HƯỚNG DẪN SƠ CỨU (FIRST AID)
KHI BỊ CÔN TRÙNG, ĐỘNG VẬT VÀ NGƯỜI CẮN TRONG LÚC SINH HOẠT NGOÀI TRỜI Lynn Ly phỏng dịch theo "The Everything First Aid"
Những hoạt động ngoài trời như làm việc, vui chơi, giải trí, du ngoạn ở trong một số hoàn cảnh , khí hậu , và thời tiết . Khí hậu nóng và lạnh đều có thể gây ra những hệ quả đối lập (adverse consequences), và những sinh vật (critters) sống bên ngoài thỉnh thoảng gây dị ứng (ngứa ngáy khó chịu) hoặc tổn thương . Cơ thể bị thiếu nước hoặc ở cao độ (thí dụ lên đỉnh núi) và ở trong một số điều kiện ngoài trời khác cũng có thể làm bạn cảm thấy suy yếu đi .
Cho dù không có vấn đề ǵ khi bạn hoạt động ngoài trời, nhưng thật quan trọng bạn biết làm ǵ để chăm sóc hoặc trợ giúp những người bị chấn thương, bị bệnh tật bất ngờ .
I) BỊ CÔN TRÙNG, LOÀI VẬT VÀ NGƯỜI CẮN
Nhiều loại côn trùng và các sinh vật khác, bao gồm cả con người, gây ra các vết cắn và vết châm chích có thể cho cảm giác không thoải mái hoặc đe dọa tính mạng từ nhẹ nhẹ đến trung b́nh. Điều quan trọng là biết làm ǵ, làm thế nào để trị liệu, và khi nào th́ cần t́m kiếm đến trợ giúp từ chuyên gia y tế để trị liệu bất kỳ thương tổn tàng ẩn bên trong.
1) B̉ CẠP CẮN (SCORPION BITES)
Ḅ cạp là loại côn trùng nhiều chân có h́nh dạng giống tôm hùm (lobster-like arthoropods) nằm trong xếp loại côn trùng có nọc độc (arcahnid class, cùng loài nhền nhện = spider class), có một ng̣i / kim xoăn ở phần cuối nơi đuôi, và chúng thường được t́m thấy ở vùng sa mạc phía Tây Nam của Mexico (nước Mễ Tây Cơ). Những vết chích / đốt của bọ cạp dường như không có khả năng gây tử vong và dễ dàng điều trị, nhưng lại nguy hiểm cho trẻ nhỏ và người già hơn . Những triệu chứng bao gồm đau nhức ngay lập tức (immediate pain), nóng rát (burning), sưng tấy chút chút (minor swelling) và cảm giác tê (numb) hoặc ngứa ran (tingling sensation).
Những buớc sau đây cần nên thực hiện để trị liệu vết ḅ cạp cắn:
1. Rửa vùng bị ḅ cạp cắn bằng xà pḥng / xà bông và nước
2. Dùng túi trườm lạnh đặt lên vùng bị ḅ cạp cắn trong ṿng 10 phút , nếu cần thiết th́ lập đi lập lại việc trườm lạnh vùng bị cắn với khoảng cách giữa các lần trườm lạnh là 10 phút .
3. Gọi điện thoại đến trung tâm kiểm soát chất độc (the Poison Control Center), hay đi bệnh viện khi có bất kỳ triệu chứng nghiêm trọng ǵ
2) BỌ VE CẮN (TICK BITES)
Những người sống vùng rừng cây hay đồng cỏ, hay những người dành thời gian vui chơi giải trí ở những khu vực này th́ dễ bị bọ ve cắn . Loài côn trùng nho nhỏ này sống bằng cách hút máu các loài động vật có vú (mammals) thí dụ như hươu nai (deer), loài gậm nhấm (rodents), thỏ (rabbits) và có thể truyền bệnh từ động vật sang người .
