian” thiết thực nhất. Đừng ép chúng phải có hành động tốt đẹp nếu không trang bị cho chúng nền tảng cốt lõi về đạo đức.
Học Phật để làm người tốt hơn bởi lời dạy của đức Phật có sức mạnh chuyển hóa được tâm hồn của mọi người trong từng hoàn cảnh khác nhau. Do đó, là người học Phật, là sứ giả của Như Lai, chúng ta hãy phát huy đúng vai trò ấy để đưa đạo Phật đến gần hơn trong cuộc sống để hóa giải đi những phiền muộn, khổ đau cho mọi người
Chúng ta ai cũng là con cả, vì ai cũng có cha có mẹ, để cho ta hình hài như ngày hôm nay cha mẹ đã chịu biết bao khổ nhọc. Ngay từ những ngày ta còn trong bụng mẹ, mẹ đã phải chịu biết bao khổ nhọc. Thật không thể kể hết công ơn của người mẹ khi mang thai ta.
>>Lời Phật dạy
Chúng ta ai cũng là con cả, vì ai cũng có cha có mẹ, để cho ta hình hài như ngày hôm nay cha mẹ đã chịu biết bao khổ nhọc. Ngay từ những ngày ta còn trong bụng mẹ, mẹ đã phải chịu biết bao khổ nhọc. Thật không thể kể hết công ơn của người mẹ khi mang thai ta.
Chúng ta ai cũng là con cả, vì ai cũng có cha có mẹ, để cho ta hình hài như ngày hôm nay cha mẹ đã chịu biết bao khổ nhọc. Ngay từ những ngày ta còn trong bụng mẹ, mẹ đã phải chịu biết bao khổ nhọc. Thật không thể kể hết công ơn của người mẹ khi mang thai ta.
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thường lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, xương ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nước mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Lạy Ðức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Ðức Phật dủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.
Bài liên quan
Có hiếu với mẹ cha tức là kính Phật
Nầy A-Nan con, về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết:
Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tan, khó lòng giữ được.
Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ,mới đủ năm hình, chân tay đầu tóc.
Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi thân hình và ý.
Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.
Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi gồm có ba quả; một là Tu Di hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời hoá ra dòng máu, rót vào trong miệng.
Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.
Phật bảo A-Nan: Công ơn từ mẫu, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu.
Những gì là mười điều?
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, quên cả âu lo.
Nhớ lại công ơn, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngon, dành dụm cho con.
Nhớ lại công ơn, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
Nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
Nhớ ơn mẹ ta, giặt diệm hong phơi áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi mẹ đành cam chịu.
Nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một phút chẳng ngơi.
Nhớ công ơn mẹ, vì sinh nuôi con, mà mẹ cam lòng tạo bao nhiêu ác nghiệp.
Nhớ công ơn mẹ, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không phút nào ngơi.
ÐỆ NHẤT ÂN: CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC
Bao kiếp, duyên cùng nợ;
Ngày nay, mới vào thai
Ðầy tháng, sinh ngũ tạng;
Bảy bảy, sáu tinh khai
Thân trọng, như non Thái
Ðộng tĩnh, sợ phong tai
Áo the, đành xốc-xếch,
Gương lược, biếng trang đài.
ÐỆ NHỊ ÂN: KHI GẦN SINH NỞ
Khi gần ngày sinh nở
Nặng nhọc, khổ vô cùng,
Cưu mang, trong mười tháng
Sinh nở, sắp đến ngày
Ðứng ngồi coi nặng nhọc;
Dáng vẻ, tựa ngô ngây,
Sợ hãi lo, cùng lắng;
Tử sinh giờ phút nầy!
ÐỆ TAM ÂN: SINH NỞ
Mẹ ta, khi sinh nở,
Thân thể đều mở toang!
Tâm hồn như mê mẩn,
Máu me chan hòa đầy,
Chờ nghe, thấy con khóc;
Lòng mẹ mừng rỡ thay!
Ðương mừng lại lo đến
Rầu rĩ ruột gan nầy.
ÐỆ TỨ ÂN: ĂN ÐẮNG NHẢ NGỌT
Mẹ ta lòng thành thực,
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc!
Ăn đắng nói cùng ai?
Yêu dấu như vàng ngọc.
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con ấm no;
Mẹ đói rách cũng vui .
ÐỆ NGŨ ÂN: XÊ CON TỰ THẤP
Tự mình nằm chỗ ướt,
Chỗ ráo để xê con,
Hai vú phòng đói khát;
Hai tay ủ gió sương.
Thâu đêm nằm chẳng ngủ;
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ;
Lòng mẹ mới được yên.
ÐỆ LỤC ÂN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG
Ðức mẹ dày như đất;
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng;
Cha mẹ cũng thế thôi!
Chẳng quản, câm mù, điếc!
Chẳng hiềm, quắt tay chân!
Bởi vì con ruột thịt,
Trọn đời dạ chẳng khuây.
ÐỆ BÁT ÂN: ÐI XA LÒNG MẸ THƯƠNG NHỚ
Từ biệt, lòng khôn nhẫn;
Sinh ly dạ đáng thương;
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn tha hương,
Ngày đêm thường tưởng nhớ;
Sớm tối vẩn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường?
ÐỆ CỬU ÂN: VÌ SINH CON MÀ CAM LÒNG TẠO BAO ÁC NGHIỆP
Đức Phật đã làm gì để đền đáp công ơn sinh thành của từ mẫu?
Thứ sáu, 14/06/2019 | 06:00
Mẫu thân của Đức Phật, hoàng hậu Māyādevī, trong một kiếp quá khứ khi còn là một thiên nữ ở cung trời Đâu Suất, đã cầu nguyện tha thiết rằng nguyện bà sẽ được tái sinh nơi cõi Người và trở thành người mẹ sinh hạ ra một vị Phật.
Hoàng hậu Maya (Māyādevī) là vợ của vua Tịnh Phạn, là mẹ đẻ của Phật Thích Ca và là chị gái của Mahà Pajàpati (Mahāpajāpatī Gotamī) - nữ tăng đầu tiên.
Theo truyền thuyết trong đạo Phật thì hoàng hậu Maya qua đời sau khi sinh ra Tất-đạt-đa Cồ-đàm được 7 ngày, và tái sinh vào cõi trời. Vì vậy, người em gái Mahà Pajàpati đã nuôi con của chị.
Maya nghĩa là "tình yêu" trong tiếng Phạn. Trong tiếng Tây Tạng, bà được gọi là Gyutrulma và trong tiếng Nhật, bà được biết đến với tên Maya-fujin (摩耶夫人).
Kinh Bản Sinh (Jataka) ghi về nhân duyên làm thân mẫu Phật của bà Maya như sau: cách đây 91 đại kiếp Trái đất, đã có 1 vị Phật tên là Vipassī (Phật Tỳ Bà Thi) ra đời. Có một công chúa đã cúng dường Phật Tỳ Bà Thi với lòng chí thành và ước nguyện rằng trong tương lai, cô sẽ được làm mẹ của 1 vị Phật. Phật Tỳ Bà Thi đã thọ ký cho cô sẽ được như nguyện. Công chúa đó chính là tiền kiếp của hoàng hậu Maya.
Sức mạnh của lời khẩn nguyện tha thiết đã đưa bà sinh ra trong dòng tộc hoàng gia và lên ngôi hoàng hậu, vương hậu của đức vua Tịnh Phạn. Ngay sau khi Đức Phật chào đời, bà đã băng hà và tái sinh trở về cung trời Đâu Suất.
Đức Phật đầu thai vào dòng tộc Thích Ca
Phía nam duới chân núi Tuyết Sơn có rừng cây tươi tốt rậm rạp, nơi ấy ngày xưa gọi là nước Ca-tỳ-la-vệ, vị vua cai trị nước này rất khôi ngô tuấn tú, dũng cảm, tài trí, đức độ hơn người - đó là vua Tịnh Phạn. Trong dòng tộc Thích Ca, vua Tịnh Phạn là người đứng đầu gia tộc và cũng là người đứng đầu trị vì đất nước.
Ở phương bắc có dòng tộc Câu Lợi, vua nước này là Thiện Giác, có người em gái là Maya đã trưởng thành, rất đoan trang, hiền thục. Cô là người thùy mỵ, nết na, nhã nhặn, trầm tĩnh, tiếng đồn về cô vang rộng khắp thành ai ai cũng biết. Danh tiếng này đến tai vua Tịnh Phạn, Ngài liền cùng các đại thần sang phương bắc diện kiến vua Thiện Giác để xin cầu hôn công chúa Maya.
Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Māyādevī
Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Māyādevī
Từ khi vua Tịnh Phạn kết hôn cùng công chúa Maya , trải qua hai mươi năm vẫn chưa có thái tử để nối ngôi thiên tử. Hoàng hậu Maya trong lòng luôn mang nỗi ưu tư, lo nghĩ sợ mai sau không người nối dõi, không người kế vị. Vì thế, hoàng hậu thường khuyên vua làm nhiều điều hiền thiện, tạo phúc cho muôn dân. Bản thân hoàng hậu cũng thường làm việc bố thí và cứu giúp những người nghèo khổ ở khắp nơi, khiến cho người dân trong nước ai ai cũng đều mến phục đức hạnh của bà.
Hoàng hậu Maya là bậc mẫu nghi của nước Ca- tỳ-la-vệ, dung mạo tuy không phải là tuyệt thế, nhưng tâm hồn bà trong sáng như hoa sen. Do trên gương mặt của bà lúc này mang nét u buồn là bởi hoàng hậu đã hơn bốn mươi tuổi rồi mà vẫn chưa có được thái tử.
Trong một giấc mơ, bà thấy có con voi trắng sáu ngà từ không trung bay đến, chui vào hông bên phải của bà. Hoàng hậu giật mình tỉnh giấc, kể lại giấc mộng
Trong một giấc mơ, bà thấy có con voi trắng sáu ngà từ không trung bay đến, chui vào hông bên phải của bà. Hoàng hậu giật mình tỉnh giấc, kể lại giấc mộng
Thế rồi, cho đến vào một đêm vắng lặng, lúc thiếp đi, trong một giấc mơ, bà thấy được 4 thiên thần chở tới hồ Anotatta bên dãy Himalaya. Sau khi tắm xong, các thiên thần đã mặc bộ quần áo của cõi trời, xức dầu thơm và trang điểm cho bà bằng những bông hoa tuyệt đẹp. Ngay sau đó, một con voi trắng vòi giữ một bông hoa sen trắng xuất hiện và đi vòng quanh bà 3 lần, đi vào dạ con của bà từ bên phải. Cuối cùng voi biến mất và hoàng hậu thức giấc, kể lại giấc mộng.
Các quan đại thần đều đoán rằng đây là điềm lành, chắc chắn hoàng tộc sắp có tin vui. Quả nhiên, từ đó hoàng hậu mang thai Thái tử. Vua Tịnh Phạn rất vui mừng cùng thần dân mơ tiệc ăn mừng.
Thái Tử ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni vào ngày 8/4
Mang thai đã được mười tháng, nay đã đến ngày sinh, hoàng hậu Maya xin với vua cho phép bà về nhà mẹ đẻ để sinh con theo phong tục thời bấy giờ. Không đành để Hoàng hậu đi một mình, đích thân vua dẫn đoàn tùy tùng đi hộ tống Hoàng hậu về nhà mẹ đẻ.
Hôm đó là ngày mồng tám, gió tháng tư hiu hiu thổi, khí trời ấm áp. Khi đoàn đi ngang qua vườn Lâm Tỳ Ni, cảnh vật nơi đây tuyệt đẹp, mọi người ai cũng thấy dễ chịu. Hoàng hậu cho dừng kiệu đế vào vườn nghỉ ngơi một chút. Lúc này xuân hạ giao mùa, trong vườn Lâm Tỳ Ni thì hoa đang nở rộ, muôn chim đua hót. Hoàng hậu ngồi cạnh hồ nước chiêm ngưỡng cảnh vật thiên nhiên, rồi bà đứng dậy dạo quanh vườn hoa, đến cội vô ưu có cành lá sum suê nở rộ. Hoàng hậu đưa tay lên định ngắt lấy một nhành hoa, bỗng ngay lúc ấy Thái tử chào đời.
scan0015
Bấy giờ ánh sáng tỏa chiếu khắp thế gian, nhạc trời trỗi khắp, từ đấy nhân loại có được bậc giác ngộ ra đời để dẫn dắt muôn loài. Hoàng hậu Maya - người mẹ vĩ đại đã cho đời một vị Phật tương lai. Thật đáng kính trọng, thật đáng tán thán! Thái tử khi ra đời đã biết đi. Mỗi bước đi của ngài đều nở một bông hoa sen.
Sau khi sinh thái tử được bảy ngày thì hoàng hậu băng hà. Sau khi thác, bà được sinh về cung trời Đâu Suất, sống đời an vui tịnh hạnh. Trên cung trời Đâu Suất, nhà cửa toàn bằng pha lê, vàng bạc của báu chất đầy như núi, vật dùng đều quý giá bằng vàng. Trong cảnh an nhàn như thế nhưng hoàng hậu vẫn mong ước được gặp Phật.
Sau khi thành Phật, đức Phật thị hiện ở cung trời Đâu Suất để thuyết pháp cho mẫu thân
Đức Phật thị hiện xuống cõi Ta bà này là đế giáo hóa chúng sinh, Ngài muốn chúng sinh cũng được giác ngộ, thoát khổ như Ngài. Cũng giống như bao nhiêu người con hiếu khác, Ngài nhớ đến công ơn sinh thành của từ mẫu nên đã rời khỏi Tăng đoàn, lên cung trời Đâu Suất trong 3 tháng để thể hiện lòng kính trọng, sự báo ân, báo hiếu của một người con với mẹ, để thuyết pháp cho mẫu thân. Đức Phật và đã thuyết kinh nói về hiếu hạnh, gọi là kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Công Đức Vi diệu pháp cho bà.
Đức Phật thuyết pháp cho chư thiên và Thánh mẫu trên cung trời Đâu Suất
Đức Phật thuyết pháp cho chư thiên và Thánh mẫu trên cung trời Đâu Suất
Như vậy, Kinh Địa Tạng ra đời trước tiên là do lòng hiếu thảo của Đức Phật đối với bậc sinh thành. Khi biết rằng mình sẽ không còn trụ thế bao lâu nữa, Đức Phật đã lập pháp hội tại cung trời này để độ thoát cho thân mẫu.
Hoàng hậu Maya là người mẹ vĩ đại nhất với lời nguyện cầu tha thiết trong tiền kiếp đã sinh ra thái tử Tất Đạt Đa. Bà là người phụ nữ cao quý nhất đã có công sinh ra một bậc vĩ nhân kiệt xuất của nhân loại, để chúng ta có được đạo Phật mà nương theo, có được Chính pháp mà tu tập, hướng đến sự giác ngộ và thoát ra khỏi luân hồi sinh tử.
Nói về người phụ nữ, trong lịch sử Phật giáo có hai người mẹ lớn. Một vị là Hoàng hậu Maya, người đã sinh ra sắc thân của Ðức Phật. Vị kia là Pajapathi, dì ruột và cũng là người nuôi dưỡng sắc thân Ðức Phật khi Ngài còn sống trong hoàng cung.
>>Lời Phật dạy
Ðối với đạo Phật, người phụ nữ được tôn vinh bằng một quan điểm đầy nhân bản. Trong đạo Phật, người phụ nữ nhận được chân giá trị của họ: họ là những người cũng có đủ tiềm năng thành Phật, những vị Phật sẽ thành, họ cũng là những người có đủ lòng đại bi, có đủ khả năng phát tâm Bồ đề vì lợi ích chúng sinh. Và người mẹ trong Phật giáo vì vậy được nhìn trong một không gian rộng lớn, trong một thời gian dài lâu, với một chiều sâu đầy nhân bản.
Ðức Phật đã nhiều lần dùng hình ảnh người mẹ để minh họa cho giáo pháp của Ngài. Như đoạn kệ sau đây trong truyền thống Theravada:
Như người mẹ trong khổ nạn cuộc đời,
yêu thương và bảo vệ người con trai duy nhất.
Cũng vậy, các thầy Tỳ kheo hãy cố gắng tu tập
Lòng thương vô giới hạn này
đến khắp chúng sinh trong vũ trụ…
Khi vị Tỳ kheo sống hoàn toàn trong chánh niệm,
chắc chắn vị ấy sẽ không còn trở lại trong bào thai.
Bài liên quan
Tôn giả Kiều Đàm Di - ni trưởng đầu tiên trong lịch sử Phật giáo
Dường như có sự mâu thuẫn trong bài kệ trên. Ca tụng người mẹ nhưng không muốn trở lại làm một người con. Theo quan niệm của đạo Phật, tình thương của mẹ đối với con tuy là một tình thương cao cả nhất trong thế gian, nhưng vẫn là một tình thương ràng buộc. Người tu sĩ Phật giáo cố gắng có một tình thương mạnh mẽ như tình mẹ, nhưng phải vượt qua những ràng buộc để tình thương được ban rải khắp chúng sinh, để tiến xa trên con đường giải thoát sinh tử.
Nói về người phụ nữ, trong lịch sử Phật giáo có hai người mẹ lớn. Một vị là Hoàng hậu Maya, người đã sinh ra sắc thân của Ðức Phật. Vị kia là Pajapathi, dì ruột và cũng là người nuôi dưỡng sắc thân Ðức Phật khi Ngài còn sống trong hoàng cung.
Hoàng hậu Maya: Người mẹ thứ nhất của Đức Phật
Hoàng hậu Maha Maya, một người mẹ có nguyện lớn “thà sinh một con mà phát tâm Bồ Ðề, hiện thế xuất gia, chứng được Nhất Thiết Trí, còn hơn sinh nhiều con mà không phát tâm Bồ Ðề.”
Hoàng hậu Maha Maya, một người mẹ có nguyện lớn “thà sinh một con mà phát tâm Bồ Ðề, hiện thế xuất gia, chứng được Nhất Thiết Trí, còn hơn sinh nhiều con mà không phát tâm Bồ Ðề.”
Hoàng hậu Maya được gọi là lớn - bà thường được gọi là Maha Maya (maha có nghĩa là lớn) - vì đã sinh ra Ðức Phật, như đoạn cuối của bài kệ diễn tả lời phát biểu của Tỳ kheo ni Pajapathi:
Kính lễ Phật Ðà,
bậc đệ nhất trong muôn loài,
Ngài đã đưa tôi và nhiều người khác thoát khỏi sự khổ đau.
Tất cả những khổ đau đã được nhận diện,
Nguyên nhân của chúng, lòng khát ái
Đã được làm khô kiệt,
Con đường Bát chánh được mở bày,
Tôi đã đạt đến chỗ mọi sự đều dừng lại.
Tôi đã là
Mẹ,
Con trai,
Cha,
Anh em,
Bà;
Không biết gì về sự thật
Tôi đã mãi miết đi hoài.
Nhưng tôi đã gặp Ðức Từ Tôn;
Đây là thân sau cùng của tôi
Và tôi không còn đi nữa
Trong sinh tử tử sinh
Nhìn những đệ tử quây quần,
Nghị lực của họ,
Sự tinh tấn của họ,
Là công ơn của chư Phật.
Maya đã sinh Ðức Gautama
Vì lợi ích của tất cả chúng ta.
Bà đã đẩy lui sự khổ đau
của bệnh và chết.
(Therigaha)
Maha Maya và Maha Pajapathi là hai chị em, con của thủ lãnh bộ tộc Koliya. Khi trưởng thành, hai chị em đều cùng về làm vợ của thủ lãnh bộ tộc Sakya là Suddhodana. Sau khi Hoàng hậu Maya sinh Thái tử Siddhattha thì qua đời sau đó bảy ngày. Nguyên nhân về sự qua đời sớm của bà là đại nguyện ra đời chỉ để sinh một vị Phật. Bà là một "bà mẹ lớn" vì đại nguyện này.
Hoàng hậu Ma Da vào một đêm vắng lặng, lúc thiếp đi, trong một giấc mơ, bà thấy có con voi trắng sáu ngà từ không trung bay đến, chui vào hông bên phải của bà. Hoàng hậu giật mình tỉnh giấc, kể lại giấc mộng. Các quan đại thần đều đoán rằng đây là điềm lành, chắc chắn hoàng tộc sắp có tin vui. Quả nhiên, từ đó hoàng hậu mang thai Thái tử. Vua Tịnh Phạn rất vui mừng cùng thần dân mơ tiệc ăn mừng. Ảnh minh họa
Hoàng hậu Ma Da vào một đêm vắng lặng, lúc thiếp đi, trong một giấc mơ, bà thấy có con voi trắng sáu ngà từ không trung bay đến, chui vào hông bên phải của bà. Hoàng hậu giật mình tỉnh giấc, kể lại giấc mộng. Các quan đại thần đều đoán rằng đây là điềm lành, chắc chắn hoàng tộc sắp có tin vui. Quả nhiên, từ đó hoàng hậu mang thai Thái tử. Vua Tịnh Phạn rất vui mừng cùng thần dân mơ tiệc ăn mừng. Ảnh minh họa
Theo kinh Ðại phương tiện Phật báo ân, vào thời quá khứ xa xưa có một người nữ, do một nguyên nhân không tốt ở tiền kiếp đã sinh ra làm con của một con nai cái. Nhưng cũng nhờ những nguyên nhân tốt đẹp khác, cô gái do nai sinh ra có một tướng mạo đoan chính, tính tình bao dung, hiền thiện. Cô gái được một vị tiên thờ lửa nuôi lớn, và vì do nai sinh nên được gọi là Lộc Nữ.