Việc sơ cứu (first aid) những vết bọ ve cắn bao gồm loại bỏ con bọ ve đang bu bám ngay lập tức để tránh những phản ứng từ vết cắn và giảm thiểu tối đa các loại bệnh nhiễm trùng do bọ ve gây ra thí dụ bệnh Lyme, bệnh nóng sốt Colorado bọ ve (Colorado tick fever), bệnh nóng sốt được phát hiện ở núi đá (Rocky Mountain Spotted fever)
Để tháo bỏ con bọ ve bu bám trên người , hăy làm như sau:
1. Dùng cây nhíp (tweezers) hay cây kẹp nhỏ nhỏ cong cong hay thẳng thẳng (small curl or flat forcepts) kẹp lấy đầu con bọ ve và càng cận sát nơi da đang bị con bọ ve cắn càng tốt, rồi nhẹ nhàng kéo ra, đừng bóp nát hay xoay vặn con bọ ve
2. Rửa vùng bị bọ ve cắn bằng xà pḥng / xà bông và nước.
3. Bôi thuốc Antihistamine hoặc loại 1% hydrocortisone cream (loại kem chứa 1% chất hydrocortisone)
Cần phải có sự chăm sóc y tế chuyên nghiệp , nếu con bọ ve cắn quá sâu và bạn không thể tháo gỡ nó ra được, hoặc bạn đang ở trong khu vực được thông báo là có nhiều nguy cơ bị bệnh lyme, hoặc bạn có triệu chứng nóng sốt hay triệu chứng cảm cúm , hoặc bạn có trải nghiệm bắp thịt trở lên suy nhược, tê liệt (paralysis) , hoặc nổi vết tṛn đỏ trên da gọi là "phát ban mắt ḅ" (the bull's eye rash) là đặc chưng của bệnh Lyme .
CẢNH BÁO !!!
Đừng bao giờ bôi petroleum jelly (vaseline), rượu cồn ( alcohol ) ahy ammonia lên con bọ ve - chúng sẽ cắn chặt sâu vào da hơn. Nếu bạn đang ở trong vùng cảnh báo có nhiều nguy cơ bệnh Lyme mà bị bọ ve cắn, bạn nhất định phải phone báo bác sĩ để được tư vấn và ngay lập tức được chăm sóc và điều tri bao gồm việc sử dụng thuốc kháng sinh
Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của một thính giả ở Thụy Sĩ hỏi về chứng mệt mỏi măn tính.
Bác sĩ Hồ văn Hiền
Chúng tôi có nhận được email của một thính giả ở Thụy Sĩ và được bác sĩ Hồ văn Hiền giải đáp:
Bịnh nhân (không biết nam hay nữ), từ lúc 50 tuổi, bị nhức khớp xương, lạnh đầu gối, toàn thân đuối sức. Nhiều bác sĩ theo dơi, khảo sát, không t́m ra nguyên do, cho uống thuốc giảm đau và thuốc hạ huyết áp lúc huyết áp lên cao.
Cũng như mọi lần, tôi chỉ xin bàn đến một số triệu chứng với mục đích thông tin, để giúp trả lời thắc mắc của bịnh nhân. Chúng ta không có ư định định bịnh và chữa trị một trường hợp đang được săn sóc tường tận và kỹ lưỡng bởi nhiều bác sĩ ở Thụy Sĩ.
Trường hợp bịnh nhân mơi mệt (fatigue) măn tính (“kinh niên”, trên 6 tháng) mà thử nghiệm, chẩn đoán h́nh ảnh không t́m thấy ǵ, người ta thường đưa ra các định bịnh sau đây để dễ làm việc:
(1) Hội chứng mệt mơi măn tính (HCMMT, chronic fatigue syndrome) nếu hội được ít nhất 4 trong các triệu chứng sau (cũng trên 6 tháng):
1. trí nhớ, khả năng tập trung giảm
2. đau họng (sorethroat)
3. hạch đau ở nách và cỗ (tender lymph nodes)
4. đau cơ bắp
5. đau nhiều khớp xương
6. nhức đầu mới xuất hiện
7. ngủ dậy không thấy khỏe khoắn (unrefreshing sleep)
8. vận động, thể dục xong lại càng thấy khó chịu thêm (post exercise malaise)
(2) Nếu không có những triệu chứng kèm theo, người ta xếp vào loại “chứng mệt mơi măn tính vô căn” (idiopathic chronic fatigue), nghĩa là không biết lư do.
Nguyên nhân gây ra HCMMT chưa được hiểu rơ lắm. Trước đây người ta cho rằng bịnh do trước đó bịnh nhân bị nhiễm một siêu vi như Eptein Barr virus, và sự điều ḥa hệ miễn nhiễm bị rối loạn (immune dysregulation mechanism).
Các nhà tâm lư học th́ nhận thấy rằng bịnh nhân trong quá khứ (thời thơ ấu) thường có những biến cố làm tổn thương tâm lư (childhood trauma) hoặc những bịnh tâm lư (psychopathology)làm năo bộ người bịnh trong trạng thái nhạy cảm một cách bất b́nh thường với các yếu tố gây stress (stressors).
Về sinh học, người ta cũng nhận thấy cơ thể của bịnh nhân có thể đối phó với các stress một cách bất b́nh thường. Ví dụ, lúc bị stress, hypothalamus trong năo bộ kích thích tuyến yên (bằng hạt đậu dưới năo bộ, pituitary gland), tuyến yên kích thích tuyến thượng thận (trong bụng, trên hai trái thận) để tiết ra chất cortisol, v́ một cơ chế, có thể mức hoạt động cortisol thấp hơn ở người bịnh MMT (hypocortisolism). Tuy nhiên, trong khảo cứu thực tế người ta dùng corticoid để trị HCMMT nhưng không có kết quả rơ rệt.
Chữa trị:
Bịnh HCMMT khó chữa dứt và cần nhiều bs, chuyên viên can thiệp: bs gia đ́nh để giải quyết những vấn đề như trị đau nhức, điều hoà áp huyết, giải thích các triệu chứng cho bịnh nhân hiểu, ít nhất th́ người bịnh biết b́nh không bị một bịnh ǵ ghê gớm đe dọa mạng sống, khuyến khích người bịnh tiếp tục các hoạt động nghề nghiệp, thường ngày.
Bs cần lắng nghe để động viên tinh thần, không khoát tay cho rằng bịnh nhân tưởng tượng ra bịnh, làm bịnh nhân chán năn.
Có thể cần bác sĩ tâm thần để trị những bịnh đi kèm như trầm cảm (depression) nếu có. Chuyên viên tâm lư dùng tâm lư trị liệu pháp (psychotherapy, nếu người bịnh thấy hứng thú) để thay đổi nhăn quan (perceptions), hành vi (behavior) của người bịnh. Ví dụ cách nhận thức về cuộc sống, về các khó khăn cuộc sống có thể không đúng với thực tế và làm cho người bịnh thấy ḿnh bị nhiều cái “khổ”, nhiều “khuyết điểm” hơn là ḿnh có thật sự, và do đó với khuynh hướng cầu toàn (perfectionist) cố gắng quá sức ḿnh để “đạt tiêu chuẩn” do chính ḿnh đặt ra, lại càng làm đuối sức mệt mơi thêm
(3) Một chứng khác có thể liên hệ đến bịnh này là bịnh fibromyalgia, thường đàn bà dưới 50 tuổi, cũng có những triệu chứng tương tự: mệt mơi, đau bắp cơ, đau khớp, tê tay chân, thử nghiệm, chẩn đoán h́nh ảnh không thấy ǵ bất b́nh thường. HC MMT và fibromyalgia khó phân biệt. Hai loại bịnh nhân này cũng đi khám bịnh nhiều và v́ bs không t́m ra test ǵ bất b́nh thường, bác sĩ cũng như bịnh nhân thấy chán năn, bực bội.
Hai câu hỏi cuối cùng:
1) Zaldiar là thuốc giảm đau kết hợp hai chất
1. acetaminophen (thường bán tự do ở Mỹ, tên Tylenol, nếu uống quá liều th́ có thể hại gan)
2. và tramadol là một chất ma túy (opioid), trên lư thuyết, có khả năng gây nghiện thuốc (physical dependence) và nếu ngưng đột ngột có thể gây triệu chứng cai thuốc (withdrawal symptoms)
2) Câu hỏi về dùng thuốc Coversum (perindopril, là một ACE inhibitor) cho áp huyết lên xuống bất thường, bịnh nhân cần được bs Thụy sĩ theo dơi và hướng dẫn kỹ lưỡng. Theo tôi nghĩ áp huyết lên xuống có thể cũng là một thành phần của bịnh HCMMT. Uống thuốc giảm huyết áp tùy tiện có thể không có lợi, một trong những lư do là chúng ta kéo áp huyết xuống thấp bằng thuốc, lúc đó, nếu ngưng thuốc, đột ngột áp huyết có thể tăng vọt (rebound) trở lại có thể c̣n cao hơn lúc trước (như cái yoyo), và chưa chắc có ích cho tim mạch.