Khi Lộc Nữ được 14 tuổi, người cha rất thương và được giao cho công việc giữ lửa. Một hôm vì vô ý, cô đã để lửa tắt. Người cha ra ngoài trở về thấy thế, phạt cô phải sang động của vị tiên bên cạnh, ở sườn núi phía Bắc, để xin lửa.
Vì tạo nhân trong sạch nhiều đời, sau mỗi bước chân của Lộc Nữ đều mọc lên một đóa sen. Vị tiên phía Bắc thấy vậy, yêu cầu Lộc Nữ đi bảy vòng quanh động của ông thì ông mới cho lửa. Và bảy vòng hoa sen trang nghiêm, đẹp đẽ mọc lên.
Khi đó, vua nước Ba La Nại cùng quần thần vào rừng săn bắn. Nhà vua thấy bảy vòng hoa sen quanh động vị tiên, sanh lòng hoan hỷ, ca tụng đức hạnh của vị tiên. Vị tiên nói với nhà vua về nguyên nhân của bảy vòng hoa sen, nhà vua vui mừng qua động phía Nam, ngỏ lời xin kết hôn cùng Lộc Nữ.
Về hoàng cung được một thời gian thì Lộc Nữ có thai. Nhưng đến ngày sinh, nàng chỉ sinh ra một đóa hoa sen. Nhà vua rất giận, cho là yêu tinh, sai liệng bỏ hoa sen và giáng chức phu nhân.
Sau đó mấy ngày, nhà vua cùng quần thần vào hậu viên để du ngoạn. Tình cờ nhà vua nhìn thấy trong ao sen có một đóa sen hồng tỏa ra ánh sáng mầu nhiệm. Vua sai người xuống ao xem. Hoa có năm trăm cánh, dưới mỗi cánh hoa có một em bé, mặt mày khôi ngô tuấn tú.
Khi nghe kẻ hầu tâu lại, nhà vua kinh ngạc hỏi: "Có thực quả như vậy chăng? Hoa sen ấy có phải do Lộc Mẫu sinh ra chăng?" Các người theo hầu đều bảo rằng hoa sen do Lộc Mẫu sinh ra được đem chôn ở đó.
Bài liên quan
Chân dung 10 vị đại đệ tử của Đức Phật
Nhà vua ăn năn, đem hoa sen và năm trăm Hoàng tử về hoàng cung và phục chức cho Lộc Mẫu. Các hoàng tử được Lộc Mẫu chia cho các phu nhân khác của vua đồng đều nuôi dưỡng.
Khi năm trăm Hoàng tử đến tuổi trưởng thành, một hôm cùng nhau du ngoạn đến ngồi trên bờ một ao sen. Nhìn thấy hình dung của mình ảnh hiện trong nước, các Hoàng tử cùng bảo với nhau:
"Tất cả các pháp, chẳng khác nào trò huyễn thuật, như hoa đốm trên không, như cảnh tượng trông thấy trong giấc chiêm bao, như bóng hình dưới đáy nước, thể tính vốn không phải là chân thực, lũ chúng ta ngày nay cũng lại như thế. Tuy là chúng ta ở địa vị tôn quý cao sang, sống trong hoàng cung hưởng dụng bao nhiêu dục lạc, trẻ trung đẹp đẽ, rốt cuộc cũng không thể nào giữ được lâu. Vạn vật có thành tất phải có hoại, người ta rồi cũng phải chết, trẻ khỏe không được bao lâu, mà già nua sẽ tới, ăn uống không tiết độ tất nhiên bệnh hoạn sẽ phát sinh, dù cho sống lâu đến trăm tuổi, rồi cũng phải chết".
Các Hoàng tử lòng sinh không vui, trở về hoàng cung, cùng nhau thưa với cha mẹ: "Thưa cha mẹ! Thế giới đều là khổ, không có gì đáng vui, nay xin cha mẹ cho chúng con được xuất gia".
Nhà vua và Hoàng hậu thấy không thể ngăn cản các Hoàng tử, nên cho họ xuất gia, ra ở hậu viên để tu hành.
Sau khi xuất gia, các Hoàng tử đều chứng quả Bích Chi Phật. Chứng quả xong, các vị Hoàng tử vì cha mẹ, hiện các thứ thần biến, rồi nhập Niết bàn.
Hoàng hậu thâu các thân cốt, xây năm trăm tháp, ngày ngày thắp hương, trổi nhạc để cúng dường. Hoàng hậu buồn lòng tự nhủ: "Ta tuy sinh năm trăm Hoàng tử mà không có một người nào phát tâm Bồ đề". Bà lập thệ nguyện: "Ta cúng dường năm trăm vị Bích Chi Phật, gồm xây năm trăm tháp, cúng dường xá lợi, công đức xin hồi hướng cho tất cả chúng sinh, khiến ta đời sau, thà sinh một con mà phát tâm Bồ đề, hiện thế xuất gia, chứng được Nhất thiết trí, còn hơn sinh nhiều con mà không phát tâm Bồ đề".
Thái tử ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni. Ảnh minh họa
Thái tử ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni. Ảnh minh họa
Lộc Mẫu là tiền thân của Maha Maya. Lời nguyện lớn của bà là nhơn duyên khiến bà đời đời làm mẹ của Phật. Nền tảng của Phật giáo Ðại thừa là Bồ đề tâm. Bồ đề tâm là tâm vì chúng sinh. Ðức Phật đã xuất gia tìm đạo vì Ngài muốn tìm đường diệt khổ cho chúng sinh.
Tỳ kheo ni Maha Pajapathi: Người mẹ thứ hai của Đức Phật
Người "mẹ lớn" thứ hai trong Phật giáo là Tỳ kheo ni Maha Pajapathi (Ma ha Ba Xà Ba Ðề). Bà là người đã nuôi dưỡng sắc thân của Phật khi mẹ Ngài qua đời, cũng là vị Tỳ kheo ni đầu tiên, vị thiết lập và lãnh đạo Ni chúng đầu tiên trong Phật giáo.
Sự cố gắng cầu đạo của bà Maha Pajapathi là một cố gắng phi thường. Sự cố gắng phi thường của bà Maha Pajapathi là một ưu điểm của nữ giới so với nam giới. Và tiến trình nhận nữ giới vào hàng ngũ Tăng già cho chúng ta thấy một cái nhìn nhân bản của đạo Phật. Cả hai giới đều có chung một khả năng giác ngộ và giải thoát như nhau, bình đẳng với nhau trong tự tánh. Tuy nhiên, vì tâm sinh lý khác nhau, đời sống xã hội khác nhau, nên tiến trình tiến đến chân thiện cũng khác nhau.
Người
Người "mẹ lớn" thứ hai trong Phật giáo là Tỳ kheo ni Maha Pajapathi (Ma ha Ba Xà Ba Ðề). Bà là người đã nuôi dưỡng sắc thân của Phật khi mẹ Ngài qua đời, cũng là vị Tỳ kheo ni đầu tiên, vị thiết lập và lãnh đạo Ni chúng đầu tiên trong Phật giáo. Ảnh minh họa
Lý do Phật không chấp nhận cho nữ giới xuất gia ngay được bà Maha Pajapathi nói trong kinh Ðại phương tiện Phật báo ân như sau:
"Phật pháp là lợi ích lớn. Chỉ trong giáo pháp của Ðức Như Lai mới có đầy đủ các công đức và ba thứ quả báo. Hết thảy chúng sinh đều có phần trong đó. Thế mà Ðức Như Lai lại không cho phụ nữ của chúng ta được dự vào Phật pháp là lẽ gì? Là vì phụ nữ chúng ta phần nhiều hay ngờ vực, chấp trước, không có lòng hỷ xả.
Bài liên quan
Bộ ảnh mô tả cuộc đời Đức Phật Thích Ca
Cũng vì chấp trước nên mới tạo không biết bao nhiêu nghiệp trói buộc, đến nỗi bị ngu si và ái dục che lấp mất chân tâm, do đó mà phải chìm đắm mãi trong bể khổ sinh tử, mặc cho lớp sóng ái dục dập vùi. Vì tà kiến và tham ái làm chướng ngại, nên mới sinh ra kiêu ngạo, lười biếng, bởi thế thân này không thể đạt đến đạo quả Vô thượng Bồ đề, không thể có được ba mươi hai tướng tốt… Thiên ma Ba Tuần, các loại tà kiến, và hết thảy ngoại đạo chuyên làm điều ác, chấp theo tà thuyết, phá hoại Chánh pháp, diệt Phật Pháp Tăng. Vì vậy Ðức Như Lai không cho nữ nhân dự vào Phật pháp".
Ðó là một lời phân tích, nhưng chính thực là một lời khuyên nhủ của bà Pajapathi với nữ giới. Sự thật, không phải Đức Phật nhất quyết không cho nữ giới xuất gia. Nhưng xuất gia có điều kiện. Và những điều kiện này cần thiết cho nữ giới trong quá trình giải thoát. Chúng ta biết rằng Đức Phật đã mở vòng tay tiếp nhận bất cứ hạng người nào thuộc bất kỳ giai cấp nào.
Khi Đức Phật trở về hoàng cung để thuyết pháp cho dân chúng bộ tộc Sakya thì bà Pajapathi đã ở vào khoảng 50, 60 tuổi. Trong số những người tham dự nghe Phật thuyết pháp chắc chắn có bà. Sau đó, bà và cả vua Suddhodana trở thành đệ tử tại gia của Phật. Ananda, con trai của bà, Rahula, cháu của bà, cũng theo Phật xuất gia.
Sau khi bà trở thành đệ tử tại gia của Phật, chắc chắn bà cũng đã dùng giáo pháp của Ðức Phật để an ủi những người con gái và phụ nữ đến nương tựa bà, con số là "500 người" (tượng trưng cho một số đông).
Câu chuyện về việc xuất gia của bà Maha Pajapathi được ghi lại như sau:
Một thuở nọ, Ðức Phật ở tại tịnh xá Nigrodha trong thành Kapilavathu. Maha Pajapathi đến chỗ Phật, chào hỏi rồi đứng ở một nơi, cung kính thưa rằng: "Thưa Thế Tôn, nếu Ngài cho phép phái nữ được xuất gia để nương tựa vào giáo pháp và giới luật của Như Lai thì nhiều người sẽ được lợi lạc".
Ðức Phật trả lời: "Này Gotami, hãy đừng nghĩ đến việc đó".
Ba lần bà Pajavathi thưa thỉnh như vậy và Phật đều trả lời như vậy. Nghĩ rằng Phật không cho phép nữ giới xuất gia, bà Pajavathi xá Phật rồi buồn bã lui ra theo phía phải.
Sau khi Ðức Phật đi đến Vesali, bà Pajapathi cạo tóc, mặc áo cà sa, cùng với một số phụ nữ bộ tộc Sakya đi đến Vesali để xin Phật được xuất gia.
Di mẫu Maha Pajapathi thỉnh cầu Phật cho xuất gia
Di mẫu Maha Pajapathi thỉnh cầu Phật cho xuất gia
Chúng ta biết rằng từ thành Capilavatthu đến Vesali khoảng cách 150 dặm. Bà Maha Pajapathi lúc đó đã trên 50 tuổi, cùng với một số phụ nữ, đa số thuộc dòng dõi quý tộc, đi bộ một đoạn đường như vậy là một cố gắng phi thường, phải có một lòng cầu đạo phi thường.
Lời tâm sự của bà về tâm cầu đạo của mình như sau: "Ta vì hết thảy phụ nữ, ba lần thỉnh cầu Ðức Như Lai cho được xuất gia, tu học Phật pháp, mà Phật không thuận. Vì không được như nguyện, lòng ta buồn tủi, giận cho thân phận nữ nhân, bất giác lệ tràn mí mắt ta mới bước ra khỏi Kỳ Hoàn tịnh xá".
Bà đã "vì hết thảy phụ nữ" mà không quản ngại bao nhiêu khó khăn quyết cầu xuất gia. Ðó là tâm nguyện Ðại thừa.
Và cuối cùng, với lời xin của ngài A Nan, Ðức Phật đã cho nữ giới xuất gia nhưng có điều kiện. Trong kinh Ðại phương tiện Phật báo ân, Đức Phật dạy như sau:
"Bấy giờ ngài A Nan cúi đầu lễ, rồi quỳ gối, chắp tay lại, bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, con tự nghĩ chư Phật ở quá khứ đều có đủ bốn bộ chúng, mà chỉ mình Đức Thích Ca Như Lai là không đủ.
Phật bảo ngài A Nan:
- Nếu Di mẫu quý chuộng Phật pháp, phải hết sức tinh tiến, tu tập phép Bát kính, ta sẽ ưng thuận, cho được xuất gia sống trong Phật pháp".
Lúc đó ngài A Nan lễ Phật, đi nhiễu ba vòng, rồi lui trở ra. Ngài liền đến báo cho ta (Pajapathi) biết là Đức Như Lai đã theo lời cầu xin của ngài mà bằng lòng cho ta được xuất gia, phụng trì Phật pháp. Ðược biết tin ấy, lòng ta vui mừng vô hạn, và bạch ngài A Nan rằng:
- Quý hóa thay, ngài A Nan! Ngài đã hết lòng thỉnh cầu Đức Như Lai, khiến cho tôi được toại nguyện.
Hạnh nguyện bố thí thân mạng cứu chúng sinh của nàng Ngân Sắc - tiền thân Đức Phật
Thứ bảy, 12/10/2019 | 16:05
Trong vô số những tiền thân mà Đức Phật đã trải qua, vì lòng từ bi vô điều kiện, Ngài đã từng xả thân cứu giúp và mang lại sự an vui, hạnh phúc cho vô số chúng sinh. Ngài không hề nghĩ đến tự thân, đã từng nhiều lần đem thân mạng mình bố thí cho những chúng sinh đói khổ.
>>Phật tử có thể đọc loạt bài về Đức Phật
Tôi nghe như vầy:
Một thời Bà-ca-bà ở tại rừng cây Kỳ-đà, vườn cấp cô độc, nước Xá-vệ, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các vị Tỳ-kheo:
- Này các Tỳ-kheo, có chúng sinh nào có thể biết rõ được công đức và quả báo của việc bố thí như đã biết mà trong bữa ăn, từ miếng ăn đầu đến miếng ăn cuối, không có lòng rộng mở bố thí thì tự mình không nên ăn.
Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ:
Nếu có các chúng sinh
Như lời Phật đã dạy
Bớt phần ăn bố thí
Thành tựu quả báo lớn,
Hoặc ngay miếng cơm đầu
Hoặc là miếng sau cùng
Ai không dùng bô thí
Tự mình không nên ăn.
Đức Thế Tôn dạy bài kệ xong, bảo các Tỳ-kheo:
- Này các Tỳ-kheo, từ vô lượng kiếp quá khứ có một kinh đô tên Liên hoa, trong thành có danh nữ tên Ngân sắc, tướng mạo đoan trang vô cùng xinh đẹp, bởi nàng được kết hợp bằng những nét đẹp tuyệt diệu nhất. Một hôm có việc cần, Ngân sắc rời nhà đi đến một nhà kia. Khi vào nhà, cô thấy một sản phụ vừa sinh một đứa con trai rất xinh đẹp, dễ thương. Khi ấy, bà ta đang bế đứa con lên và muốn ăn thịt nó. Thấy thế Ngân sắc liền hỏi:
- Em làm gì vậy?
Sản phụ đáp:
- Tôi quá đói, không còn khí lực, không biết lấy gì ăn, nên tôi muốn ăn con tôi.
Ngân Sắc liền bảo sản phụ.
- Em hãy dừng lại, việc này không thể được. Trong nhà này không có ai lo thức ăn cho em sao?
Vị ấy đáp:
- Đã từ lâu tôi chỉ chất chứa xan tham, keo kiệt, cho nên bây giờ không có một chút gì có thể ăn được.
Ngân Sắc liền bảo:
- Em hãy đợi một lát, tôi về nhà đem thức ăn cho em.
Bà ta lại nói:
- Hiện giờ hai bên sườn của tôi như muốn gãy, lưng lại muốn bại, trong lòng ngỗn ngang, nhìn nơi nào cũng mờ mịt. Cô vừa ra khỏi nhà chắc tôi chết ngay.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Khi ấy, Ngân sắc suy nghĩ: “Nếu đem đứa con đi chắc người mẹ sẽ chết, mà nếu không đem nó đi ắt mẹ nó ăn thịt. Ta phải tìm cách nào để cứu hai mẹ con”.
Cô liền nói với sản phụ:
- Tôi cần có một con dao bén, trong nhà này có không?
Sản phụ nói:
- Có.
Và liền lấy dao trao cho Ngân sắc. Ngân sắc dùng dao cắt hai vú của mình bảo sản phụ ăn và nói với bà ấy:
- Em hãy ăn vú của tôi, thân thể của em sẽ bớt đói khổ.
Khi sản phụ ăn xong, Ngân sắc lại hỏi:
- Em no chưa?
Sản phụ đáp:
- Tôi no rồi.
Ngân Sắc nói:
- Em nên biết, đứa bé này chính là tôi đã đem thân thể chuộc lại. Nay tôi gởi nó cho em, tôi muốn về nhà lấy thức ăn.
Ngân Sắc nói xong thì khắp thân máu ra lênh láng, lê lết đi về đến nhà, bà con quyến thuộc trông thấy Ngân sắc đều cùng hỏi:
- Ai làm thế này?
Ngân Sắc trả lời:
- Tự tôi làm như vậy.
Họ lại hỏi:
- Vì sao cô làm như vậy?
Ngân Sắc nói:
- Tôi đã khởi tâm không bỏ đại bi vì mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Những người thân quyến nói:
- Tuy cô hành hạnh bố thí mà tâm còn hối tiếc, thì chỉ gọi là bố thí, mà không phải là Ba-la-mật.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Họ lại hỏi:
- Trong lúc cắt bỏ phần thân như vậy, cô có hoan hỷ không? Cô chớ vì đau đớn quá mà sinh buồn tiếc.
Ngân Sắc liền phát thệ nguyện:
- Tôi cắt hai vú, lòng không hề nuôi tiếc hay có một vọng tưởng nào khác. Nếu đúng như lời, xin hai vú của tôi trở lại như cũ.
Ngân Sắc vừa nguyện xong thì hai vú trở lại bình thường.
Bài liên quan
Đức Phật nói về việc bố thí trong các Kinh như thế nào?
Bấy giờ, trong thành Liên hoa, các Dạ-xoa cùng nói lớn rằng: “Cô Ngân Sắc tự bỏ hai vú”. Khi ấy Địa thiên nghe được lại truyền lên hư không. Chư Thiên nghe được lại loan truyền tiếp, truyền mãi như vậy cho đến Phạm thiên, trời Đế Thích suy nghĩ: “Thật là sự kiện hy hữu, cô Ngân sắc này vì lòng thương chúng sinh cho nên tự bỏ hai vú, nay ta đến hỏi cô ấy xem”. Nghĩ xong, Đế Thích hóa thân làm người Bà-la-môn, tay trái cầm bình nước và bát đều bằng vàng, tay phải cầm cây gậy cũng bằng vàng, rồi ông đi thẳng đến thành Liên hoa và đi dần đến nhà Ngân sắc ở, đứng ngoài cửa cất tiếng khất thực; Ngân sắc nghe ngoài cửa có tiếng người khất thực, vội lấy đồ đựng đầy thức ăn đem ra ngoài cửa. Người Bà-la-môn nói:
- Thôi cô ạ, tôi không cần thức ăn.
Ngân Sắc hỏi tại sao, người Bà-la-môn nói:
- Ta là Đế Thích. Ta có sự hoài nghi đối với cô nên đến đây, xin cô đáp lời ta hỏi.
Ngân Sắc thưa:
- Đại Bà-la-môn, xin ông cứ hỏi, con sẽ trả lời những điều ông hoài nghi, con sẽ làm vừa ý ngài Bà-la-môn.
Bà-la-môn hỏi:
- Có phải cô thật cắt hai vú để bố thí cho người khác không?
Cô đáp:
- Đúng như vậy, thưa Đại Bà-la-môn.
Bà-la-môn lại hỏi:
- Tại sao cô làm như vậy?
Ngân Sắc trả lời:
- Vì lòng đại bi muốn đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bà-la-môn nói:
- Việc này rất khó. Cái rất khó là đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nếu cô bố thí rồi mà sinh tâm hối tiếc, thì chỉ là thí chứ chẳng phải Ba-la-mật. Lúc đang bố thí, cô có hoan hỷ không? Trong lúc đang bị cắt đau đớn, cô có sinh ý khác không?
Ngân Sắc đáp:
- Thưa Kiều-thi-ca, con nay lập thệ: Con vì tâm cầu Nhất thiết trí, vì tâm cầu thắng nhất thiết thế gian, tâm mong cứu độ tất cả chúng sinh, nên con không hề hối tiếc khi cắt bỏ hai vú. Nếu đúng là con không hối tiếc, xin cho thân nữ của con biến thành người nam.
Khi Ngân sắc phát lời thệ nguyện xong, liền trở thành người nam. Ngân sắc thấy thân nữ đã biến thành thân nam rồi, lòng sinh hoan hỷ, vui mừng không xiết, đi đến gốc cây nằm ngủ.