Chứng viêm xoang sàng và chứng mắt mờ đột ngột do viêm dây thần kinh thị giác
Chứng viêm xoang sàng và chứng mắt mờ đột ngột do viêm dây thần kinh thị giác
Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của cô Trần thị Dung ở Daklak về chứng viêm xoang sàng, và email của thính giả Yến Anh về chứng mắt mờ đột ngột do viêm dây thần kinh thị giác.
Bác sĩ Hồ văn Hiền
Cô Trần thị Dung ở Daklak có nêu thắc mắc và được bác sĩ Hồ văn Hiền giải đáp:
Trả lời cô Trần thị Dung ở Đắc lắc: Chứng viêm xoang sàng (ethmoid sinusitis)
Xương sàng (ethmoid bone, theo nghĩa “sàng lọc”, nh́n dưới lên trên, xương ethmoid h́nh giống cái sàng (sieve) có nhiều lổ để lọc cặn bả trong nước) nằm ngay giữa mặt, giữa hai mắt, dưới phần trán của năo bộ, trên hốc mũi. Trong xương sàng có 4 hang rỗng thông với nhau là các xoang sàng. Nếu các xoang này bị nhiễm trùng chúng ta có chứng viêm xoang sàng (ethmoid sinusitis). Do vị trí của xoang, viêm xoang sàng có thể gây ra các triệu chứng sau:
• đau đầu hai bên thái dương
• đau hai bên khóe mắt (phía mũi)
• nhức đầu, phía dưới trán
• đàm chảy trong họng, phía sau, làm ho
• nóng sốt
Nguyên do: nhiễm trùng, dị ứng, u bướu, polyp làm sưng niêm mạc, nghẽn cửa sổ thông hơi của các xoang, đàm nhớt ứ đọng lại, làm vi trùng sinh sản thêm, gây viêm sàng (ethmoiditis).
Nếu chữa thuốc không khỏi, có thể nghĩ đến những khả năng sau:
• định bịnh không đúng. Lắm khi bịnh nhân đau đầu do nguyên nhân khác, ví dụ đau đầu migraine, do u bướu trong đầu, do bịnh mắt (vd glaucoma, cườm nước).
• thuốc giả, uống không đúng liều, không đủ lâu, vi trùng đề kháng thuốc.
Phẫu thuật:
1. Nếu đúng bịnh và chữa đúng cách bằng thuốc không khỏi;
2. Nếu bịnh càng ngày càng nặng,
3. Nếu có biến chứng lan qua mắt, óc
4. Nếu đe dọa đến tính mạng bịnh nhân,
th́ có thể cần đến phẩu thuật để cắt bỏ xương này đi (ethmoidectomy).
Trước khi mổ bs thường làm CT scan để xem xét bịnh t́nh. Phẩu thuật có thể có biến chứng trên mắt và năo bộ v́ 2 bộ phận này nằm kế cận. Cho nên cần đến trung tâm y khoa lớn và bác sĩ có đầy đủ kinh nghiệm trong lănh vực phẫu thuật này của ngành tai mũi họng.
Tóm lại, đề nghị thính giả đến bác sĩ gia đ́nh đem theo các chẩn đoán h́nh ảnh đă có, các toa thuốc đă dùng, nhờ xem xét lại toàn bộ t́nh h́nh bịnh của ḿnh. Nếu nghi là bịnh migraine, nên đi tư vấn bs thần kinh (neurologist). Nếu xác nhận đúng là viêm xoang sàng, nên t́m đến bs tai mũi họng có đủ khả năng định bịnh và chọn kháng sinh thích hợp, và nếu cần có thể giải quyết bằng phẫu thuật cho ḿnh.
Chúc bịnh nhân may mắn.
Chúng tôi cũng nhận được email của một thính giả kư tên là Yến Anh, nội dung đại khái như sau:
Tôi bị mờ mắt đă được hơn 4 năm rồi, do bị con ong va đập vào mắt trên đường đi làm về. Tôi có đến bệnh viện khám th́ lần đầu tiên bác sĩ chẩn đoán là tôi bị viêm thị thần kinh hậu cầu. Lần thứ hai tôi đi khám ở một bệnh viện khác th́ bác sĩ chẩn đoán là tôi bị thiếu máu mắt và teo dây thần kinh thị giác. Tôi muốn hỏi bác sĩ là bệnh thiếu máu mắt và bệnh viêm thị thần kinh hậu cầu có giống nhau không? Và liệu mắt tôi có thể chữa khỏi được không?
Chúng tôi đă chuyển thư cho bác sĩ Hồ văn Hiền và sau đây là phần giải thích của bác sĩ:
Những giải thích sau đây chỉ có tính cách thông tin. Chúng ta cần giải thích một số căn bản về giải phẩu (cơ thể học). Mỗi con mắt chúng ta là một cái pḥng tối, như cái pḥng tối của máy chụp h́nh. Ánh sáng từ thế giới bên ngoài vào, đi xuyên qua giác mạc (cornea) và thủy tinh thể (lens), rồi chiếu h́nh đảo ngược lên trên một cái màng h́nh, gọi là vơng mạc (retina), vai tṛ giống như phim chụp ảnh trong máy chụp h́nh. Trong vơng mạc có những tế bào đặc biệt biến tín hiệu ánh sáng thành những tín hiệu thần kinh, các tín hiệu này được dẫn truyền qua một dây thần kinh gọi là dây thần kinh thị giác (thị thần kinh, optic nerve, gồm chừng 1,2 triệu sợi thần kinh) đi đến phía sau của bộ óc (visual cortex), là nơi tiếp nhận các tín hiệu này và tạo nên cảm giác "thấy" của chúng ta. Trong trường hợp “viêm thị thần kinh hậu cầu”, thần kinh thị giác bị viêm, và cái phần bị hư hại nằm phía sau nhăn cầu, chứ không phải là phần sát với nhăn cầu. Lần đầu tiên đi khám sau khi bị mờ mắt, có thể bác sĩ mắt ghi nhận việc ông mất thị giác bên mắt đó nhưng lúc khám phía trong nhăn cầu, có lẽ do không thấy ǵ bất b́nh thường trong đáy mắt và đầu thần kinh thị giác (no abnormalities in the fundus and optic disc), bác sĩ mắt kết luận là thương tích không nằm phiá trước mà nằm sau nhăn cầu, ở đoạn sau của sợi thần kinh thị giác (retrobulbar optic neuritis, nay được gọi là posterior optic neuritis). Lần thứ nh́ ông đi khám th́ bác sĩ khác thấy ông teo dây thần kinh thị giác (optic nerve atrophy), v́ thường th́ chừng 6-8 tuần sau khi tai biến xảy ra, các dấu hiệu hư hại của dây thần kinh mới xuất hiện trên đáy mắt lúc bác sĩ mắt thứ hai nh́n vào.
Tuy cùng một căn bịnh hai bs nh́n vào mắt ông ở giai đoạn khác nhau, và diễn biến có thể dựng lại như sau:
(1) Do một cơ chế không rơ, mạch máu nuôi phần sau của dây thần kinh mắt của ông bị tắt nghẽn.
Chứng này có thể xảy ra:
1. Sau một vụ giải phẩu kéo dài, cọng thêm bịnh nhân thiếu máu (anemia) đáng kể, bịnh nhân khá lớn tuổi (60-70)
2. Bịnh nhân bị viêm động mạch tế bào không lồ [giant cell arteritis] (GCA) làm mạch máu tắt nghẽn
3. Không thuộc hai thành phần trên, lư do khác
(2) Lúc mới bịnh, khám đáy mắt b́nh thường, v́ dây thần kinh hư hại ở đoạn phía sau nhăn cầu.
(3) 6-8 tuần sau, do không đủ máu nuôi dưỡng (ischemia), các tế bào chết, thần kinh thị giác teo lại (atrophy), và bác sĩ thấy đầu thần kinh thị giác (optic disk) bị nhạt màu (disc pallor), định bịnh teo do thiếu máu (ischemic optic nerve atrophy).