Bài liên quan
Tiền thân của đức Phật là vua Chuyển luân thánh vương Đại Thiện Kiến tôn quý
Trong thời gian ấy, vua Liên Hoa bỗng nhiên băng hà. Vua lại không có con. Thời tiết vô cùng nóng bức. Ngay thời điểm ấy, các quan đại thần tìm kiếm khắp nơi, từ rừng này qua rừng khác, từ làng này qua làng khác, từ thành này đến thành kia, từ đô thị này đến đô thị khác, một người có tướng xứng đáng lên ngôi vua. Các quan đều nói: “Chúng ta phải làm thế nào tìm được vị vua cai trị nước nhà đúng chánh pháp”.
Trong lúc ấy có một vị quan đại thần, nhân trời nóng bức nên vào trong ao Liên hoa. Vị đại thần chợt thấy người nằm dưới gốc cây tướng mạo thật hoàn hảo, thù thắng. Người ấy nằm ngủ mà không biết mặt trời dọi vào, thế nhưng bóng cây luôn che mát cho người. Vị đại thần khảy móng tay cho người ấy thức dậy và dẫn người ấy vào thành Vương xá, cho cạo râu và mặt vương phục đội mũ châu báu, rồi nói với người ấy:
- Nếu tôi làm vua thì sẽ cai trị đất nước đúng như pháp, tất cả dân chúng trong nước phải nên thọ trì Thập thiện nghiệp đạo thì tôi chịu lên làm vua.
Các quan đồng thưa:
- Chúng thần xin thuận ý ngài.
Ngay khi ấy mọi người đều thọ Thập thiện nghiệp đạo. Vị ấy khuyên mọi người thọ Thập thiện nghiệp đạo như vậy rồi, mới lên ngôi vua hiệu là Ngân sắc.
Bấy giờ nhân dân trong nước vua Ngân sắc sống lâu bảy vạn na-do-tha tuổi. Nhà vua trị vì đất nước đến vô lượng trăm ngàn năm mới mạng chung. Trước giờ lâm chung vua nói kệ:
Tất cả đều vô thường
Ắt có sự tan hoại
Hội họp sẽ chia lỵ
Có sinh đều có tử.
Tùy theo nghiệp đã làm
Hoặc thiện hoặc bất thiện
Tất cả cái có sinh
Không tồn tại lâu dài.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Sau khi nhà vua mạng chung, thác sinh trở lại kinh đô Liên hoa, trong một gia đình trưởng giả. Vừa tám chín tháng, bà vợ ông trưởng giả đã sinh một đồng tử. Đồng tử có tướng mạo khôi ngô tuấn tú. Mãi hơn tám tuổi đồng tử mới đến trường học cùng năm trăm đồng tử khác. Ở nơi trường học trước đó có năm trăm đồng tử đọc sách. Đồng tử hỏi người bạn học cũ rằng:
- Các người ở đây làm gì?
Chúng nói:
- Chúng tôi đọc sách.
Đồng tử lại hỏi:
- Đọc sách được ích lợi gì? Các bạn không cần đọc sách này làm chi, các bạn chỉ cần phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Các bạn hỏi:
- Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì phải làm gì?
Đồng tử liền nói:
- Tất nhiên cần phải tu hạnh sáu Ba-la-mật, đó là:
1. Đàn ba-la-mật.
2. Thí ba-la-mật.
3. Sằn-đề ba-la-mật.
4. Tỳ-lê-da ba-la-mật.
5. Thiền ba-la-mật.
6. Bát-nhã ba-la-mật.
Người bạn cũ nghe xong nói:
- Tôi phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Khi vị đồng tử đã giáo hóa cho mọi người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, suy nghĩ: “Bây giờ ta muốn đem chút ít bố thí cho những loài cầm thú hai chân, bốn chân”. Suy nghĩ như vậy, đồng tử đi vào rừng Thi-đà, dùng dao bén cắt thân chảy máu thoa lên khắp thân, lại dùng dầu bôi lên rồi nằm trong rừng mà tự xướng rằng:
- Các loài cầm thú hai chân, bốn chân như hươu, nai… ở gần xa, có cần thức ăn hãy đến đây ăn thịt của ta.
Khi đó có con chim tên Hữu Thủ ở trong đàn chim, bay đến đậu trên trán đồng tử và móc mắt phải của ông ta rồi bay đi. Đồng tử hỏi chim:
- Vì sao ngươi móc mắt của ta rồi bay đi?
Chim đáp:
- Đối với tôi trong phần thịt của con người, tất cả chỉ có thịt ở mắt là ngon hơn hết.
Đồng tử hỏi chim:
- Giả sử ngươi có móc ngàn con mắt phải của ta rồi lại bay đi, ta cũng không có phật ý, ân hận.
Chim ở đó ăn hai con mắt của đồng tử rồi, vô lượng chim khác trong rừng bay đến chỗ đồng tử ăn hết sạch thịt trên thân đồng tử, chỉ còn lại đống xương trắng.
Đồng tử xả thân bố thí rồi, lại sinh trở lại kinh đô Liên hoa, vào nhà một người Bà-la-môn. Đúng mười tháng, bà vợ người Bà-la-môn sinh được một đồng tử tướng mạo khôi ngô tuấn tú không ai sánh kịp. Đến năm đồng tử đã hai mươi tuổi, cha mẹ nói:
- Ma-na-bà, chúng ta sẽ xây dựng nhà cửa.
Đồng tử thưa cha mẹ:
- Cha mẹ vì con mà xây dựng nhà cửa có ý nghĩa gì? Hiện giờ tâm con không ở tại nhà, xin cha mẹ hãy cho vào núi sâu.
Cha mẹ đồng tử bằng lòng cho đi. Đồng tử rời nhà đi đến núi rừng. Vừa đến nơi đã thấy phía trước có hai Tiên nhân Bà-la-môn cũ đang ở trong rừng kia. Khi đó Ma-na-bà đến chỗ hai vị Tiên nhân Bà-la-môn, hỏi hai vị đó rằng:
- Hai vị Phạm tiên ở trong núi rừng làm gì thế?
Họ đáp:
- Ma-na-bà, chúng tôi đều vì lợi ích của chúng sinh nên ở tại núi rừng này thực hiện tất cả các việc khổ hạnh.
Đồng tử nói:
- Hôm nay tôi cũng vì lợi ích của tất cả chúng sinh nên muôn đến đây thực hành khổ hạnh.
Bài liên quan
Cuộc đời trầm luân của Tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc
Ma-na-bà liền đến rừng cây, đắp đất làm nhà. Nhờ phước đức tu nghiệp thiện, Ma-na-bà bỗng nhiên đắc đại nhãn. Ngay khi ấy ông trông thấy có một vùng núi, cách đó không xa lắm, có một con hổ mẹ đang có thai sắp sinh. Thấy vậy, Ma-na-bà suy nghĩ: “Con hổ mẹ này chẳng bao lâu sẽ sinh con. Khi sinh xong có lẽ nó sẽ bị chết đói, hoặc chịu biết bao điều khốn khổ vì đói khát, hoặc nó sẽ ăn thịt con. Ai có thể cắt thân cho con hổ này?”. Sau khi suy nghĩ, đồng tử liền hỏi: “Vị nào có thể cắt thân mình cho hổ ăn”. Tiên nhân kia đáp:
- Chúng tôi không thể cắt thân bố thí.
Bảy ngày sau con hổ mới sinh. Sinh xong, nó ngậm con đặt trên đất và ôm giữ con. Ma-na-bà thấy như vậy rồi, liền đến chỗ hai vị tiên nói:
- Đại tiên, hổ mẹ đã sinh. Nếu hai người vì lợi ích chúng sinh thực hành bao khổ hạnh, thì nay đã đúng lúc nên cắt thịt thân mình đem cho con hổ này.
Lúc đó hai vị tiên Bà-la-môn đi ngay đến bên trái con hổ mẹ, suy nghĩ: “Ai có thể nhẫn nhục chịu việc khổ này mà thực hành đại thí? Ai có cắt thân thể yêu quý của mình cho hổ đói ăn?”. Suy nghĩ như vậy rồi, hai vị Tiên nhân rời hổ mẹ đi ra xa và vì tiếc thân mạng nên hai vị tiên này bay lên hư không đi mất.
Từ xa, Ma-na-bà nói với theo hai Tiên nhân Bà-la-môn:
- Đây không phải là lời thệ nguyện của các vị sao?
Nói xong, Ma-na-bà phát nguyện:
- Nay tôi xin xả bỏ thân này để giúp hổ đói. Nguyện cho tôi nhờ nhân duyên này chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Phát nguyện xong, Ma-na-bà nhặt con dao bén dưới đất tự hủy hoại thân mình để bố thí cho hổ đói.
Này các Tỳ-kheo, Ta sợ các ông sinh tâm hoài nghi. Này các Tỳ-kheo, các ông chớ sinh tâm nghi ngờ, chớ nghĩ điều gì khác. Vì sao? Các ông nên biết, lúc bấy giờ cô Ngân sắc ở vương quốc Liên hoa kia đã cắt hai vu đâu phải người nào lạ, nay chính là Ta vậy.
Này các Tỳ-kheo, chớ sinh tâm hoài nghi và chớ nghĩ điều gì khác. Vì sao? Các ông nên biết, vua Ngân sắc ở kinh đô Liên hoa lúc ấy nay cũng chính là Ta.
Các Tỳ-kheo, các ông chớ sinh tâm nghi ngờ, chớ nghĩ điều gì khác. Vì sao? Các ông nên biết, Ta lúc ấy tên là Ngân sắc, cắt bỏ hai vú để cứu giúp đứa bé kia.
Các Tỳ-kheo, các ông chớ sinh tâm nghi ngờ, chớ nghĩ điều gì khác. Vì sao? Các ông nên biết, đứa bé lúc đó chính là La-hầu-la chớ không phải ai khác.
Các Tỳ-kheo, chớ sinh tâm nghi ngờ, chớ nghĩ điều gì khác. Vì sao? Các ông nên biết, lúc đó vua nước Liên hoa trong vườn Thi-đà vì các bầy chim cắt xả thân thể, đâu phải người nào lạ, nay chính là Ta vậy.
Này các Tỳ-kheo, chớ sinh tâm nghi ngờ, chớ nghĩ điều gì khác. Vì sao? Các ông nên biết, lúc ấy hai vị tiên Bà-la-môn đâu phải người nào lạ, nay chính là các Tỳ-kheo.
Này các Tỳ-kheo, các ông chớ sinh tâm nghi ngờ, chớ nghĩ điều gì khác. Vì sao? Các ông nên biết, lúc ấy Ma-na-bà, con của người Bà-la-môn, cũng chính là Ta vậy.
Này các Tỳ-kheo, vì thế cho nên Ta bảo cho các ông: Nếu các Tỳ-kheo biết rõ công đức bố thí và quả báo bố thí thì phải bố thí miếng ăn ban đầu, hoặc bố thí miếng ăn sau cùng, như vậy tự mình mới nên ăn.
Khi Đức Phật nói kinh này, các vị Tỳ-kheo thảy đều rất hoan hỷ
Ý kiến này đã được đăng trên báo Giác Ngộ nhiều năm trước đây, trong chuỗi góp ý về Bộ luật Dân sự (sửa đổi) khi còn là dự thảo, đặc biệt liên quan tới giáo sản và kế thừa sở hữu hợp pháp liên quan Phật giáo. Nay xin giới thiệu lại cùng quý độc giả.
>>Kiến thức
Vừa qua, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP.HCM đã tổ chức hội nghị lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi).
Bộ luật Dân sự cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, là những quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong quan hệ dân sự; bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng cũng như tính bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, làm cho xã hội ổn định và phát triển.
Hoà thượng Thích Giác Toàn
Hoà thượng Thích Giác Toàn
Bài liên quan
7 thứ tài sản của bậc Thánh
Với sự vận động của xã hội, đặc biệt là sau khi Hiến pháp 2013 được ban hành, Bộ luật Dân sự 2005 cho thấy chưa đáp ứng được yêu cầu của đời sống thực tiễn trong xã hội chúng ta hiện nay, do đó, sửa đổi là một yêu cầu chính đáng. Để có những góp ý cho nội dung 712 điều cụ thể trong Bộ luật Dân sự (sửa đổi) sẽ là quá khó đối với một công dân bình thường.
Với nhân duyên của một người hoạt động tôn giáo, ở đây chúng tôi chỉ xin lưu ý nội dung các điều khoản thuộc phần thứ tư liên quan đến việc thừa kế.
Trong 4 chương liên quan trực tiếp tới phần thừa kế, không thấy có nội dung cụ thể nào đề cập đến thừa kế tài sản tôn giáo (giáo sản).
Đối với Phật giáo, cơ sở vật chất liên quan tới đất đai chùa, tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường… khi được Giáo hội chính thức công nhận được xem là tài sản của Giáo hội. Vị trụ trì được bổ nhiệm coi sóc, hướng dẫn sinh hoạt Phật sự ở cơ sở đó do Giáo hội quyết định, căn cứ phối hợp theo Hiến chương, Nội quy Tăng sự, pháp luật hiện hành và công đức, phẩm hạnh của cá nhân đó.
Đối với Phật giáo, cơ sở vật chất liên quan tới đất đai chùa, tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường… khi được Giáo hội chính thức công nhận được xem là tài sản của Giáo hội.
Đối với Phật giáo, cơ sở vật chất liên quan tới đất đai chùa, tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường… khi được Giáo hội chính thức công nhận được xem là tài sản của Giáo hội.
Sau khi cá nhân vị trụ trì đã mất, hoặc vì một lý do nào đó không còn đảm nhận vai trò trụ trì nữa, thì việc bổ nhiệm vị trụ trì mới cũng do Giáo hội quyết định. Nhưng thực tế, hiện có một số cơ sở chùa chiền, tịnh xá, tịnh thất vẫn được chuyển giao từ người trụ trì (chủ hộ) cho một cá nhân khác, hoặc một cá nhân mặc nhiên được thừa kế một phần hoặc toàn bộ tài sản cơ sở tôn giáo chỉ vì người đó có quan hệ huyết thống với vị trụ trì.
Bài liên quan
Đình chỉ chức vụ trụ trì chùa Nga Hoàng đối với Đại đức Thích Thanh Toàn
Thí dụ, một ông A đã lập gia đình, có giấy tờ hôn nhân và sinh con cái hợp pháp, sau đó ông A đi xuất gia, được Phật tử thập phương hùn phước cúng dường một sở đất để lập chùa. Các thủ tục pháp lý được tiến hành, và cơ sở sinh hoạt tín ngưỡng cũng được hình thành với người đại diện pháp lý là sư A. Vị sư A qua đời đột ngột, vấn đề thừa kế cơ sở đó được đặt ra, và đương nhiên, những thành viên huyết thống của sư A (là con, vợ trước khi xuất gia) chắc chắn được quyền thừa kế nếu chiếu theo các điều khoản trong Bộ luật Dân sự hiện hành cũng như trong Bộ luật Dân sự sửa đổi.
Đó là chỉ mới đơn cử một thí dụ, còn trong thực tế còn nhiều trường hợp phức tạp hơn nhiều. Để đảm bảo được tính công bằng trong mối quan hệ dân sự đúng với thực tế, thiết nghĩ cần bổ sung những điều khoản liên quan tới các tôn giáo, trong đó có Phật giáo, đặc biệt trong nội dung liên quan tới thừa kế.
Có như vậy, sự điều chỉnh, sửa đổi lần này mới bảo đảm tính khả thi thiết thực của hệ thống pháp luật được cụ thể hóa qua Bộ luật Dân sự.
Vì sao Thái tử Tất Đạt Đa quyết định đặt tên con là "La Hầu La"?
Thứ bảy, 12/10/2019 | 10:03
Thái tử đã nhiều lần vào xin phép đức vua Suddhodana để đi xuất gia tầm đạo nhưng lần nào cũng bị từ chối. Thái tử cố giấu giếm nỗi niềm tâm sự trước lệnh bà Mahā Pajāpati Gotamī hoặc Amitā Pamitā vì cả hai đang vui mừng thay phiên nhau đến săn sóc Yasodharā mang thai đứa con đầu lòng.
>>Phật tử có thể đọc thêm loạt bài về Đức Phật
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Bài liên quan
Sự ra đời của La Hầu La - người con duy nhất của đức Phật khi chưa xuất gia
Bản thân Thái tử cũng luôn kề cận, chăm sóc Yasodharā cho nàng yên tâm dưỡng thai. Có lẽ đây là những ngày tháng cuối cùng chàng biểu lộ thâm tình với một người - mà chàng biết đã cùng kết tóc se tơ, cùng chung niềm vui, nước mắt, đã cùng thương yêu dìu dắt nhau qua bao kiếp luân hồi, sinh tử. Cái đẹp tuyệt vời ở nơi nàng không chỉ ở ngoại hình tuyệt mỹ mà còn ở nơi tâm hồn, cá tính và cả tri thức hiểu biết nữa. Nhưng trước sau gì cũng phải từ giã. Tiếng gọi sâu thẳm từ kiếp nào đã hiện về trong ba linh kiến của chàng. Chúng như lời cảnh tỉnh, bảo với chàng rằng là đừng có chần chờ, lần lữa mãi trong vòng vây của hữu hạn, của sinh già bệnh chết nữa....
Mấy ngày trước lúc Yasodharā lâm bồn, hai viên ngự y tài giỏi được đức vua Suddhodana cử sang cũng phải túc trực ở bên cạnh. Một bà mụ mát tay nhất của cung đình cũng nhận nhiệm vụ như vậy.
Yasodharā rất tươi tỉnh, không biểu hiện một lo lắng, sợ hãi nào làm ai cũng yên tâm. Đức vua Suddhodana cũng không ngồi yên được, đi tới đi lui mãi. Cái cảm giác sẽ có một đứa cháu nội, niềm mơ ước bấy lâu, làm cho lòng đức vua bổi hổi, bồi hồi. Không đừng được, vua bảo quân hầu cho thắng xe để ngài sang thăm con dâu.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Thái tử ân cần đón đức vua từ ngoài sân. Đức vua cao lớn, phương phi, mạnh khỏe nhưng Thái tử còn cao hơn cả nửa cái đầu. Dấu ấn của dòng giống Aryan hiện rõ nơi vóc dáng, nước da, sống mũi, màu mắt xanh của hái tử đậm nét hơn đức vua.
Sau khi ghé thăm Yasodharā một lát, quan sát thấy mọi sự được chuẩn bị chu đáo, đức vua hài lòng, tỏ ra khen ngợi hai bà mẹ không hết lời. Khi chuẩn bị về cung, đức vua nói với Thái tử:
- Con sắp có một bổn phận mới, bổn phận làm cha; ấy là bổn phận thiêng liêng nhất, con nhớ đấy!
- Dạ, con hiểu.
- Là dòng giống thượng đẳng, cháu của ta cần có một chương trình giáo dục tốt, xứng đáng - để khỏi hổ thẹn với tổ tông.
- Dạ, con hiểu.
Trầm ngâm một lát, như đã quyết định, đức vua lại phán:
- Sau khi đứa trẻ ra đời, ta sẽ chọn ngày giờ hoàng đạo để con chính chức đăng quang vương vị, không thể chậm trễ hơn nữa... - Giọng ngài như chợt chùng xuống - Ta đã già quá rồi, lực đã suy, trí đã giảm. Con phải biết thương yêu gia đình, vợ con, cha mẹ, huyết thống và cả giang sơn này nữa chứ!
Đức vua không tỏ ra quyết liệt đề cập đến chuyện xuất gia của Thái tử là “chuyện trái đạo”, là “ý tưởng lãng mạn siêu hình” như vài hôm trước đây; mà ngài đã khôn khéo sử dụng tình cảm để mềm yếu ý chí của chàng đây!
Hôm ấy, một bầu không khí yên lặng bao phủ Cung Vui. Mọi người đi vào đi ra đều cẩn trọng, nhẹ nhàng. Yasodharā vừa kêu bụng đau dữ dội thì viên quan ngự y liền xem mạch và thông báo giờ sinh...
Bài liên quan
Bài học về đức nhẫn nhục của tôn giả La Hầu La đệ nhất Mật hạnh
Bà mụ, hai bà mẹ và mấy thị nữ ở phòng trong. Hai viên ngự y và một số thị nữ khác túc trực ở phòng ngoài. Thái tử ngồi cách xa mấy liếp cửa, tuy không nghe gì nhưng cũng cảm thấy nôn nao khó tả. Trái tim chàng như chùng xuống. Thái tử đi lui đi tới nghe lòng mình như lửa đốt. Một sự lo lắng, bất an mơ hồ nào đó như từng lớp sóng trào lên, trào xuống, không chịu ở yên. Ôi, mẹ chàng, bà Mahāmāyā, lúc sinh chàng, nghe nói là nhẹ nhàng lắm. Tuy nhiên, sinh nở là cửa ải mà bất cứ chúng sinh nào cũng phải bước qua. Sự sinh ra này cũng là một sứ giả mang đến sự kinh hoàng cho nhân thế. Đó cũng là động lực cuối cùng giúp chàng xuất gia, dũng mãnh thực hiện con đường vô thượng – “Ta phải tìm cho ra lộ trình bất tử...”.
Lúc Thái tử cố điều hòa hơi thở để trấn áp cảm xúc thì phía bên trong chợt im lặng. Chàng lắng tai nghe, vừa lo lắng vừa sợ hãi xen lẫn. Bỗng nghe tiếng khóc của em bé vọng lại...
- Mẹ tròn con vuông đấy, hoàng nhi! Nó bước ra chỉ như duỗi tay, duỗi chân vậy đó! Một cậu con trai thật kháu khỉnh.
Thái tử lau mồ trán, thở dài, nhẹ nhõm:
- Con rất cảm ơn mẫu hậu!
Thái tử cúi đầu tưởng tượng hình bóng đứa con trai trong tâm tưởng. Chàng không biết mình có vui hay không, nhưng đây là cả một việc trọng đại. Nhất là đối với chàng, có một đứa con sẽ có một ràng buộc. Có một đứa con, phụ hoàng sẽ làm lễ đăng quang cho chàng lên ngôi vua, sẽ là sự ràng buộc thứ hai... Bất chợt, Thái tử thốt lên: “Rāhulo jāto bandhanaṃ jātan ti āha” (Con trai ra đời, sự ràng buộc cũng đến với ta).
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Tiếng của lệnh bà Gotamī thoảng bên tai Thái tử:
- Hoàng nhi sẽ đặt tên cho nó chứ?
- Phải, thưa mẫu hậu! Hoàng nhi sẽ hội ý với Gopā.
Lát sau, Thái tử được phép vào thăm hai mẹ con. Niềm vui nào đó sáng ngời trong đôi mắt của Yasodharā. Đứa bé nằm một bên, được bọc trong tấm lụa màu hồng điều trông xinh xắn, bụ bẫm, đôi mắt tròn to, xanh đen, đẹp như một tiểu thiên thần.
Thái tử bước đến, mỉm cười nhìn Yasodharā rồi cúi xuống, đưa tay vuốt nhẹ lên má đứa con của mình với một tình cảm dạt dào.
- Nàng có khỏe không, Gopā?
- Vâng, thiếp khỏe. Và thiếp sung sướng lắm!
- Ta cũng vậy. Có cái gì đó lâng lâng ở trong ta. Đây là cảm giác lạ lùng đầu tiên trong đời, Gopā.
Bài liên quan
Hành trình Chứng ngộ của La Hầu La và chế độ cúng dường Tịnh xá theo luật Phật
Thái tử nhè nhẹ bế đứa trẻ vào trong vòng tay của mình với cả sự nâng niu và trân trọng. Ôi, cái sự sống này sao mà mong manh quá! Một mầm sống đang nứt lên, nẩy mầm và hiện thành một chúng sinh. Đằng sau mầm sống này là gì? Nó ở đâu mà đến cuộc đời này? Rồi phải chịu già, bệnh, chết... niềm vui, nước mắt... để lại ra đi nữa? Trong cuộc tử sinh chìm nổi vô định ấy bao giờ khổ cũng nhiều hơn vui? Rồi còn những thống khổ, đọa đày khi lỡ tạo những ác nghiệp rồi chịu đựng quả báo khốc liệt trong các con đường dữ? Nhưng mà, dẫu thế nào chăng nữa, tình cảm huyết thống thiêng liêng này, quả thật, nó như là sợi giây cột buộc, trói chặt ta ở lại mãi trong cuộc luân hồi tử sinh vô tận này hay sao? Thế là những đám mây ưu tư lại u ám, nặng trĩu trong lòng chàng.
- Có thể đặt tên cho con là Rāhula (La Hầu La) được không, Gopā?
- Rāhula? Yasodharā mở lớn mắt - Ồ được lắm chứ! Nàng im lặng một lát - Chàng đặt tên cho con trai là “Ràng buộc” nhưng thiếp biết chẳng có gì trên đời này ràng buộc chàng được cả!
Nghe giọng của Yasodharā có vẻ hờn dỗi, Thái tử dịu dàng:
- Thôi mà, Gopā! Nàng hiểu ta quá mà.
Im lặng khá lâu giữa hai người. Yasodharā nín hơi nhẹ, thở dài:
- Thái tử yên trí, thiếp đã chuẩn bị tâm lý rồi. Có Rāhula, thiếp không còn sợ cô đơn nữa đâu.
- Nàng thật kỳ diệu, Gopā! Ta biết nàng đã thông cảm cho ta từ lâu rồi mà.
Từ giây phút đó trở đi, Thái tử đã quyết định xuất gia. Năm ấy chàng vừa tròn hai mươi chín tuổi.
Đức Phật dạy rằng, “Kẻ nào dùng âm thanh cầu ta, dùng sắc cầu ta, kẻ ấy hành tà đạo, không thể thấy Như Lai.” “Không thể thấy Như Lai” ở đây có nghĩa là dù tu cả ngàn năm vẫn chỉ là phàm phu và có khi mang tội không biết chừng.
>>Phật tử có thể đọc thêm loạt bài về các giáo lý Phật giáo hay
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Bài liên quan
Nhân cách người tu sĩ
Trong cuộc đời này, nói rộng ra ở cõi Ta Bà này, từ Đông sang Tây, con người thường bị mê mờ hay mê luyến vào hình tướng bề ngoài và quên mất hay đồng hóa nó với thực tướng/bản chất/nội tâm ở bên trong. Nguyên do chỉ vì chúng sinh vọng chấp vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà sanh tâm mình (Kinh Viên Giác). Thí dụ:
- Một cậu thanh niên thấy một cô người mẫu, hoa khôi, á hậu…đẹp như tiên nga giáng thế… tưởng đó là “người trong mộng” hay “người yêu lý tưởng”. Khi lấy về thì bao nhiêu tính xấu mới lộ ra, bao xung đột vì khác tính tình. Mối tình trong mộng nay biến thành “oan gia trái chủ” khiến cười đau khóc hận.
- Một cô gái thấy một anh chàng hào hoa, đẹp trai, cử chỉ lịch sự…tưởng đó là “hoàng tử của lòng em”, lấy về mới tá hỏa ra đó là anh chàng Sở Khanh, tốt mã giẻ cùi…thôi thì vỡ mộng.
- Vào siêu thị thấy trái cây vỏ ngoài còn xanh tốt. Mua về bổ ra, cắt ra mới thấy bên trong đã hư thối. Đi các chợ rẻ tiền không tín nhiệm thường bị lường gạt là như thế.
- Nghe quảng cáo các món hàng, dịch vụ trên truyền hình, đài phát thanh…thấy mà mê. Háo hức mua về dùng thử mới thấy đó là đổ dỏm hay đồ giả.
Bài liên quan
Cảnh giới của người tu
Tất cả những thứ này người ta đã dùng hình tướng tốt đẹp bề ngoài (sắc,thanh, hương, vị) để che dấu thực tướng tức cái không tốt, cái xấu ở bên trong. Ngay trong đường lối tu hành ngày nay, một số rất đông cũng đã và đang mải mê theo con đường tu tướng, tức lấy hình thức, hình tướng để hành đạo… mà cho đó hoặc tưởng đó là con đường tu hành chân chính. Một số rất đông Phật tử không phân biệt được thế nào là Tâm (thực chất) và thế nào là Tướng (hình thức bề ngoài) vô tình đã bị các vị này mê mờ. Thậm chí tại California nơi tôi ở, một số chùa làm cơm chay miễn phí thật ngon để “câu” Phật tử. Một số bà khi gặp nhau thì bình phẩm chùa nào nấu cơm chay ngon rồi rủ nhau đi chùa đó. Nghe cả trăm thầy giảng và băng đĩa, thậm chí hành hương cả Tứ Động Tâm nơi Đức Phật sinh ra, thành đạo, hành đạo và nhập diệt… mà tu hành mà như thế thì đúng là cười ra nước mắt. Vậy thì đâu là tu tướng và đâu là tu tâm?
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Tu tướng tức là dựa vào hình tướng bên ngoài:
- Tụng kinh cho hay, cho hấp dẫn…
- Thuyết giảng cho hay cho hấp dẫn…vẫn chỉ là hình tướng.
- Lễ nghi trang trọng, huyền bí vẫn chỉ là hình tướng.
- Phát hành cả trăm băng đĩa, viết cả chục cuốn sách…
- Thậm chí có cả triệu tín đồ đi theo vẫn chỉ là hình danh sắc tướng. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng, “Bồ Tát trụ vào nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng đều không phải là Bồ Tát.” Xin nhớ cho tín đồ đi theo chính là chúng sinh tướng.
- Được báo chí phỏng vấn bốc lên tận mây xanh, trao giải thưởng…vẫn chỉ là hình tướng. Giải thưởng, thậm chí như Giải Nobel, nhiều khi chỉ vì nhu cầu chính trị và trao lầm không biết chừng. Thụy Điển đã đe dọa thu lại Giải Thưởng Nobel Hòa Bình trao cho Bà San Suu Kyi vì bà này không ngăn cản quân đội đàn áp người thiểu số Hồi Giáo Rohingya tại Miến Điện. Rồi thế giới lại hối hận vì đã trao lầm Giải Thưởng Nobel Hòa Bình cho Ô. Obama khi ông mới nhậm chức tổng thống được vài tháng, sau đó tiến hành cuộc tiến công vào Libya giết chết Ô. Gaddafi khiến đất nước này tan nát cho tới bây giờ.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
- Ngài Thần Tú văn chương uyên bác mà vẫn chưa ngộ. Trong khi Huệ Năng không biết một chữ mà tâm đã là tâm Phật. Vậy thì chữ nghĩa, kiến thức, bằng cấp không phải là nhân tố quyết định trong việc tu học. Ngộ và quyết tâm tu học mới là yếu tố quyết định.
- Trụ trì chùa thật to, thật đồ sộ…vẫn chỉ là hình tướng...
- Thậm chí cả “Thiền trà, thư pháp” cũng vẫn chỉ là hình tướng, nó chẳng biểu lộ sự chứng đắc của Thiền sư.
- Làm thơ rồi nhờ nhạc sĩ phổ nhạc, ca sĩ nổi tiếng hát…chính là “bệnh” phô trương. Kinh Phật, kệ tụng của chư Tổ…có cần nhờ ai phổ nhạc, ca sĩ hát, thu vào băng đĩa…sao đọc tụng cho tới bây giờ?
Bài liên quan
Tu hành như khúc gỗ trôi sông
- Đi đâu cũng đòi phải có lọng che như “vua quan võng lọng ngày xưa”, tức lụy vào hình danh, sắc tướng…mà giảng về “thiền chánh niệm” về “tỉnh thức” là…phỉ báng Thiền.
- Thậm chí có 32 tướng tốt như Phật vẫn chỉ là nhan sắc, chưa phải là Phật. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật bảo ngài Tu Bồ Đề, “Chuyển Luân Thánh Vương có 32 tướng tốt cũng gọi là Phật sao?”
- Hoa hậu, hoa khôi, á hậu, ca sĩ, MC, người mẫu, tài tử nổi tiếng, ăn mặc đẹp như Tiên, nữ trang đeo đầy cổ, đầy tay…đứng khép nép, chắp tay cung kính trước tượng Phật, trông dịu hiền như Phật Bà Quan Âm…rồi hình chụp đăng tràn lan trên các báo…nhưng nhiều khi chỉ là “đóng kịch”, chưa chắc đã là Phật tử chân chính giữ được năm giới cấm. Chớ có lụy vào hình tướng bề ngoài này. Các cô nên thay một bộ áo lam bình dị, tới chùa quét dọn, lau chùi nhà vệ sinh, phục vụ cơm chay cho các cụ già, các khóa tu mùa hạ… như thế mới chính là tu hành theo Phật và tu tâm. Tu tướng chỉ mang tội vì lừa dối chính mình. Tu tâm mới vun trồng phước báu và phát triển trí tuệ. Tu tướng làm mê mờ trí tuệ.
Như vậy thế nào là tâm tướng và tu tâm?
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
- Nguy nhiên, tự tại, tâm không động…đó là hiện bày của tâm tướng.
- Từ bi hiện ra trên nét mặt, qua hành động cử chỉ, lời nói…đó là hiển lộ của tâm tướng.
- Trước cảnh khổ, oan trái… nhẫn nhục không kêu than giống như “Tiểu Kính Tâm”…đó chính là biểu lộ của tâm tướng.
- Coi quyền chức, danh vọng như phù vân…đó chính là hạnh của tu tâm.
- Thấy tiền bạc phải thấy sợ vì muôn ngàn tai họa xảy đến đều do tiền bạc. Đức Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ nói rằng ngài sợ hãi, lánh xa tiền bạc…đó chính là biểu hiện của tâm thanh tịnh hay tâm Phật.
- Tiền của đàn na thí chủ, Phật tử cúng dường…chỉ dùng vào Phật sự, chu cấp cho kẻ nghèo khó, phát học bổng cho học sinh hiếu học…không giữ làm của riêng…đó chính là tu hạnh thanh tịnh và bố thí Ba-la-mật.
- Thấy sắc đẹp của nam-nữ phải thấy đó là ngục tù và tai họa.
- Nghe lời khen không động tâm, nghe lời chê không tức giận…là tâm đã đi vào Định.
- Chùa nghèo, dù trong hang động, nơi thâm sơn cùng cốc…không Phật tử cúng dường, không các bà giàu có đến thăm viếng, không cơm chay chục món…mà vẫn thong dong tự tại…đó chính là Bồ Tát ẩn tu.
- Thuyết pháp cả trăm ngàn người nghe mà tâm vẫn không cao ngạo… coi đó như “giấc mộng ngày hôm qua”, không coi thường Phật tử, không nghĩ mình đã là Thánh, là Phật…đó là tâm địa của Bồ Tát. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng, “Bồ Tát diệt độ được vô lượng vô biên chúng sinh, nhưng không có chúng sinh nào được diệt độ. Như thế mới gọi là Bồ Tát.”
- Chùa rộng biến thành quán trọ cho học sinh nghèo tá túc trong mùa thi. Rồi cơm chay miễn phí…đó là công hạnh từ bi.
- Xây nhà tình nghĩa, xây cầu, giếng nước cho các thôn bản, gia đình nghèo khó…đó là huân tập hạnh “hằng thuận vì lợi ích chúng sinh”.
- Phát áo ấm cho học sinh nghèo trong mùa lạnh, thăm hỏi cô nhi quả phụ, người già trong bệnh viện…là thể hiện tinh thần cứu khổ.
- Cùng các bạn trẻ, sinh viên xuống đường thu dọn rác, làm sạch môi trường chính là “làm trang nghiêm cõi Phật”. Cõi Phật không có uế trược, không có ô nhiễm, không có xả rác bừa bãi.
- Mở mang trí tuệ cho mọi người, không mê mờ chúng sinh bằng những chuyện mê tín, huyễn hoặc như …xin xâm, bói quẻ, xem ngày giờ tốt-xấu, tuổi nào hợp với tuổi nào, người chết phải chôn vào giờ nào. Phật tử và người tu hành chân chánh phải “Duy tuệ thị nghiệp”. Thiền Sư Bảo Giám đời Lý (1173) dạy rằng, “Muốn thành Phật cháng đẳng chánh giác phải nhờ trí tuệ”. Chúng sinh sống bằng tình cảm, mê tín và gom góp của cải. Các bậc đại sĩ, hiền thánh, Bồ Tát và Phật sống bằng trí tuệ (Bát Nhã). Tài sản của các ngài là lòng Từ Bi.
- Tổ chức các khóa tu mùa hạ, xuất gia gieo duyên cho giới trẻ …là gieo trồng căn lành, gầy dựng hạt giống Phật cho ngày mai, là góp phần xây dựng xã hội. Đó là hạnh cứu thế. Đức Phật ra đời cũng chỉ vì hạnh nguyện cứu độ chúng sinh.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Tóm lại, đạo Phật không phải là đạo của thời trang, kiểu cọ, hình thức bề ngoài. Đạo Phật không bao giờ dùng hình tướng hay nghi thức tế lễ huyền bí để lòe mị chúng sinh. Như Tổ Đạt Ma đã nói, cốt tủy của đạo Phật là, “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” hay “Tức tâm tức Phật” hay “Ngoài tâm không Phật”. Ngày xưa, khi Đức Phật còn tại thế, các đệ tử của Phật kể cả hàng tục gia (cư sĩ) chỉ tu theo Bát Chánh Đạo và Thiền Định mà đắc quả. Không hề có chuyện Đức Phật cúng vong, cúng mông sơn thí thực, cầu siêu, làm lễ chôn cất người chết. Cũng không hề có chuyện Đức Phật làm lễ thành hôn (nay gọi là hằng thuận) cho ai. Các đệ tử của Phật cũng không hề cầu nguyện để được giải thoát mà chỉ nương theo lời chỉ dạy và công hạnh của chư Phật và các hàng Bồ Tát để tu tập. Khi du nhập vào Trung Hoa và Việt Nam, đạo Phật đã biến thể và đẻ ra rất nhiều nghi thức cầu nguyện và cúng tế không khác gì các pháp sư, thầy cúng, thầy bói.
Nhập thế và độ sinh không có nghĩa là chiều theo và dung dưỡng tinh thần mê tín, dị đoan của chúng sinh. Chúng ta phải coi lại và biết dừng lại và đánh giá xem đâu là chánh pháp và đâu là tà pháp. Cột trụ “Trí Tuệ”, “Tánh Không” và “Trí Tuệ Bát Nhã” của Phật Giáo sẽ gẫy đổ nếu chúng ta cứ sa đà vào các hình tướng cúng kiếng cầu nguyện đầy hình thức như thế này.
Bài liên quan
Cốt cách người tu hành: HT Thích Trí Tịnh
Đạo Phật nổi bật và hi hữu trên thế gian này là vì nó không dựa và Thần Linh và những nghi thức cúng tế, cầu nguyện. Đạo Phật cũng nổi bật vì lời dạy của Đức Phật “Tự thắp đuốc lên mà đi”. Điều đó có nghĩa là, nghe lời giảng dạy của Phật, của chư Tổ.. rồi như con chim đủ lông đủ cánh, lìa tổ và tự lo cho cuộc đời mình…tức không cần thầy nào, chùa nào độ cho mình cả. Cầu nguyện chỉ là trợ lực, nhưng sẽ là vô ích nếu mình không tự tu, tự chứng. Đã đến lúc chúng ta phải giảm bớt và thanh lọc bớt nhưng nghi thức, tế lễ, cúng kiếng trong tinh thần “độ sinh nhưng không xa lìa trí tuệ”. Đó là công việc vô cùng nặng nề và bức thiết của Giáo Hội. Xin nhớ cho, mất Trí Tuệ thì Đạo Phật cũng giống hệt như các tôn giáo khác.
Riêng đối với người Phật tử hay người xuất gia tu hành chân chính… phải soi rọi vào tâm mình, nhìn thẳng vào tâm mình và phải thấy trong tâm mình có Phật. Khi đã nhìn thấy tâm mình là tâm Phật (kiến tánh, thấy tánh) thì quyết tâm tu hành để hiển lộ tâm ấy. Tâm Phật là tâm “bất nhị”, bản tế bình đẳng, thân tâm vắng lặng, viên mãn mười phương cõi, tịch mịch chiếu soi mà hiện ra các Tịnh Độ (Kinh Viên Giác). Tâm Phật không huyền bí mà có thể hiển lộ ra ngoài bằng những gì nói ở phần trên. Do đó người Phật tử chân chánh phải xa lìa lối tu tướng mà phải hướng về tu tâm. Tu theo chánh đạo là tu tâm. Tu theo tà đạo là tu tướng. Chính vì thế mà trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng, “Kẻ nào dùng âm thanh cầu ta, dùng sắc cầu ta, kẻ ấy hành tà đạo, không thể thấy Như Lai.” “Không thể thấy Như Lai” ở đây có nghĩa là dù tu cả ngàn năm vẫn chỉ là phàm phu và có khi mang tội không biết chừng.
Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (I)
Chủ nhật, 08/09/2019 | 14:28
Phật giáo là một hệ thống triết lý sống cao thượng sản sinh từ Ấn Độ. Và từ đó, theo hai con đường khác nhau, Phật giáo truyền bá sang các quốc gia trong khu vực và dần dần lan rộng tới các châu lục khác trên thế giới.
>>Lời Phật dạy
Ở mỗi quốc gia, do sự tiếp biến văn hóa mà Phật giáo có thể có những điểm bất đồng. Tuy vậy, về cơ bản, triết lý sống của Phật giáo đều đặt trên một nền tảng chung mang tính thống nhất.
Nền tảng đó chính là các nguyên tắc đạo đức, các phương pháp đưa tới sự chú tâm và tuệ giác giải thoát. Trong đó Bát chánh đạo được xem là nền tảng căn bản nhất.
1. Đạo đức Phật giáo và các phương diện biểu hiện của nó trong Bát chánh đạo
Đạo đức là một phạm trù có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong Phật giáo. Nó đóng vai trò nền tảng giúp con người thăng hoa trên con đường hướng đến đời sống giác ngộ, giải thoát.
Trong Bát chánh đạo, nội dung của đạo đức biểu hiện qua ba chi phần: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.
Trong Bát chánh đạo, nội dung của đạo đức biểu hiện qua ba chi phần: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.
Chánh Ngữ
Bài liên quan
Xây dựng chánh ngữ để ứng phó khủng hoảng truyền thông
Chánh ngữ là lời nói chân chính, lời nói đưa đến . Trong kinh Tăng Chi, đức Phật liệt kê bốn phương diện khác nhau đưa tới sự tịnh hạnh hay sự đúng đắn, chân chính của lời nói:
“Một là từ bỏ nói dối, nói láo;
Hai là từ nói hai lưỡi;
Ba là từ bỏ nói lời độc ác;
Bốn là từ bỏ nói lời phù phiếm”.
Đó là việc nhìn nhận chánh ngữ ở phương diện tiêu cực. Từ một phương diện khác mang tính tích cực, đức Phật khuyến khích hành giả cần phải nỗ lực ở 4 phương diện:
“- Ở đây, có người đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo. Nếu không biết, người ấy nói: “Tôi không biết”; nếu biết, người ấy nói: “Tôi biết”; nếu không thấy, người ấy nói: “Tôi không thấy”; nếu thấy, người ấy nói: “Tôi thấy”. Như vậy lời nói của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc nguyên nhân vì mình, hoặc nguyên nhân vì người, hoặc nguyên nhân vì một vài quyền lợi gì.
- Người ấy đoạn tận nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi. Nghe điều gì ở chỗ này, người ấy không đi đến chỗ kia nói, để gây chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, người ấy không đi nói với những người này, để gây chia rẽ ở những người kia. Như vậy người ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hợp, thích thú hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp.
Chánh ngữ là lời nói xuất phát từ tình thương và tuệ giác
Chánh ngữ là lời nói xuất phát từ tình thương và tuệ giác
- Người ấy đoạn tận lời nói độc ác, từ bỏ lời nói độc ác. Người ấy chỉ dùng những lời nói nhu hòa, êm tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui ý nhiều người.
- Người ấy đoạn tận lời nói phù phiếm. Người ấy nói đúng thời, nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói Pháp, nói Luật, nói những lời đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, lợi ích”.
Như vậy, chánh ngữ thực chất là lời nói xuất phát từ tình thương và tuệ giác. Nó mang tính chất chân thật và đưa tới sự đoàn kết, hòa hợp; lời nhu hòa, êm ái và cuối cùng là lời có ích thiết thực đối với đời sống chuyển hóa nội tâm.
Chánh Nghiệp
Bài liên quan
Con đường Bát chánh đạo của Phật tử Lê Phước Vũ
Chánh nghiệp là hành động đúng đắn, chân chính. Truyền thống Phật giáo thường hiểu chánh nghiệp là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm. Điều này có nghĩa là, trong Bát chánh đạo, chánh nghiệp chỉ chú trọng tới thân nghiệp. Tuy nhiên, căn cứ vào tinh thần giáo pháp của đức Phật và thực tiễn, ta có thể mở rộng chánh nghiệp ở ba phương diện: thân, khẩu và ý.
Trong đó ý đóng vai trò quan trọng nhất. Chính tâm thức hay ý dẫn dắt các hành động của thân và khẩu.
Trong Kinh Pháp Cú có chép:
“Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo,
Nếu với ý ô nhiễm
Nói năng hay hành động,
Khổ não bước theo sau
Như chiếc xe theo chân con vật kéo”.
” Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo,
Nếu với ý thanh tịnh
Nói năng hay hành động
An lạc bước theo sau,
Như bóng không rời hình”.
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ hành vi và ngôn ngữ. Tùy thuộc vào sự tác ý, tư duy của mỗi người mà gặt hái hoa trái hạnh phúc hay khổ đau. Do đó, thực tập chánh nghiệp chính là nuôi dưỡng tâm ý chân chính. Không tạo điều kiện, cơ hội cho thân, khẩu, ý hoạt động theo chiều hướng tiêu cực, nhiễm ô.
Chánh mạng là chi phần thứ ba thuộc về đạo đức trong Bát chánh đạo. Chánh mạng là sống bằng các phương tiện, nghề nghiệp, điều kiện sống chân chính. Nói rộng ra, chánh mạng là từ bỏ cuộc sống không trung thực, giữ và hướng cuộc sống của mình phù hợp với chánh pháp. Đối với người cư sĩ, chánh mạng là sống bằng các điều kiện có được từ các nghề nghiệp chân chính. Trong Phật giáo, những nghề nghiệp chân chính là những nghề không vi phạm vào các nguyên tắc đạo đức, chuẩn mực tạo nên nhân cách cao thượng. Trong kinh Vinajjā, đức Phật cho biết có năm loại ngành nghề mà một người cư sĩ không nên tham gia vì chúng là tà mạng. Năm loại nghề nghiệp đó là:
“Buôn bán thịt,
Buôn bán người,
Buôn bán vũ khí,
Buôn bán rượu, các chất gây say, nghiện
Buôn bán chất độc”.
Nói cách khác, thực tập chánh mạng là tránh xa các nghề nghiệp nuôi sống có thể gây tổn hại đến cá nhân và tha nhân. Trong ý nghĩa đó, thực chất rất khó để có một bản liệt kê đầy đủ và chính xác các ngành nghề thuộc chánh mạng hoặc tà mạng. Bởi vì, trên thực tế, ranh giới thiện ác; tốt xấu rất mong manh. Không dễ để phân định rạch ròi nghề nghiệp nào hoàn toàn tốt hoặc hoàn toàn xấu. Tốt – xấu, thiện – ác còn phụ thuộc vào thái độ, tâm lý, mục đích, động cơ của các hoạt động liên quan tới nghề nghiệp của cá nhân.
Tuy vậy, khi nhận thấy những nghề nghiệp nào có thể gây nguy hại tới bản thân mình, gia đình và xã hội thì ta biết chắc là nghề nghiệp đó không phù hợp với người Phật tử. Ngược lại, nghề nghiệp nào có thể mang tới lợi ích cho mình, gia đình và xã hội thì chúng ta nên lấy đó làm phương tiện nuôi sống. Vì đó chính là chánh mạng theo tinh thần của lời Phật dạy.
Đối với người tu sĩ, chánh mạng là sống đúng theo tiêu chuẩn nuôi sống của người xuất gia. Điều kiện để thực hành chánh mạng lý tưởng là thiết lập đời sống thiểu dục tri túc. Thiểu dục tri túc là sống biết đủ, biết chấp nhận những cái đang có để duy trì mạng sống nhằm mục đích tu học đạt tới an lạc, giải thoát. Thông thường, thiểu dục tri túc thường được hiểu như là cách sống đơn giản, vừa đủ đối với việc ăn, mặc, chỗ ở và thuốc men, tức thiên về đời sống vật chất.
Đạo đức trong Bát chánh đạo là các giá trị được thiết lập trên nền tảng của sự tu tập, chuyển hóa thân, khẩu, ý thông qua thực hành chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng.
Đạo đức trong Bát chánh đạo là các giá trị được thiết lập trên nền tảng của sự tu tập, chuyển hóa thân, khẩu, ý thông qua thực hành chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng.
Bài liên quan
Cầu nguyện là chánh tín hay mê tín?
Thời đức Phật tại thế, các đệ tử của Ngài nuôi sống bản thân bằng cách khất thực. Ai cúng dường thứ gì thì các thầy ăn thứ ấy, dĩ nhiên là theo một số nguyện tắc nhất định. Chỗ ở cũng hết sức đơn giản, có khi là gốc cây, có khi là am thất bằng các vật liệu thô sơ. Càng về sau, điều kiện tu học càng phát triển, đời sống của tu sĩ có phần đầy đủ hơn. Tuy vậy đối với một tu sĩ chân chánh mà nói, vẫn phải sống trong điều kiện vừa phải và bằng các phương tiện chân chánh, chủ yếu là từ chế độ cúng dường từ các Phật tử tại gia. Các phương tiện khác như cúng sao giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu, truyền bá mê tín dị đoan, mai mối… xuất hiện trong đời sống sinh hoạt Phật giáo sau này là hoàn toàn không phù hợp với lý tưởng xuất gia của người tu sĩ, với bất kỳ lý do nào.
Đạo đức trong Bát chánh đạo là các giá trị được thiết lập trên nền tảng của sự tu tập, chuyển hóa thân, khẩu, ý thông qua thực hành chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. Tuy vậy, sự hoàn thiện này không diễn ra một cách độc lập mà diễn ra đồng thời với các chi phần khác của Bát chánh đạo. Trong đó, chánh niệm, thuộc về thiền định, đóng vai trò then chốt trong Bát chánh đạo.
Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (II)
Thứ hai, 09/09/2019 | 12:36
Sự hoàn thiện hay thành tựu thiền định trong Bát chánh đạo đều có sự hiện diện, thúc đẩy của tinh tấn. Không có tinh tấn, các yếu tố còn lại của Bát chánh đạo nói chung và thiền định nói riêng không thể nào đạt tới kết quả mỹ mãn.
>>Lời Phật dạy
2. Thiền định và các phương diện biểu hiện của nó trong Bát chánh đạo
Trong Bát chánh đạo, nội dung thiền định thể hiện qua ba phương diện: chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Chánh tinh tấn
Bài liên quan
Hiểu về hạnh tinh tấn
Chánh tinh tấn là sự nỗ lực chân chánh, tức là nỗ lực thực hành con đường đưa tới an lạc, giải thoát, mà trước hết là làm cho các thiện pháp phát sinh nơi tâm thức hành giả, như chính Đức Phật đã dạy:
“Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tinh tấn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp từ trước chưa sanh không cho sanh khởi, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm; với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp đã sanh được trừ diệt, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp từ trước chưa sanh nay được sanh khởi, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp đã được sanh có thể duy trì, không có lu mờ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên mãn, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tinh tấn.”
a36289_afd66e3a4ba74 a03a661ebbdf1b4941c_ mv2
Có thể khái quát nội dung của đoạn kinh này như sau:
- Các tâm lý mang tính tiêu cực chưa phát sinh thì nỗ lực ngăn chặn, cắt đứt các cơ hội, nhân duyên khiến cho nó phát sinh.
- Khi tâm lý tiêu cực đã phát sinh thì nỗ lực làm cho nó lắng dịu, nhẹ nhàng, mờ nhạt và cuối cùng vắng mặt.
- Nỗ lực tạo cơ hội cho các tâm lý tích cực chưa sinh khởi có mặt nơi tâm thức.
- Duy trì, phát triển tâm lý tích cực đã phát sinh, khiến cho tâm lý tích cực ngày càng lớn mạnh hơn.
Bài liên quan
Tinh tấn trong đạo Phật khác với nỗ lực, cố gắng của thế gian
Trong cuộc sống, muốn thành tựu một điều gì đó cần phải có sự nỗ lực. Không có một sự thành công nào tự dưng đến với mình không thông qua sự nỗ lực của bản thân. Buôn bán kinh doanh, làm việc hành chính, giảng dạy, học tập…, tất cả đều đòi hỏi một sự nỗ lực cần thiết để đi tới thành công. Đó là sự tinh tấn hay nỗ lực ở phương diện sinh hoạt hằng ngày. Nó thể hiện năng lực của tâm, chưa mang hàm nghĩa đạo đức. Sự phát triển tâm linh càng đòi hỏi sự tinh tấn hay sự nỗ lực nhiều hơn nữa. Sự hoàn thiện hay thành tựu thiền định trong Bát chánh đạo đều có sự hiện diện, thúc đẩy của tinh tấn. Không có tinh tấn, các yếu tố còn lại của Bát chánh đạo nói chung và thiền định nói riêng không thể nào đạt tới kết quả mỹ mãn.
nhung-tuong-tot-cua-duc-phat
Nói một cách khái quát, tinh tấn là sự nỗ lực hướng tới sự gạn lọc, chuyển hóa các yếu tố có tính cách tiêu cực, tàn hại, cấu uế; phát triển các yếu tố an lạc, giải thoát nơi nội tâm, giúp cho hành giả tu học hoàn thiện trên con đường đưa tới sự an lạc, giải thoát theo đúng tinh thần lời dạy của Đức Phật.
Chánh niệm
Một chi phần khác của Bát chánh đạo thuộc về phương diện thiền định là Chánh niệm. Chánh niệm là sự ghi nhận, quán chiếu đối tượng bằng sự tỉnh thức. Khác với tà niệm, đưa con người tới khổ đau, chánh niệm có khả năng điều phục được các tham đắm ở đời như trong kinh Bát chánh đạo Đức Phật dạy:
“Này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh niệm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, với mục đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là chánh niệm.”
so-tam
Bài liên quan
Bác Hồ và thiền định
Trong Phật giáo, chánh niệm được xem là trái tim của thiền định. Chánh niệm giúp dừng lại mọi suy tưởng, các phán đoán, nhận xét và suy diễn liên hệ tới các đối tượng, vấn đề, sự kiện, tình huống chung quanh. Thực tập chánh niệm chỉ cần nhận biết mà không cần nhận xét. Nhờ nhận biết một cách sâu sắc, tâm trở nên định tĩnh, không còn bị cuống hút vào các đối tượng, vấn đề, sự kiện, tình huống diễn ra. Nhờ đó, hành giả có thể làm chủ được cảm xúc và các phản ứng của các thói quen tiêu cực.
Chánh niệm còn giúp cho mình nhận diện được bản chất của sự vật, hiện tượng, tức là sự vật hiện tượng như thế nào, nhận thức như thế ấy. Mình không để cho các ý niệm, nhận thức chủ quan phủ đầy lên bản chất của sự vật, hiện tượng. Không dán mác, dán nhãn lên mọi thứ để rồi đến một lúc nào đó chính các mác, nhãn đó chi phối, ràng buộc, đưa tới khổ đau cho mình. Chánh niệm vì thế, là cánh cửa mở ra một thế giới mới nơi con người: thế giới của sự chân thật.
Chánh định
don-gian-hoa-cuoc-song
Chánh định thường được hiểu là sự lắng tâm chân chính, sự lắng tâm hướng tới xả ly, giải thoát tất cả các phiền não, khổ đau vi tế ở đời. Trong kinh Bát chánh đạo, Đức Phật định nghĩa chánh định như sau:
Bài liên quan
Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (I)
“Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh định? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là chánh định.”
Từ sự tịch tĩnh nội tâm này, tiếp tục đi sâu vào các tầng thiền cao hơn và vi tế hơn, tức định của 4 thánh quả. Chính vì vậy, chánh định là con đường đưa tới thành tựu chánh trí. Nhờ chánh định, đạo đức được trong sạch, không tỳ vết, trí tuệ được trong sáng, thanh cao, hành giả thành tựu được tuệ giác giải thoát.
Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (III)
Thứ ba, 10/09/2019 | 13:46
Đạo đức, thiền định, trí tuệ là ba phương diện cốt lõi của Bát chánh đạo. Trong thực tập Bát chánh đạo, đạo đức, thiền định và trí tuệ luôn luôn có mặt trong nhau, không thể tách rời nhau, chúng cùng hỗ trợ cho nhau, giúp cho sự thành tựu giác ngộ, giải thoát của hành giả đạt tới viên mãn.
>>Lời Phật dạy
3. Trí tuệ và biểu hiện của nó trong Bát chánh đạo
Chánh kiến
Chánh kiến còn gọi là chánh tri kiến, là cái nhìn, sự nhận thức chân chánh, đúng đắn. Có hai loại tri kiến hay nhận thức cần phải phân biệt. Đó là tri kiến hay nhận thức thế gian và tri kiến hay nhận thức xuất thế gian.
Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.
Tri kiến xuất thế gian xây dựng trên nền tảng chánh niệm. Chánh kiến thuộc loại tri kiến xuất thế gian.
Trong Bát chánh đạo, chánh kiến trước hết là cái nhìn đúng đắn, cái nhìn phân biệt rạch ròi thiện và bất thiện, tốt và xấu. Khi một vị Thánh đệ tử tuệ tri được bất thiện và tuệ tri được căn bản của bất thiện, tuệ tri được thiện và tuệ tri căn bản của thiện, chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.
Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.
Bài liên quan
Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (I)
Thông thường, muốn xác định hành vi tốt – xấu, thiện – bất thiện của một người nào đó, người ta có các tiêu chuẩn, hệ tiêu chuẩn đạo đức nhất định của xã hội để làm công cụ phân định. Tuy nhiên, ở mỗi cộng đồng, quốc gia, nền văn hóa khác nhau thì quan niệm hay tiêu chuẩn đạo đức khác nhau. Do đó tùy vào không gian, thời gian và chủ thể cụ thể mà các tiêu chí xác định hành vi thiện – ác, tốt – xấu khác nhau. Từ đó cho thấy việc phân định rạch ròi hành vi tốt – xấu, thiện – bất thiện theo đạo đức quy ước xã hội là rất tương đối.
Trong đạo Phật, việc phân định này có tiêu chí rất rạch ròi và đặc thù: Theo đó Đức Phật dạy hành vi thiện là hành vi gắn với tâm lý không tham, không sân, không si; hành vi ác là hành vi gắn với tham, sân và si. Biểu hiện cụ thể của thiện là không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không vọng ngữ… Biểu hiện cụ thể của bất thiện là ngược lại: sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, vọng ngữ… Nói một cách khái quát, những hành vi thiện là hành vi đưa tới đời sống an lạc, giải thoát, lợi mình lợi người. Hành vi bất thiện là hành vi đưa tới sự ràng buộc, bất hạnh, khổ đau, hại mình hại người.
Chánh kiến được xem là cái nhìn bất nhị, cái nhìn vô tướng, cái nhìn “không”. Các cái nhìn này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đòi hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên mãn.
Chánh kiến được xem là cái nhìn bất nhị, cái nhìn vô tướng, cái nhìn “không”. Các cái nhìn này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đòi hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên mãn.
Chánh kiến còn là cái nhìn thấu suốt bản chất của các pháp. Bản chất đó chính là tính cách vô thường, duyên sinh, vô ngã của các pháp. Nói khái quát chánh kiến là cái nhìn thấu suốt Tứ đế, Bát chánh đạo, như trong kinh Chánh tri kiến Đức Phật dạy: “Khi nào vị Thánh đệ tử biết già chết, tập khởi của già chết, đoạn diệt của già chết và con đường đưa đến đoạn diệt già chết, này chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có chánh kiến…
Chánh kiến được xem là cái nhìn bất nhị, cái nhìn vô tướng, cái nhìn “không”. Các cái nhìn này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đòi hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên mãn.
Chánh tư duy
Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si, Đức Phật dạy:
Bài liên quan
Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (II)
“Này chư Tỷ-kheo! Trước khi Ta chưa giác ngộ, chưa thành chánh giác và còn là Bồ Tát, Ta suy nghĩ như sau: “Ta sống suy tư và chia hai suy tầm”. Này chư Tỷ-kheo, phàm có dục tầm nào, sân tầm nào, hại tầm nào, đó là Ta phân làm phần thứ nhất; phàm có ly dục tầm nào, vô sân tầm nào, vô hại tầm nào, đó là Ta phân làm phần thứ hai. Này chư Tỷ-kheo! Rồi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần. Khi dục tầm khởi lên Ta tuệ tri: “Dục tầm này khởi lên nơi Ta, và dục tầm này đưa đến tự hại Ta, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, dục tầm này đưa đến diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết Bàn”. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm này đưa đến tự hại Ta”, dục tầm tự biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại người”, dục tầm tự biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại cả hai Ta và người”, dục tầm được biến mất. Này chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: “Dục tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết Bàn”, dục tầm này được biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Như vậy Ta cứ Chánh Tư Duy tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn diệt dục tầm”.
Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si.
Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si.
Nói cách khác, chánh tư duy là tư duy đúng đắn về các tâm lý diễn ra nơi tâm thức, nhận diện bản chất tác hại của chúng đối với quá trình thanh lọc tâm bằng chánh niệm tỉnh giác. Nhờ tư duy chân chính trên nền tảng của chánh niệm, hành giả tự trừ bỏ, xả ly và đoạn diệt được chúng. Như vậy, chánh tư duy thực chất chính là tuệ giác, nó đưa tới sự xa lìa các nguyên nhân đưa tới phiền não khổ đau.
Đạo đức, thiền định, trí tuệ là ba phương diện cốt lõi của Bát chánh đạo. Việc phân định một cách rạch ròi các chi phần Bát chánh đạo vào các phạm trù đạo đức, thiền định, trí tuệ chỉ là một thao tác mang tính tương đối trên phương diện lý thuyết. Trên thực tế, trong thực tập Bát chánh đạo, đạo đức, thiền định và trí tuệ luôn luôn có mặt trong nhau, không thể tách rời nhau, chúng cùng hỗ trợ cho nhau, giúp cho sự thành tựu giác ngộ, giải thoát của hành giả đạt tới viên mãn.
Minh Chính (TH)
Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (III)
Thứ ba, 10/09/2019 | 13:46
Đạo đức, thiền định, trí tuệ là ba phương diện cốt lõi của Bát chánh đạo. Trong thực tập Bát chánh đạo, đạo đức, thiền định và trí tuệ luôn luôn có mặt trong nhau, không thể tách rời nhau, chúng cùng hỗ trợ cho nhau, giúp cho sự thành tựu giác ngộ, giải thoát của hành giả đạt tới viên mãn.
>>Lời Phật dạy
3. Trí tuệ và biểu hiện của nó trong Bát chánh đạo
Chánh kiến
Chánh kiến còn gọi là chánh tri kiến, là cái nhìn, sự nhận thức chân chánh, đúng đắn. Có hai loại tri kiến hay nhận thức cần phải phân biệt. Đó là tri kiến hay nhận thức thế gian và tri kiến hay nhận thức xuất thế gian.
Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.
Tri kiến xuất thế gian xây dựng trên nền tảng chánh niệm. Chánh kiến thuộc loại tri kiến xuất thế gian.
Trong Bát chánh đạo, chánh kiến trước hết là cái nhìn đúng đắn, cái nhìn phân biệt rạch ròi thiện và bất thiện, tốt và xấu. Khi một vị Thánh đệ tử tuệ tri được bất thiện và tuệ tri được căn bản của bất thiện, tuệ tri được thiện và tuệ tri căn bản của thiện, chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.
Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.
Bài liên quan
Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (I)
Thông thường, muốn xác định hành vi tốt – xấu, thiện – bất thiện của một người nào đó, người ta có các tiêu chuẩn, hệ tiêu chuẩn đạo đức nhất định của xã hội để làm công cụ phân định. Tuy nhiên, ở mỗi cộng đồng, quốc gia, nền văn hóa khác nhau thì quan niệm hay tiêu chuẩn đạo đức khác nhau. Do đó tùy vào không gian, thời gian và chủ thể cụ thể mà các tiêu chí xác định hành vi thiện – ác, tốt – xấu khác nhau. Từ đó cho thấy việc phân định rạch ròi hành vi tốt – xấu, thiện – bất thiện theo đạo đức quy ước xã hội là rất tương đối.
Trong đạo Phật, việc phân định này có tiêu chí rất rạch ròi và đặc thù: Theo đó Đức Phật dạy hành vi thiện là hành vi gắn với tâm lý không tham, không sân, không si; hành vi ác là hành vi gắn với tham, sân và si. Biểu hiện cụ thể của thiện là không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không vọng ngữ… Biểu hiện cụ thể của bất thiện là ngược lại: sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, vọng ngữ… Nói một cách khái quát, những hành vi thiện là hành vi đưa tới đời sống an lạc, giải thoát, lợi mình lợi người. Hành vi bất thiện là hành vi đưa tới sự ràng buộc, bất hạnh, khổ đau, hại mình hại người.
Chánh kiến được xem là cái nhìn bất nhị, cái nhìn vô tướng, cái nhìn “không”. Các cái nhìn này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đòi hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên mãn.
Chánh kiến được xem là cái nhìn bất nhị, cái nhìn vô tướng, cái nhìn “không”. Các cái nhìn này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đòi hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên mãn.
Chánh kiến còn là cái nhìn thấu suốt bản chất của các pháp. Bản chất đó chính là tính cách vô thường, duyên sinh, vô ngã của các pháp. Nói khái quát chánh kiến là cái nhìn thấu suốt Tứ đế, Bát chánh đạo, như trong kinh Chánh tri kiến Đức Phật dạy: “Khi nào vị Thánh đệ tử biết già chết, tập khởi của già chết, đoạn diệt của già chết và con đường đưa đến đoạn diệt già chết, này chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có chánh kiến…
Chánh kiến được xem là cái nhìn bất nhị, cái nhìn vô tướng, cái nhìn “không”. Các cái nhìn này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đòi hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên mãn.
Chánh tư duy
Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si, Đức Phật dạy:
Bài liên quan
Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (II)
“Này chư Tỷ-kheo! Trước khi Ta chưa giác ngộ, chưa thành chánh giác và còn là Bồ Tát, Ta suy nghĩ như sau: “Ta sống suy tư và chia hai suy tầm”. Này chư Tỷ-kheo, phàm có dục tầm nào, sân tầm nào, hại tầm nào, đó là Ta phân làm phần thứ nhất; phàm có ly dục tầm nào, vô sân tầm nào, vô hại tầm nào, đó là Ta phân làm phần thứ hai. Này chư Tỷ-kheo! Rồi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần. Khi dục tầm khởi lên Ta tuệ tri: “Dục tầm này khởi lên nơi Ta, và dục tầm này đưa đến tự hại Ta, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, dục tầm này đưa đến diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết Bàn”. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm này đưa đến tự hại Ta”, dục tầm tự biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại người”, dục tầm tự biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại cả hai Ta và người”, dục tầm được biến mất. Này chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: “Dục tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết Bàn”, dục tầm này được biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Như vậy Ta cứ Chánh Tư Duy tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn diệt dục tầm”.
Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si.
Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si.
Nói cách khác, chánh tư duy là tư duy đúng đắn về các tâm lý diễn ra nơi tâm thức, nhận diện bản chất tác hại của chúng đối với quá trình thanh lọc tâm bằng chánh niệm tỉnh giác. Nhờ tư duy chân chính trên nền tảng của chánh niệm, hành giả tự trừ bỏ, xả ly và đoạn diệt được chúng. Như vậy, chánh tư duy thực chất chính là tuệ giác, nó đưa tới sự xa lìa các nguyên nhân đưa tới phiền não khổ đau.
Đạo đức, thiền định, trí tuệ là ba phương diện cốt lõi của Bát chánh đạo. Việc phân định một cách rạch ròi các chi phần Bát chánh đạo vào các phạm trù đạo đức, thiền định, trí tuệ chỉ là một thao tác mang tính tương đối trên phương diện lý thuyết. Trên thực tế, trong thực tập Bát chánh đạo, đạo đức, thiền định và trí tuệ luôn luôn có mặt trong nhau, không thể tách rời nhau, chúng cùng hỗ trợ cho nhau, giúp cho sự thành tựu giác ngộ, giải thoát của hành giả đạt tới viên mãn.
Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (III)
Thứ ba, 10/09/2019 | 13:46
Đạo đức, thiền định, trí tuệ là ba phương diện cốt lõi của Bát chánh đạo. Trong thực tập Bát chánh đạo, đạo đức, thiền định và trí tuệ luôn luôn có mặt trong nhau, không thể tách rời nhau, chúng cùng hỗ trợ cho nhau, giúp cho sự thành tựu giác ngộ, giải thoát của hành giả đạt tới viên mãn.
>>Lời Phật dạy
3. Trí tuệ và biểu hiện của nó trong Bát chánh đạo
Chánh kiến
Chánh kiến còn gọi là chánh tri kiến, là cái nhìn, sự nhận thức chân chánh, đúng đắn. Có hai loại tri kiến hay nhận thức cần phải phân biệt. Đó là tri kiến hay nhận thức thế gian và tri kiến hay nhận thức xuất thế gian.
Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.
Tri kiến xuất thế gian xây dựng trên nền tảng chánh niệm. Chánh kiến thuộc loại tri kiến xuất thế gian.
Trong Bát chánh đạo, chánh kiến trước hết là cái nhìn đúng đắn, cái nhìn phân biệt rạch ròi thiện và bất thiện, tốt và xấu. Khi một vị Thánh đệ tử tuệ tri được bất thiện và tuệ tri được căn bản của bất thiện, tuệ tri được thiện và tuệ tri căn bản của thiện, chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.
Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.
Bài liên quan
Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (I)
Thông thường, muốn xác định hành vi tốt – xấu, thiện – bất thiện của một người nào đó, người ta có các tiêu chuẩn, hệ tiêu chuẩn đạo đức nhất định của xã hội để làm công cụ phân định. Tuy nhiên, ở mỗi cộng đồng, quốc gia, nền văn hóa khác nhau thì quan niệm hay tiêu chuẩn đạo đức khác nhau. Do đó tùy vào không gian, thời gian và chủ thể cụ thể mà các tiêu chí xác định hành vi thiện – ác, tốt – xấu khác nhau. Từ đó cho thấy việc phân định rạch ròi hành vi tốt – xấu, thiện – bất thiện theo đạo đức quy ước xã hội là rất tương đối.
Trong đạo Phật, việc phân định này có tiêu chí rất rạch ròi và đặc thù: Theo đó Đức Phật dạy hành vi thiện là hành vi gắn với tâm lý không tham, không sân, không si; hành vi ác là hành vi gắn với tham, sân và si. Biểu hiện cụ thể của thiện là không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không vọng ngữ… Biểu hiện cụ thể của bất thiện là ngược lại: sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, vọng ngữ… Nói một cách khái quát, những hành vi thiện là hành vi đưa tới đời sống an lạc, giải thoát, lợi mình lợi người. Hành vi bất thiện là hành vi đưa tới sự ràng buộc, bất hạnh, khổ đau, hại mình hại người.
Chánh kiến được xem là cái nhìn bất nhị, cái nhìn vô tướng, cái nhìn “không”. Các cái nhìn này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đòi hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên mãn.
Chánh kiến được xem là cái nhìn bất nhị, cái nhìn vô tướng, cái nhìn “không”. Các cái nhìn này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đòi hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên mãn.
Chánh kiến còn là cái nhìn thấu suốt bản chất của các pháp. Bản chất đó chính là tính cách vô thường, duyên sinh, vô ngã của các pháp. Nói khái quát chánh kiến là cái nhìn thấu suốt Tứ đế, Bát chánh đạo, như trong kinh Chánh tri kiến Đức Phật dạy: “Khi nào vị Thánh đệ tử biết già chết, tập khởi của già chết, đoạn diệt của già chết và con đường đưa đến đoạn diệt già chết, này chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có chánh kiến…
Chánh kiến được xem là cái nhìn bất nhị, cái nhìn vô tướng, cái nhìn “không”. Các cái nhìn này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đòi hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên mãn.
Chánh tư duy
Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si, Đức Phật dạy:
Bài liên quan
Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (II)
“Này chư Tỷ-kheo! Trước khi Ta chưa giác ngộ, chưa thành chánh giác và còn là Bồ Tát, Ta suy nghĩ như sau: “Ta sống suy tư và chia hai suy tầm”. Này chư Tỷ-kheo, phàm có dục tầm nào, sân tầm nào, hại tầm nào, đó là Ta phân làm phần thứ nhất; phàm có ly dục tầm nào, vô sân tầm nào, vô hại tầm nào, đó là Ta phân làm phần thứ hai. Này chư Tỷ-kheo! Rồi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần. Khi dục tầm khởi lên Ta tuệ tri: “Dục tầm này khởi lên nơi Ta, và dục tầm này đưa đến tự hại Ta, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, dục tầm này đưa đến diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết Bàn”. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm này đưa đến tự hại Ta”, dục tầm tự biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại người”, dục tầm tự biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại cả hai Ta và người”, dục tầm được biến mất. Này chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: “Dục tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết Bàn”, dục tầm này được biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Như vậy Ta cứ Chánh Tư Duy tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn diệt dục tầm”.
Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si.
Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si.
Nói cách khác, chánh tư duy là tư duy đúng đắn về các tâm lý diễn ra nơi tâm thức, nhận diện bản chất tác hại của chúng đối với quá trình thanh lọc tâm bằng chánh niệm tỉnh giác. Nhờ tư duy chân chính trên nền tảng của chánh niệm, hành giả tự trừ bỏ, xả ly và đoạn diệt được chúng. Như vậy, chánh tư duy thực chất chính là tuệ giác, nó đưa tới sự xa lìa các nguyên nhân đưa tới phiền não khổ đau.
Đạo đức, thiền định, trí tuệ là ba phương diện cốt lõi của Bát chánh đạo. Việc phân định một cách rạch ròi các chi phần Bát chánh đạo vào các phạm trù đạo đức, thiền định, trí tuệ chỉ là một thao tác mang tính tương đối trên phương diện lý thuyết. Trên thực tế, trong thực tập Bát chánh đạo, đạo đức, thiền định và trí tuệ luôn luôn có mặt trong nhau, không thể tách rời nhau, chúng cùng hỗ trợ cho nhau, giúp cho sự thành tựu giác ngộ, giải thoát của hành giả đạt tới viên mãn.
homeaz
Cùng chủ đề
Lời Phật dạy với người cư sĩ
Lời Phật dạy với người cư sĩ
Nghe pháp và gieo duyên pháp để tạo phước báu
Nghe pháp và gieo duyên pháp để tạo phước báu
Câu chuyện nhân quả của Tỳ kheo ni Kim Sắc
Câu chuyện nhân quả của Tỳ kheo ni Kim Sắc
Tin liên quan
Trí huệ và trí tuệ dưới cái nhìn Phật Giáo
Trí huệ và trí tuệ dưới cái nhìn Phật Giáo
Niệm Phật để giải thoát vong hồn theo quấy phá
Niệm Phật để giải thoát vong hồn theo quấy phá
Người tu Phật là người tìm về nguồn an lạc giải thoát
Người tu Phật là người tìm về nguồn an lạc giải thoát
Trong tất cả các Kinh, Đức Phật đều cho rằng một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nỗi khổ là do tham lam. Vì thế, Người đã dạy phương pháp đối trị lòng tham chính là sống theo hạnh “Thiểu dục tri túc”.
>>Lời Phật dạy
Tuy nhiên, hạnh sống thiểu dục tri túc ngày nay dường như đang trở nên mâu thuẫn với những quan điểm của xã hội hiện đại. Đó là do cách sống này không phù hợp hay do chúng ta chưa hiểu đúng và làm theo lời dạy của Đức Phật về Thiểu dục tri túc?
Thiểu dục tri túc là gì?
Thiểu dục tri túc nghĩa là giảm bớt ham muốn và biết đủ. Ở xã hội hiện đại, con người không ngừng nỗ lực và vươn lên để đạt được những thành công cũng như là thỏa mãn được đời sống vật chất đầy đủ, thì hạnh sống biết đủ có vẻ làm kiềm chế đi sự cầu tiến của một người. Đây là cách hiểu còn quá nông cạn, đi lệch hướng với lời dạy của Đức Phật.
Đức Phật có dạy: “Này các Tỳ kheo, hai cực đoan này người xuất gia không nên thực hành”.
Đức Phật có dạy: “Này các Tỳ kheo, hai cực đoan này người xuất gia không nên thực hành”.
Bài liên quan
Thiểu dục tri túc: Một cách sống hạnh phúc
Ngạn ngữ Việt Nam có câu: “Bể kia dễ lấp, túi tham khó đầy”, để chỉ rằng lòng tham con người là vô hạn. Chính vì lòng tham đó mà chúng ta không tìm được hạnh phúc ngay trong cuộc sống này cũng như sản sinh ra nhiều hệ lụy của xã hội bằng những tệ nạn đầy nguy hiểm. Nhu cầu ở con người không có điểm dừng, đói thì muốn no, no thì muốn ngon, ngon thì món ăn lạ, độc đáo,…Chính vì cứ mãi theo những nhu cầu này mà gây nên sự phiền não.
Đức Phật có dạy: “Này các Tỳ kheo, hai cực đoan này người xuất gia không nên thực hành”. Đó là: Chuyên tâm tham đắm dục lạc thấp hèn, không xứng đáng và không ích lợi; Chuyên tâm khổ hạnh, gây khổ đau, không xứng đáng và không ích lợi.
Lối sống ép thân, khổ hạnh Đức Phật không muốn chúng ta phải đi theo. Và ngược lại lối sống quá tham đắm vào dục lạc là nguyên nhân của sự khổ. Chúng ta thường khổ vì tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ.
Khi không có đủ tiền để đáp ứng những nhu cầu của bản thân đặt ra thì phiền não xuất hiện. Nó khiến chúng ta phải tìm mọi cách để có tiền.
Không có tiền thì chúng ta cảm thấy bế tắc, khó chịu và tuyệt vọng. Khi không có nhan sắc, chúng ta thường đau khổ, tủi thân, đố kỵ. Luôn muốn mình nổi trội, đẹp hơn người. Khi không có địa vị, danh vọng, chúng ta lại đi tìm mọi cách để đạt được, bày mưu tính kế để hãm hại, đạp đổ người khác để mình có được vị trí cao trong xã hội. Ngày đêm mưu tính, lo sợ khiến chúng ta không có được một giây phút thanh thản thật sự.
Khi không có đủ tiền để đáp ứng những nhu cầu của bản thân đặt ra thì phiền não xuất hiện. Nó khiến chúng ta phải tìm mọi cách để có tiền.
Khi không có đủ tiền để đáp ứng những nhu cầu của bản thân đặt ra thì phiền não xuất hiện. Nó khiến chúng ta phải tìm mọi cách để có tiền.
Bài liên quan
Biến đổi khí hậu môi trường là do lòng người chẳng thiểu dục tri túc
Khi những món ăn không ngon, chúng ta lại khó chịu, bỏ ăn và buồn phiền. Lúc nào cũng muốn được ăn ngon, ăn nhiều. Và khi ngủ không đủ giấc, chúng ta sinh ra sự cáu gắt, khó chịu. Luôn muốn được ngủ kỹ, ngủ nhiều.
Vì sao chúng ta lại rơi vào điều này? Vì chúng ta đang là nô lệ của lòng tham, bị lòng tham điều khiển và khống chế nên gây ra bao khổ não vì không đáp ứng được những mong muốn của nó.
Trong kinh Thuỷ Sám có câu: “Người biết đủ tuy nằm dưới đất vẫn lấy làm an vui, người không biết đủ dù ở thiên đường cũng không vừa ý”. Đó là lý do vì sao nhiều người giàu nhưng vẫn không tìm được hạnh phúc, người nghèo lại có được hạnh phúc tràn đầy. Ta thấy rằng, thiếu thốn hay đầy đủ không phải phụ thuộc vào vật chất, mà nó phụ thuộc vào tư tưởng hay cách suy nghĩ của chúng ta.
Đây là lý do vì sao Đức Phật dạy hạnh thiểu dục tri túc cho người Phật Tử. Thiểu dục tri túc không kiềm hãm sự phát triển của bất kỳ ai, cách sống này là để đối trị với lòng tham không đáy, lòng tham gây ra phiền não không có điểm dừng mà chúng ta, những con người hiện đại đang bị vướng phải. Thiểu dục tri túc là môt sắc thái tâm lý sống.
Trong kinh Thuỷ Sám có câu: “Người biết đủ tuy nằm dưới đất vẫn lấy làm an vui, người không biết đủ dù ở thiên đường cũng không vừa ý”.
Trong kinh Thuỷ Sám có câu: “Người biết đủ tuy nằm dưới đất vẫn lấy làm an vui, người không biết đủ dù ở thiên đường cũng không vừa ý”.
Người sống theo hạnh thiểu dục tri túc có những lợi ích gì?
Bài liên quan
Tri túc: Biết đủ, cách sống mang lại hạnh phúc
Khi nhu cầu giảm bớt và biết đủ, chúng ta sẽ không bị lòng tham điều khiển, dẫn dắt để thỏa mãn cái mong muốn cao xa ngoài khả năng của bản thân. Từ đó, chúng ta không cảm thấy ngột ngạt, khó chịu với thực tại, với những gì chúng ta đang có. Người sống theo hạnh thiểu dục tri túc là người hạnh phúc nhất, bởi chúng ta được tự tại trong đời sống mà không bị điều gì gò bó, gán ép. Chúng ta sẽ tự chủ trong mọi thứ, dù có thất bại cũng không nản lòng hay tuyệt vọng.
Hiểu được hạnh thiểu dục tri túc, dù là người nghèo chúng ta vẫn không cảm thấy mặc cảm, tự ti mà hài lòng với những gì có được. Ngược lại chúng ta sẽ cảm thấy cuộc sống vô cùng nặng nề, khổ sở, đó là do cách suy nghĩ của chúng ta tạo ra. Nếu mọi người trong xã hội hiểu được và thực hành được hành thiểu dục tri túc như Đức Phật dạy thì sẽ giảm thiểu rất nhiều tệ nạn xã hội.
Phật dạy: “Đa dục chi nhân, đa cầu lợi cố, khổ não diệc đa”. Có nghĩa là: người mong muốn nhiều, cầu lợi nhiều thì khổ não cũng nhiều.”
Phật dạy: “Đa dục chi nhân, đa cầu lợi cố, khổ não diệc đa”. Có nghĩa là: người mong muốn nhiều, cầu lợi nhiều thì khổ não cũng nhiều.”
Hệ lụy của lòng tham và không thực hành cách sống Thiểu dục tri túc
Bài liên quan
Cuộc chiến đấu với lòng tham
Thực tế cho thấy, xã hội càng hiện đại, vật chất càng phát triển thì nạn trộm cướp cũng phát triển. Vì họ chạy theo những nhu cầu bên ngoài mà bất chấp tất cả để có được tài sản từ người khác. Giết người, lừa gạt ngày càng tinh vi hơn nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân, gây nên sự lo lắng cho nhiều người. Ngoài ra, sự tham đắm địa vị đã làm cho lòng người mất đi lòng tin ở nhau, đạo đức suy đồi bởi sự hãm hại, đố kỵ, mưu tính đáng sợ. Là một người sống chân chính, biết kiểm soát nhu cầu và an vui với những gì mình có sẽ không bao giờ gây ra những điều tiêu cực như trên.
Chiến tranh, thiên tai cũng do lòng tham của con người gây nên. Từ bao đời nay, nguyên nhân chiến tranh xuất phát từ quyền lợi, đất đai, vị thế của những người cầm quyền một đất nước. Khi lòng tham nổi lên thì mãi không có tiếng nói chung và sự thỏa hiệp, nhường nhịn nhau. Khi con người luôn muốn thỏa mãn được những nhu cầu tự đặt ra của bản thân thì vô tư khai thác tài nguyên môi trường đến cạn kiệt và phải nhận hậu quả như ngày ngay.
Nếu chúng ta không kiểm soát được ham muốn của mình, không có điểm dừng thì sẽ tự gây hại cho bản thân và xã hội. Phật dạy: “Đa dục chi nhân, đa cầu lợi cố, khổ não diệc đa”. Có nghĩa là: người mong muốn nhiều, cầu lợi nhiều thì khổ não cũng nhiều.”
Từ những lẽ trên, chúng ta có lẽ đã nhìn nhận được tầm quan trọng của lời Phật dạy về cách sống “Thiểu dục tri túc”. Ngày nay, cách sống ấy vô cùng cần thiết khi mà tốc độ phát triển của xã hội nhanh chóng đi lên, vật chất đáp ứng đầy đủ nhưng phiền não chưa bao giờ được giải quyết triệt để. Hiểu đúng lời dạy của Đức Phật về Thiểu dục tri túc chắc chắn chúng ta sẽ tìm được sự bình an nơi tâm hồn và tự tại giữa cuộc sống, không bị ngũ dục tri phối trong mọi hoàn cảnh.
Lòng tham của con người giống như con khỉ trèo lên cây hái đào, nó thấy những trái đào căng tròn, nặng trũi trên cây nên muốn hái, trái nào nó cũng muốn ăn; kết quả, nó hái cầm trong tay không hết, lại kẹp dưới hai bên nách; hái đến trái cuối cùng, chẳng ăn được trái nào mà còn mệt đứt hơi.
>>Lời Phật dạy
Bài liên quan
Cuộc chiến đấu với lòng tham
Trong kinh Phật nói tham có rất nhiều loại khác nhau như tham gọi là dục, cũng là ý nghĩa ước vọng, tìm cầu, khao khát. Rốt cuộc con người mong muốn cái gì? Khát khao mong cầu điều gì? Nhu cầu của con người không ngoài tham năm dục là: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Mắt tham thấy đẹp, tai tham nghe tiếng hay, mũi tham ngửi mùi thơm, lưỡi tham thích vị ngon, thân tham xúc chạm vật mềm mại.
Nhưng con người vốn không thể không ăn uống, không ngủ nghỉ, mắt không thể không nhìn, tai không thể không nghe; cho nên tham là khi chúng ta đòi hỏi quá mức. Có được những thứ cần dùng không phải là tham, không cần mà muốn có thêm, đó là tham. Trên thực tế, chúng ta cần không nhiều, như chúng ta ngủ chỉ cần một cái giường, ăn cơm chỉ cần ăn no... nhưng mọi người vẫn muốn mưu cầu được nhiều thứ. Vì sao con người tham không biết chán?
Tâm lý con người là mãi mãi chạy theo ham muốn của mình, nhưng những thứ mà con người mong muốn tham đắm thì không thể giữ gìn lâu dài, nên khi được nó rồi, lại bắt đầu lo sợ mất đi.
Tâm lý con người là mãi mãi chạy theo ham muốn của mình, nhưng những thứ mà con người mong muốn tham đắm thì không thể giữ gìn lâu dài, nên khi được nó rồi, lại bắt đầu lo sợ mất đi.
Bài liên quan
Tham lam là liều thuốc độc!
Tâm lý con người là mãi mãi chạy theo ham muốn của mình, nhưng những thứ mà con người mong muốn tham đắm thì không thể giữ gìn lâu dài, nên khi được nó rồi, lại bắt đầu lo sợ mất đi. Ví như Tiền, chi phí sinh hoạt hàng ngày của chúng ta không nhiều, nhưng ai cũng muốn tiền thu vào mà không ai muốn chi ra, cho nên mong muốn gom góp của cải càng nhiều, để phòng cần đến bất cứ lúc nào, kết quả trở thành lòng tham không đáy.
Lòng tham của con người giống như con khỉ trèo lên cây hái trái đào non, nó thấy những trái đào căng tròn, nặng trũi trên cây nên muốn hái, trái nào nó cũng muốn ăn; kết quả, nó hái cầm trong tay không hết, lại kẹp dưới hai bên nách; hái đến trái cuối cùng, chẳng ăn được trái nào mà còn mệt đứt hơi. Con người thường cũng như vậy, bị lòng tham lôi kéo mà chuốc nhiều phiền não và mệt mỏi.
Tục ngữ nói: “Người chết vì tiền tài, chim chết vì miếng ăn”.
Tục ngữ nói: “Người chết vì tiền tài, chim chết vì miếng ăn”.
Thật ra, con người không chỉ tham đắm tiền tài mà còn tìm cầu, giành giật đủ thứ, giữa người với người chà đạp, tranh cãi nhau cũng vì lòng tham. Vì thế, lòng tham chẳng những làm cho mình bất an mà còn gây tai họa cho xã hội.
Xưa nay, nhu cầu của con người đều giống nhau là cơm ăn, áo mặc, nhà ở, đi lại. Nếu như người nào, ngoài lo nhu cầu cho mình, lại còn lo cho đời sống của mọi người thì không gọi là tham, như chúng ta mong muốn cho mọi người đầy đủ cơm ăn, áo mặc, có xe đi lại, có nhà ở, còn làm phúc giúp mọi người trong xã hội thì không gọi là tham.
Do đó, ngoài những thứ mình cần, chúng ta không nên tham. Biết đủ thì dừng mới là trí tuệ, phương thức đơn giản nhất chính là thường chú ý đến khởi tâm động niệm, biết được mình đang sống cho mình hay cho người khác.
Lòng tham chính là thuốc độc giết chết nhân cách của con người, có những lúc chỉ vì sân si những lợi ích nhỏ mà chúng ta đánh mất những thứ quý giá và quan trọng, đến khi nhìn lại mới thấy thật sai lầm.
>>Phật giáo thường thức
Câu chuyện giếng nước và lòng tham của con người
Người học đạo, hành đạo, không để bị rơi vào tâm cảnh hối tiếc quá khứ hay vọng tưởng tương lai. Hạnh phúc chỉ có thể hiển hiện ngay nơi thực tại hiện tiền. Nhưng hạnh phúc thực sự không phải là thứ hạnh phúc có được tất cả, mà chính là buông được tất cả. Người nào không buông được tất cả sẽ không bao giờ nếm được hương vị của tịch nhiên, giải thoát.
Người học đạo, hành đạo, không để bị rơi vào tâm cảnh hối tiếc quá khứ hay vọng tưởng tương lai. Hạnh phúc chỉ có thể hiển hiện ngay nơi thực tại hiện tiền. Nhưng hạnh phúc thực sự không phải là thứ hạnh phúc có được tất cả, mà chính là buông được tất cả. Người nào không buông được tất cả sẽ không bao giờ nếm được hương vị của tịch nhiên, giải thoát.
Bài liên quan
Thấu lẽ vô thường, bạn sẽ hạnh phúc hơn
Có một vị Thiền sư có sở thích đi khắp mọi nơi trên thế gian, ban đầu sức khỏe của ông còn có thể giúp ông đi rất nhiều nơi, học hỏi và quan sát được nhiều điều. Càng về sau, ông càng ốm yếu, khi dừng chân tại một vùng núi nọ thì ông bị cảm. Ông lạc trong một khu lạc và được một bà góa đưa về chăm sóc. Mặc dù không biết ông là ai nhưng bà chủ vẫn tận tình giúp ông qua khỏi. Ba tháng sau, ông dần bình phục, lúc này không biết lấy gì cảm ơn bà chủ nhà, ông liền đào một cái giếng để lấy nước sạch ở cạnh nhà rồi rời đi.
Điều mà không ai ngờ tới đó là nhờ vào nước từ giếng đó, trà của bà góa trở nên thơm ngon hơn. Từ đó quán trà của bà cũng nổi tiếng dần. Người ta biết đến bà và tìm đến.
Một thời gian sau, vị Thiền sư quay lại quán, thầy nhà cửa của bà góa đã trở nên khang trang giàu có hơn, ông cảm thấy rất mừng, ông tìm đến bà và nói chuyện. Thế nhưng trái với suy nghĩ của ông, bà ta kêu than thảm thiết: "Giếng nước này tốt lắm, có điều nước cạn liên tục, vài ngày mới lại đầy nên tôi chẳng bao giờ đủ để bán cho khách".
Vì Thiền sư trả lời: "Không tốn kém gì cả, từ nguồn nước trời cho rồi kiếm ra nhiều tiền mà bà vẫn không thấy hài lòng ư?". Sau đó ông ngẩng mặt lên trời và than: "Trời đất bao la nhưng lòng tham của con người còn mênh mông hơn thế!".
Lòng tham giống như rắn độc, nó hãm hại người khác, khiến con người trở nên xấu xa.
Lòng tham giống như rắn độc, nó hãm hại người khác, khiến con người trở nên xấu xa.
Lòng tham giống như rắn độc, nó hãm hại người khác, khiến con người trở nên xấu xa. Nó là thứ gây hại nhưng nhiều người lại cho rằng đó là liều thuốc bổ. Tự họ khiến nó càng ngày càng lớn hơn, làm chúng ta sẽ trở nên mù quáng, điên cuồng, thậm chí sử dụng âm mưu, tiểu xảo để đạt bằng được mục đích của bản thân.
Chúng ta dần dần sẽ đánh mất bản thân mình, không còn những giá trị như ban đầu, đến lúc muốn quay về sẽ không còn có thể được nữa. Vì vậy hãy chọn cho mình cách sống đừng sân si, những gì không phải của chúng ta sẽ mãi mãi không thuộc về ta, hãy quý trọng mọi thứ đang có, tự nó sẽ sản sinh ra cái mới mà thôi.
Để có được sự hạnh phúc và vui vẻ con người ta chỉ cần học được 3 điều dưới đây:
Thứ nhất: Nghỉ ngơi
Thứ hai: Cho đi
Thứ ba: Buông xuống
Nghỉ ngơi hợp lý
Bài liên quan
Sống hạnh phúc theo lời Phật dạy
Phật giáo cho rằng, trong xã hội này có hai loại người. Một là quá tham lam, mong muốn và theo đuổi sự thành công, mong muốn kiếm tiền, ham muốn sao cho mình không ngừng vươn xa hơn nữa. Còn loại người thứ hai sống không có mục đích, không có chí tiến thủ.
Nếu một người lao đầu vào kiếm tiền, không chừa thủ đoạn nào để theo đuổi thành công và tài phúc mà không biết dừng nghỉ sẽ có ngày cảm thấy vô cùng mỏi mệt. Theo đuổi những chân trời viễn mộng khiến ta rất đau khổ, rất căng thẳng, bởi vì khi đã giành được nó ta lại sợ sẽ mất đi, sau khi mất đi thì lại muốn giành được nó, cũng gần giống như việc đánh bạc, mong muốn tất cả những đồng tiền ở túi kẻ khác là tiền của mình, bị thua lại mong thắng, thắng được rồi lại muốn thắng nữa, không bao giờ biết thỏa mãn.
Người thông minh là người biết nên làm và nên nghỉ ngơi hợp lý. Có như thế mới cân bằng cuộc sống và an nhiên, tự tại.
Người thông minh là người biết nên làm và nên nghỉ ngơi hợp lý. Có như thế mới cân bằng cuộc sống và an nhiên, tự tại.
Cuộc sống phải biết cho đi
Trong cuộc sống này, những gì ta cho đi bằng tình người mới thật sự đúng nghĩa là cho mà không phải là sự trao đổi hay mua bán dưới nhiều hình thức. Tuy nhiên, nếu ta biết cho đi những giá trị vật chất để giúp đỡ hoặc chia sẻ khó khăn cho người khác thì đây chính là cách giúp ta có thể nhận lại được niềm vui và hạnh phúc bởi trong ta không có sự toan tính.
Khi cho đi mà chúng ta không kèm theo bất cứ một điều kiện hay sự mong cầu nào thì chính ngay khi ấy chúng ta đã nuôi dưỡng được lòng từ bi vô hạn. Khi ta cho mà không có sự tính toán thì sự cho ấy mới là cao thượng nên ta sẽ nhận được sự an lạc, hạnh phúc.
Học cách buông bỏ
Bài liên quan
Tìm sự an lạc trong cuộc sống theo lời khuyên của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Nếu như con người biết buông xả trong đời sống hiện tại. Buông đi những lợi danh, buông đi những hận thù chấp nhặt. Đồng thời xả đi những mưu cầu tính toán cho bản thân, xả đi những “tham – sân – si” trong cuộc sống thường nhật thì sẽ tự tìm thấy cho mình niềm an vui và thanh thản trong tâm hồn. Bởi khi biết buông xả thì tâm ta mới trong sáng để vượt qua những cám dỗ của tham, sân, si, của mạn nghi ác kiến để rồi nhìn thấy niềm vui xung quanh ta.
Có buông xả được thì lòng ta mới rộng mở, ai nói gì không vừa ý cũng bỏ qua mà không chấp. Nếu ai có làm điều gì xúc phạm cũng dễ dàng tha thứ, mà nếu có giận có buồn thì chỉ một vài phút hoặc một vài giờ, cùng lắm qua một đêm rồi quên hết đi cho đời mình được an vui.
Xả bỏ, buông bỏ những
Xả bỏ, buông bỏ những "Tham-sân-si" để hồn được an lạc, thể xác được tự do
Tham lam là một liều thuốc độc, và dục vọng là con dao hai lưỡi; có một cuộc sống ổn định rồi vẫn muốn theo đuổi sự thoải mái; có cuộc sống thoải mái rồi lại muốn hưởng thụ những vật chất xa hoa… Nếu dục vọng không có điểm dừng thì con người vĩnh viễn không bao giờ cảm thấy đủ, không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, và cũng không bao giờ tìm kiếm được niềm vui. Hãy trân trọng những gì bạn đang có, bạn sẽ thấy rằng bản thân mình là người giàu có nhất trên cõi đời này.
Đạo đức Phật giáo và mọi đạo đức mang tính xã hội ở mọi xã hội, cổ kim đông tây, lên án lòng tham với mọi hình thức và luật pháp - mọi nền luật pháp, chiến đấu với lòng tham để bảo vệ công lý.
>>Những giáo lý Phật giáo nên đọc
Trong giáo lý căn bản, Phật giáo nhấn mạnh cảnh giác với tham, sân, si sống tinh thần vật chất con người. Ảnh minh họa
Trong giáo lý căn bản, Phật giáo nhấn mạnh cảnh giác với tham, sân, si sống tinh thần vật chất con người. Ảnh minh họa
Tham lam không bao giờ và ở đâu được coi là ưu điểm. Âu đấy là điểm tương đồng trong khác biệt giữa các hệ giá trị sống?
Trong giáo lý căn bản, Phật giáo nhấn mạnh cảnh giác với tham, sân, si sống tinh thần vật chất con người. Tham không hẳn chỉ hiểu hẹp tham ăn, ngủ, tiền bạc, lợi lộc... Tham còn ở vế lớn, về tinh thần: tham danh, tham lời ngon ngọt tâng bốc, tham sắc dục...Nội hàm tham, theo ý Phật vô cùng rộng và va đụng hết thảy nhân sinh. Có thể nói, hàng ngày hàng giờ, từng sat na, nhân sinh - dù là tín đồ tôn giáo, giai tầng, hoàn cảnh... bất kỳ - sống trong không khí đặc biệt của lòng tham và chiến đấu với nó, có khi ngay ở chính mình, để bảo vệ công lý, đạo lý, sự thiện lương, đạo đức...
Bài liên quan
Lời Phật dạy về tham, sân, si của con người
Tôi có bán buôn lặt vặt và hàng ngày va đụng chợ búa, để ý, rồi nhận ra: bán giá nào cũng có người chê đắt! Người mua luôn khát khao cái giá hạ mãi không ngừng bất chấp ở chừng mực - ngưỡng - nào đấy, giá có thể hay chắc chắn gây phương hại cho thị trường ổn định, cho người sản xuất và thương nhân. Sự đôi co mặc cả có khi vài đồng lẻ, quyết liệt đến khó tin. Lòng tham đấy.
Có người ôm giấc mơ giản dị, chốn quan trường, một chức quan be bé đủ cơm ăn áo mặc, chút danh phận với đời. Nhưng rồi anh chị ấy mải miết chạy theo danh vọng bao nhiêu cũng không thỏa, mất ăn mất ngủ, tranh đấu không ngừng để chiếc ghế cao hơn dù chỉ một phân. Tham danh.
Dịch vụ chăm sóc nhân dáng phụ nữ (và cả nam giới) ăn nên làm ra mãi vì khách hàng không hài lòng với những gì đã có đang có, trời cho, nâng cấp miết, bất chấp hệ số rủi ro và chi phí đắt đỏ... Tham sắc.
Chính lòng tham vô độ là động lực mãnh liệt của nhân loại chinh phục tự nhiên, khám phá, kiến tạo và phát hiện. Các cuộc phát kiến địa lý để có bản đồ thế giới hoàn thiện dần nói lên điều đó. Chinh phục không gian, cách mạng khoa học kỹ thuật... Nói cách nào đấy, lòng tham cũng đã góp phần to lớn hình thành đời sống văn minh ngày nay. Vậy, có một cách hiểu nào đấy khác nhau về chữ THAM?
THAM nghiên cứu học hỏi cần lao để phát triển, thăng tiến, không bị cho là xấu, tiêu cực hay ác. Đấy là khát vọng, mong cầu chính đáng và nên có. Ngay giới tu sĩ và tu sĩ phật giáo cũng có thể dùng chữ "tham" để chí nỗ lực tinh tấn đạt ngộ, đến mục đích tu hành. Ai cho dáy là lòng tham xấu ác? Nó, lòng tham ấy, thành động lực.
Hàng ngày, từng sat na, nhân sinh chiến đấu với lòng tham, các hành giả cũng chiến đấu sinh tử với lòng tham phàm tình trong chính bản thân sâu dày nghiệp chướng còn đâu đấy, như một nỗ lực gạn đục khơi trong, lắng lọc thân tâm tìm nẻo sáng, sự giải thoát. Ảnh minh họa
Hàng ngày, từng sat na, nhân sinh chiến đấu với lòng tham, các hành giả cũng chiến đấu sinh tử với lòng tham phàm tình trong chính bản thân sâu dày nghiệp chướng còn đâu đấy, như một nỗ lực gạn đục khơi trong, lắng lọc thân tâm tìm nẻo sáng, sự giải thoát. Ảnh minh họa
Bài liên quan
Tham lam là liều thuốc độc!
Tôi cũng để ý và có lần thú vị nhận ra ý nghĩa đặc biệt của chữ "thi": thi ở học đường, đấu trường thể thao hay sân khấu...Thi tú tài, cử nhân, tiến sĩ...đã đành, nó xác lập đẳng cấp, ghi nhận tiến bộ và kết quả học tập nghiên cứu. Song, có khi người ta tinh quái tổ chức những cuộc thi mà đỉnh cao là phong bì mấy trăm hay một triệu bạc (VNĐ), mảnh giấy in vội cùng tiếng vỗ tay, cả nước một ngày có bao nhiêu cuộc thi như thế không ai thống kê hết, vậy mà tranh nhau, ngẩng đầu như lên bục danh dự nhận nobel! Tâm lý sinh chữ thi, giải thưởng. Chuyện một lớp học 100% có giải thưởng không hiếm, ở xứ mình, cũng khai thác lòng tham danh vị. Chữ tham ở đây có tiêu cực?
Như trên sân cỏ, lòng tham chức vô địch danh giá cuốn các cầu thủ xung trận không khác trên chiến trường, không ai trách họ "tham" thành tích, sự lơ là chểnh mảng trên sân bị lên án la ó và có hậu quả. Người ta vỗ tay tán thưởng lòng tham ấy, tham danh dự, một giá trị ở đời trần tục. Nhưng khi chơi xấu, phá chân, tiểu xảo, ăn gian... cũng vì lòng tham không đi cửa chính, bị lên án, đả kích và có hậu quả. Cũng sự tham, khác nhau nhiều.
Hàng ngày, từng sat na, nhân sinh chiến đấu với lòng tham, các hành giả cũng chiến đấu sinh tử với lòng tham phàm tình trong chính bản thân sâu dày nghiệp chướng còn đâu đấy, như một nỗ lực gạn đục khơi trong, lắng lọc thân tâm tìm nẻo sáng, sự giải thoát.
Khen là có những lời tâng bốc một ai đó, thậm chí tô hồng sự thật, đôi khi có tính cách thổi phồng các sự việc hướng tích cực nhất. Chê là sự chỉ trích, dè bỉu, từ đó có những lời nói bất mãn, bôi nhọ một người, tất cả những hình thái tiêu cực ấy chúng ta gọi là chê.
>>Góc nhìn Phật tử
Như vậy, khen chê trong xã hội là chuyện muôn đời, dường như không có cách nào để tránh, cách duy nhất là để tâm bình thản trước mọi sự khen chê.
Bài liên quan
Trải lòng về "số thị phi" của Hoa hậu Đại dương Lê Âu Ngân Anh
Những người được khen nếu không làm chủ được mình sẽ cảm thấy mất phương hướng, từ đó sinh tâm kiêu ngạo, không còn giữ được tâm thái bình thường khi đối diện với cuộc sống. Thê thảm hơn, vì những lời khen mà người ta thể hiện một cách quá đà sở đắc của bản thân, thành ra tính tự cao tự đắc, đó là điều đáng tiếc nhất. Ngược lại, người bị chê sẽ cảm thấy bị tổn thương, đau khổ, từ đó hình thành nên tâm lý mặc cảm, tự ty. Hai trạng thái đối lập trên là điều thường xảy ra trong cuộc đời. Những người chưa từng trải, thiếu kinh nghiệm sống sẽ bị khen chê làm cho chao đảo. Một người con Phật, có học giáo lý và hành trì sẽ nhận thức được tai hại của cả khen lẫn chê, từ đó quán chiếu và bình thản trước chúng, không còn sống dở chết dở bởi thị phi của miệng đời.
Một người con Phật, có học giáo lý và hành trì sẽ nhận thức được tai hại của cả khen lẫn chê, từ đó quán chiếu và bình thản trước chúng, không còn sống dở chết dở bởi thị phi của miệng đời.
Một người con Phật, có học giáo lý và hành trì sẽ nhận thức được tai hại của cả khen lẫn chê, từ đó quán chiếu và bình thản trước chúng, không còn sống dở chết dở bởi thị phi của miệng đời.
Dân gian có câu:
“Ở sao cho vừa lòng người,
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
Cao chê ngổng, thấp chê lùn.
Béo chê béo trục béo tròn.
Gầy chê xương sống xương sườn lồi ra”.
Ngài Narada có nói trong quyển Những bước thăng trầm: “Bạn có thể sống đời trong sạch như một vị Phật, nhưng bạn không thể tránh khỏi những lời chỉ trích, tấn công và nguyền rủa”. Chúng ta có sống tốt cỡ nào cũng có những người trách móc, chỉ trích, mỉa mai, chê bai, nói xấu. Đức Phật là một người phước trí vẹn toàn, hoàn thiện về mọi mặt, vậy mà Ngài cũng không thể tránh được những lời thị phi trong cuộc đời. Nhưng đức Thế Tôn không để tâm vào những chuyện đó, hoàn toàn bất động trước khen chê. Một người theo bước chân Phật cần nhìn rõ bản chất khen chê, từ đó học cách bình thản trước thịnh, suy, tồn, vong, được, mất. Chúng ta hãy tập nhìn một cách rõ ràng hơn, sâu sắc hơn khi đối diện với những vấn đề khó khăn mà ta vô tình gặp phải. Người nào bị cột trói bởi lời khen tiếng chê thì tự gánh lấy khổ đau vì thiếu bản lĩnh và trí tuệ.
Bài liên quan
Vì sao Hoàng hậu Mallikā được đức Phật ngợi khen là hương thơm đức hạnh của người trì giới
Có người nói rằng: “Muốn bình yên thì hãy giẫm lên dư luận mà đi”. Đó lại là một cách nghĩ tiêu cực khác với trạng thái bình thản hay tự tại trước những lời gièm pha, mỉa mai. Người có trí tuệ không phải bất cần đời khi nghe người khác nói về mình. Thầy chúng tôi thường dạy: “Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thấy, biết quấy để sửa”. Khi nghe người ta phê phán hay khen ngợi mình, trước phải xem điều đó đúng hay sai, nếu người ta nói mình xấu mà mình xấu thật thì phải sửa, người ta khen mình hay giỏi và điều đó đúng thì không nên tự mãn và cần cố gắng để tốt hơn. Còn họ thêu dệt sự thật thì nên mỉm cười vì điều đó chẳng liên can gì đến mình. Một người có sự hàm dưỡng và có nội lực sẽ bình thản vượt qua tất cả thử thách, biết những gì cần thiết để tưới tẩm cho hạt giống lành trong nội tâm đơm hoa kết trái.
Chúng ta biết nhìn lại bản thân khi nghe những lời khen tiếng chê thì mình sẽ học được những điều mới. Nếu bạn cảm thấy hãnh diện, tự hào, khi được khen tặng thì khó lòng có được những bước tiến ở tương lai. Chuyện khen và chê như đôi bàn tay lật ngửa và lật úp, hôm nay người khen thì mai có thể họ lại chê, ngày mốt họ khen, ngày kia họ lại chê tiếp. Khi đã nhìn thấy được bản chất vô thường của lời nói, chúng ta sẽ “để gió cuốn đi”, cuốn đi những muộn phiền, cuốn đi những tâm lý ưa hay ghét, cuốn luôn cả “cái tôi vô minh” mà mình đã chấp chặt bấy lâu.
Khen chê là chuyện thiên hạ, chúng ta không thể lấy tay mình che miệng đời được. Người ta có quyền nói, có quyền khen, có quyền chê, còn mình có quyền không tiếp nhận để tâm bình thản. Người thành công dám đặt sự khen chê ở sau lưng.
Khen chê là chuyện thiên hạ, chúng ta không thể lấy tay mình che miệng đời được. Người ta có quyền nói, có quyền khen, có quyền chê, còn mình có quyền không tiếp nhận để tâm bình thản. Người thành công dám đặt sự khen chê ở sau lưng.
Bài liên quan
Câu chuyện về vị Hòa thượng ngày ngày đi mua thịt cá nhưng vẫn được vua Tự Đức khen thưởng
Một người muốn làm được việc lớn đừng bao giờ bị nhấn chìm bởi khen chê, nếu mình bận tâm nhiều về điều đó sẽ rất khó khăn để thực hiện những lý tưởng của đời mình. Đối với một người có tâm học đạo, không kể là người xuất gia hay cư sĩ tại gia, thì sự khen chê chỉ là hoa đớm giữ hư không, người ta chỉ rút ra những bài học kinh nghiệm để tự hoàn thiện bản thân trên con đường hướng đến bến bờ giải thoát. “Người khen ta mà khen đúng là bạn ta, người chê ta chê đúng là thầy ta, còn người nịnh là kẻ thù của ta”. Đây là câu mà chúng ta nên học.
Khen chê là chuyện thiên hạ, chúng ta không thể lấy tay mình che miệng đời được. Người ta có quyền nói, có quyền khen, có quyền chê, còn mình có quyền không tiếp nhận để tâm bình thản. Người thành công dám đặt sự khen chê ở sau lưng. Đôi khi, họ còn dùng sự chê bai, phỉ báng, chỉ trích làm bàn đạp, tạo động lực để rèn luyện tính kiên trì, nhẫn nại. Những ai bị lệ thuộc vào sự khen chê sẽ khó mà tiến bộ được. Chúng ta làm việc gì mà cảm thấy điều đó hợp tình, hợp lí và phù hợp với khả năng, không phạm vào những quy tắc đạo đức thì hãy thầm lặng, vững bước mà làm, đừng để bị chi phối và tác động bên ngoài để không đánh mất lý tưởng mà mình đang ấp ủ.
Dùng tâm nhẫn trước những lời nói chê bai.
Dùng tâm nhẫn trước những lời nói chê bai.
Bài liên quan
Thi hóa Kinh Bách Dụ: Kẻ ngốc khen cha
Phương Tây có một câu nói: “Dog bark, We go”. Vững bước không dè dặt trước thị phi phải trái. Sự thành công đến với ta đôi khi phải được đánh đổi bằng máu và nước mắt. Muốn bước chân trên thảm đỏ huy hoàng thì phải có những lúc đi qua những đoạn đường sỏi đá, chông gai. Khen và chê chỉ là những ngọn gió đời, đôi khi chúng đem đến sự mát mẻ trong ngày hè nhưng có những khi mang về sự lạnh lẽo lúc mùa đông. Người trang bị cho mình vũ khí của bậc hiền nhân là tín, tàm, quý, giới, văn, thí, tuệ thì sẽ luôn tự tại và thảnh thơi trước sự khen và chê của thế gian.
Đức Phật dạy rằng, “Kẻ nào dùng âm thanh cầu ta, dùng sắc cầu ta, kẻ ấy hành tà đạo, không thể thấy Như Lai.” “Không thể thấy Như Lai” ở đây có nghĩa là dù tu cả ngàn năm vẫn chỉ là phàm phu và có khi mang tội không biết chừng.
>>Phật tử có thể đọc thêm loạt bài về các giáo lý Phật giáo hay
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Bài liên quan
Nhân cách người tu sĩ
Trong cuộc đời này, nói rộng ra ở cõi Ta Bà này, từ Đông sang Tây, con người thường bị mê mờ hay mê luyến vào hình tướng bề ngoài và quên mất hay đồng hóa nó với thực tướng/bản chất/nội tâm ở bên trong. Nguyên do chỉ vì chúng sinh vọng chấp vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà sanh tâm mình (Kinh Viên Giác). Thí dụ:
- Một cậu thanh niên thấy một cô người mẫu, hoa khôi, á hậu…đẹp như tiên nga giáng thế… tưởng đó là “người trong mộng” hay “người yêu lý tưởng”. Khi lấy về thì bao nhiêu tính xấu mới lộ ra, bao xung đột vì khác tính tình. Mối tình trong mộng nay biến thành “oan gia trái chủ” khiến cười đau khóc hận.
- Một cô gái thấy một anh chàng hào hoa, đẹp trai, cử chỉ lịch sự…tưởng đó là “hoàng tử của lòng em”, lấy về mới tá hỏa ra đó là anh chàng Sở Khanh, tốt mã giẻ cùi…thôi thì vỡ mộng.
- Vào siêu thị thấy trái cây vỏ ngoài còn xanh tốt. Mua về bổ ra, cắt ra mới thấy bên trong đã hư thối. Đi các chợ rẻ tiền không tín nhiệm thường bị lường gạt là như thế.
- Nghe quảng cáo các món hàng, dịch vụ trên truyền hình, đài phát thanh…thấy mà mê. Háo hức mua về dùng thử mới thấy đó là đổ dỏm hay đồ giả.
Bài liên quan
Cảnh giới của người tu
Tất cả những thứ này người ta đã dùng hình tướng tốt đẹp bề ngoài (sắc,thanh, hương, vị) để che dấu thực tướng tức cái không tốt, cái xấu ở bên trong. Ngay trong đường lối tu hành ngày nay, một số rất đông cũng đã và đang mải mê theo con đường tu tướng, tức lấy hình thức, hình tướng để hành đạo… mà cho đó hoặc tưởng đó là con đường tu hành chân chính. Một số rất đông Phật tử không phân biệt được thế nào là Tâm (thực chất) và thế nào là Tướng (hình thức bề ngoài) vô tình đã bị các vị này mê mờ. Thậm chí tại California nơi tôi ở, một số chùa làm cơm chay miễn phí thật ngon để “câu” Phật tử. Một số bà khi gặp nhau thì bình phẩm chùa nào nấu cơm chay ngon rồi rủ nhau đi chùa đó. Nghe cả trăm thầy giảng và băng đĩa, thậm chí hành hương cả Tứ Động Tâm nơi Đức Phật sinh ra, thành đạo, hành đạo và nhập diệt… mà tu hành mà như thế thì đúng là cười ra nước mắt. Vậy thì đâu là tu tướng và đâu là tu tâm?
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Tu tướng tức là dựa vào hình tướng bên ngoài:
- Tụng kinh cho hay, cho hấp dẫn…
- Thuyết giảng cho hay cho hấp dẫn…vẫn chỉ là hình tướng.
- Lễ nghi trang trọng, huyền bí vẫn chỉ là hình tướng.
- Phát hành cả trăm băng đĩa, viết cả chục cuốn sách…
- Thậm chí có cả triệu tín đồ đi theo vẫn chỉ là hình danh sắc tướng. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng, “Bồ Tát trụ vào nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng đều không phải là Bồ Tát.” Xin nhớ cho tín đồ đi theo chính là chúng sinh tướng.
- Được báo chí phỏng vấn bốc lên tận mây xanh, trao giải thưởng…vẫn chỉ là hình tướng. Giải thưởng, thậm chí như Giải Nobel, nhiều khi chỉ vì nhu cầu chính trị và trao lầm không biết chừng. Thụy Điển đã đe dọa thu lại Giải Thưởng Nobel Hòa Bình trao cho Bà San Suu Kyi vì bà này không ngăn cản quân đội đàn áp người thiểu số Hồi Giáo Rohingya tại Miến Điện. Rồi thế giới lại hối hận vì đã trao lầm Giải Thưởng Nobel Hòa Bình cho Ô. Obama khi ông mới nhậm chức tổng thống được vài tháng, sau đó tiến hành cuộc tiến công vào Libya giết chết Ô. Gaddafi khiến đất nước này tan nát cho tới bây giờ.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
- Ngài Thần Tú văn chương uyên bác mà vẫn chưa ngộ. Trong khi Huệ Năng không biết một chữ mà tâm đã là tâm Phật. Vậy thì chữ nghĩa, kiến thức, bằng cấp không phải là nhân tố quyết định trong việc tu học. Ngộ và quyết tâm tu học mới là yếu tố quyết định.
- Trụ trì chùa thật to, thật đồ sộ…vẫn chỉ là hình tướng...
- Thậm chí cả “Thiền trà, thư pháp” cũng vẫn chỉ là hình tướng, nó chẳng biểu lộ sự chứng đắc của Thiền sư.
- Làm thơ rồi nhờ nhạc sĩ phổ nhạc, ca sĩ nổi tiếng hát…chính là “bệnh” phô trương. Kinh Phật, kệ tụng của chư Tổ…có cần nhờ ai phổ nhạc, ca sĩ hát, thu vào băng đĩa…sao đọc tụng cho tới bây giờ?
Bài liên quan
Tu hành như khúc gỗ trôi sông
- Đi đâu cũng đòi phải có lọng che như “vua quan võng lọng ngày xưa”, tức lụy vào hình danh, sắc tướng…mà giảng về “thiền chánh niệm” về “tỉnh thức” là…phỉ báng Thiền.
- Thậm chí có 32 tướng tốt như Phật vẫn chỉ là nhan sắc, chưa phải là Phật. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật bảo ngài Tu Bồ Đề, “Chuyển Luân Thánh Vương có 32 tướng tốt cũng gọi là Phật sao?”
- Hoa hậu, hoa khôi, á hậu, ca sĩ, MC, người mẫu, tài tử nổi tiếng, ăn mặc đẹp như Tiên, nữ trang đeo đầy cổ, đầy tay…đứng khép nép, chắp tay cung kính trước tượng Phật, trông dịu hiền như Phật Bà Quan Âm…rồi hình chụp đăng tràn lan trên các báo…nhưng nhiều khi chỉ là “đóng kịch”, chưa chắc đã là Phật tử chân chính giữ được năm giới cấm. Chớ có lụy vào hình tướng bề ngoài này. Các cô nên thay một bộ áo lam bình dị, tới chùa quét dọn, lau chùi nhà vệ sinh, phục vụ cơm chay cho các cụ già, các khóa tu mùa hạ… như thế mới chính là tu hành theo Phật và tu tâm. Tu tướng chỉ mang tội vì lừa dối chính mình. Tu tâm mới vun trồng phước báu và phát triển trí tuệ. Tu tướng làm mê mờ trí tuệ.
Như vậy thế nào là tâm tướng và tu tâm?
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
- Nguy nhiên, tự tại, tâm không động…đó là hiện bày của tâm tướng.
- Từ bi hiện ra trên nét mặt, qua hành động cử chỉ, lời nói…đó là hiển lộ của tâm tướng.
- Trước cảnh khổ, oan trái… nhẫn nhục không kêu than giống như “Tiểu Kính Tâm”…đó chính là biểu lộ của tâm tướng.
- Coi quyền chức, danh vọng như phù vân…đó chính là hạnh của tu tâm.
- Thấy tiền bạc phải thấy sợ vì muôn ngàn tai họa xảy đến đều do tiền bạc. Đức Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ nói rằng ngài sợ hãi, lánh xa tiền bạc…đó chính là biểu hiện của tâm thanh tịnh hay tâm Phật.
- Tiền của đàn na thí chủ, Phật tử cúng dường…chỉ dùng vào Phật sự, chu cấp cho kẻ nghèo khó, phát học bổng cho học sinh hiếu học…không giữ làm của riêng…đó chính là tu hạnh thanh tịnh và bố thí Ba-la-mật.
- Thấy sắc đẹp của nam-nữ phải thấy đó là ngục tù và tai họa.
- Nghe lời khen không động tâm, nghe lời chê không tức giận…là tâm đã đi vào Định.
- Chùa nghèo, dù trong hang động, nơi thâm sơn cùng cốc…không Phật tử cúng dường, không các bà giàu có đến thăm viếng, không cơm chay chục món…mà vẫn thong dong tự tại…đó chính là Bồ Tát ẩn tu.
- Thuyết pháp cả trăm ngàn người nghe mà tâm vẫn không cao ngạo… coi đó như “giấc mộng ngày hôm qua”, không coi thường Phật tử, không nghĩ mình đã là Thánh, là Phật…đó là tâm địa của Bồ Tát. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng, “Bồ Tát diệt độ được vô lượng vô biên chúng sinh, nhưng không có chúng sinh nào được diệt độ. Như thế mới gọi là Bồ Tát.”
- Chùa rộng biến thành quán trọ cho học sinh nghèo tá túc trong mùa thi. Rồi cơm chay miễn phí…đó là công hạnh từ bi.
- Xây nhà tình nghĩa, xây cầu, giếng nước cho các thôn bản, gia đình nghèo khó…đó là huân tập hạnh “hằng thuận vì lợi ích chúng sinh”.
- Phát áo ấm cho học sinh nghèo trong mùa lạnh, thăm hỏi cô nhi quả phụ, người già trong bệnh viện…là thể hiện tinh thần cứu khổ.
- Cùng các bạn trẻ, sinh viên xuống đường thu dọn rác, làm sạch môi trường chính là “làm trang nghiêm cõi Phật”. Cõi Phật không có uế trược, không có ô nhiễm, không có xả rác bừa bãi.
- Mở mang trí tuệ cho mọi người, không mê mờ chúng sinh bằng những chuyện mê tín, huyễn hoặc như …xin xâm, bói quẻ, xem ngày giờ tốt-xấu, tuổi nào hợp với tuổi nào, người chết phải chôn vào giờ nào. Phật tử và người tu hành chân chánh phải “Duy tuệ thị nghiệp”. Thiền Sư Bảo Giám đời Lý (1173) dạy rằng, “Muốn thành Phật cháng đẳng chánh giác phải nhờ trí tuệ”. Chúng sinh sống bằng tình cảm, mê tín và gom góp của cải. Các bậc đại sĩ, hiền thánh, Bồ Tát và Phật sống bằng trí tuệ (Bát Nhã). Tài sản của các ngài là lòng Từ Bi.
- Tổ chức các khóa tu mùa hạ, xuất gia gieo duyên cho giới trẻ …là gieo trồng căn lành, gầy dựng hạt giống Phật cho ngày mai, là góp phần xây dựng xã hội. Đó là hạnh cứu thế. Đức Phật ra đời cũng chỉ vì hạnh nguyện cứu độ chúng sinh.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Tóm lại, đạo Phật không phải là đạo của thời trang, kiểu cọ, hình thức bề ngoài. Đạo Phật không bao giờ dùng hình tướng hay nghi thức tế lễ huyền bí để lòe mị chúng sinh. Như Tổ Đạt Ma đã nói, cốt tủy của đạo Phật là, “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” hay “Tức tâm tức Phật” hay “Ngoài tâm không Phật”. Ngày xưa, khi Đức Phật còn tại thế, các đệ tử của Phật kể cả hàng tục gia (cư sĩ) chỉ tu theo Bát Chánh Đạo và Thiền Định mà đắc quả. Không hề có chuyện Đức Phật cúng vong, cúng mông sơn thí thực, cầu siêu, làm lễ chôn cất người chết. Cũng không hề có chuyện Đức Phật làm lễ thành hôn (nay gọi là hằng thuận) cho ai. Các đệ tử của Phật cũng không hề cầu nguyện để được giải thoát mà chỉ nương theo lời chỉ dạy và công hạnh của chư Phật và các hàng Bồ Tát để tu tập. Khi du nhập vào Trung Hoa và Việt Nam, đạo Phật đã biến thể và đẻ ra rất nhiều nghi thức cầu nguyện và cúng tế không khác gì các pháp sư, thầy cúng, thầy bói.
Nhập thế và độ sinh không có nghĩa là chiều theo và dung dưỡng tinh thần mê tín, dị đoan của chúng sinh. Chúng ta phải coi lại và biết dừng lại và đánh giá xem đâu là chánh pháp và đâu là tà pháp. Cột trụ “Trí Tuệ”, “Tánh Không” và “Trí Tuệ Bát Nhã” của Phật Giáo sẽ gẫy đổ nếu chúng ta cứ sa đà vào các hình tướng cúng kiếng cầu nguyện đầy hình thức như thế này.
Bài liên quan
Cốt cách người tu hành: HT Thích Trí Tịnh
Đạo Phật nổi bật và hi hữu trên thế gian này là vì nó không dựa và Thần Linh và những nghi thức cúng tế, cầu nguyện. Đạo Phật cũng nổi bật vì lời dạy của Đức Phật “Tự thắp đuốc lên mà đi”. Điều đó có nghĩa là, nghe lời giảng dạy của Phật, của chư Tổ.. rồi như con chim đủ lông đủ cánh, lìa tổ và tự lo cho cuộc đời mình…tức không cần thầy nào, chùa nào độ cho mình cả. Cầu nguyện chỉ là trợ lực, nhưng sẽ là vô ích nếu mình không tự tu, tự chứng. Đã đến lúc chúng ta phải giảm bớt và thanh lọc bớt nhưng nghi thức, tế lễ, cúng kiếng trong tinh thần “độ sinh nhưng không xa lìa trí tuệ”. Đó là công việc vô cùng nặng nề và bức thiết của Giáo Hội. Xin nhớ cho, mất Trí Tuệ thì Đạo Phật cũng giống hệt như các tôn giáo khác.
Riêng đối với người Phật tử hay người xuất gia tu hành chân chính… phải soi rọi vào tâm mình, nhìn thẳng vào tâm mình và phải thấy trong tâm mình có Phật. Khi đã nhìn thấy tâm mình là tâm Phật (kiến tánh, thấy tánh) thì quyết tâm tu hành để hiển lộ tâm ấy. Tâm Phật là tâm “bất nhị”, bản tế bình đẳng, thân tâm vắng lặng, viên mãn mười phương cõi, tịch mịch chiếu soi mà hiện ra các Tịnh Độ (Kinh Viên Giác). Tâm Phật không huyền bí mà có thể hiển lộ ra ngoài bằng những gì nói ở phần trên. Do đó người Phật tử chân chánh phải xa lìa lối tu tướng mà phải hướng về tu tâm. Tu theo chánh đạo là tu tâm. Tu theo tà đạo là tu tướng. Chính vì thế mà trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng, “Kẻ nào dùng âm thanh cầu ta, dùng sắc cầu ta, kẻ ấy hành tà đạo, không thể thấy Như Lai.” “Không thể thấy Như Lai” ở đây có nghĩa là dù tu cả ngàn năm vẫn chỉ là phàm phu và có khi mang tội không biết chừng.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.