Tóm lại, theo mô tả của ông, có thể bịnh của ông là “Posterior Ischemic Optic Neuropathy”, viết tắc là PION. (Re: Eye (2004) 18, 1188–1206. doi:10.1038/sj.eye.6701562. Posterior ischaemic optic neuropathy: clinical features, pathogenesis, and management.S S Hayreh, Department of Ophthalmology and Visual Sciences, College of Medicine, University of Iowa, Iowa City, IA, USA)
Đề nghị với ông đến bs gia đ́nh khám tổng quát, để xem ông/bà có bịnh ǵ khác hay không nhất là loại bỏ trường hợp bịnh giant cell arteritis (GCA) (bịnh này có thể gây những triệu chứng như mệt mơi, sụt cân đau đầu, đau cỗ, động mạch thái dương sờ đau, thử máu thấy sedimentation rate tăng cao). Mục đích là cần chữa những bịnh liên hệ (tiểu đường, cai hút thuốc lá) nếu có, nhất là bịnh GCA có thể làm hư đến mắt bên kia, cần phải chữa gấp bằng corticoid.
Ngoài ra, cần được bs mắt theo dơi định kỳ, và cần khám bs chuyên khoa mắt chữa trị gấp nếu triệu chứng mờ mắt, chớp sang đột ngột xảy ra trên con mắt c̣n lại. Trong một số trường hợp, bs có thể cho uống corticoid trường kỳ (vài tháng, hoặc cả năm) để cứu vản khả năng thấy của con mắt c̣n lại.
Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của ông Phạm Lượm ở Daknong về chứng đau nhức sau khi bị chấn thương sọ năo.
Bác sĩ Hồ văn Hiền
Ông Phạm Lượm ở Daknong có nêu thắc mắc và được bác sĩ Hồ văn Hiền giải đáp thắc mắc.
Trả lời ông Phạm Lượm 60 tuổi ở Daknong
Ông bị chấn thương đầu năm 2001và đă từng khám ở BV Chợ Rẫy cách đây 2-3 năm, làm CT scan 2 lần ở tỉnh không thấy ǵ. Ông có những triệu chứng không rơ rệt lắm như ngồi dậy choáng, đau nhức ḿnh mẩy tay chân, đau ngực, đau chân. Tôi đoán là có lẽ bác sĩ các nơi không t́m ra dấu hiệu cụ thể sau nhiều lần khám, nên 10 năm sau ông vẫn có những triệu chứng phiền toái nhưng không trầm trọng hoặc làm tàn phế.
Do đó tôi xin có những nhận xét sau:
- Có thể những triệu chứng này liện hệ đến chấn thương đầu ngày xưa, mà cũng có thể không. Ngồi dậy choáng có thể do áp huyết thấp, do cơ thể ít vận động nên tính cường cơ kém, do thiếu máu, hoặc do rối loạn bộ phận tiền đ́nh (vestibule, phụ trách về thăng bằng) trong tai trong (inner ear), do thiếu máu (anemia), vv
- Các triệu chứng đau nhức có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là ở người 60 tuổi hoặc ǵa hơn.
- Có thể do những rể thần kinh lúc thoát ra từ cột sống bị dè, chèn ép do xương cột sống bị thoái hoá, hoặc do tổn thương cột sống xảy ra liên hệ với tai nạn mười năm trước (ví dụ tổn thương xương sống cỗ có thể làm đau hai vai và hai cánh tay, tổn thương vùng eo lưng có thể làm dau hai chân).
- Ngoài ra, nếu uống rượu, ăn uống không đầy đủ cũng có thể làm thiếu vitamin gây viêm dây thần kinh (neuropathy) và đau tay chân (vitamin B1[thiamin], B12, Vitamin A, vitamin E).
- Bịnh tiểu đường (diabetes) cũng là một nguyên nhân quan trọng gây viêm thần kinh.
- Chúng ta không có chi tiết ǵ về chấn thương đầu của ông, hoàn cảnh có kinh hoàng hay không, bịnh t́nh nặng hay nhẹ, có thương tích năo bộ hay không. Dù sao, cũng đă 10 năm qua, các vết thương thể chất nếu có nay chắc cũng đă lành hẳn cho nên CT của ông không phát hiện ǵ đáng kể. Nếu có những yếu tố kinh hoàng trong tai nạn, có thể nghĩ tới một rối loạn liên hệ đến triệu chứng của ông là hội chứng stress hậu chấn thương (post traumatic stress syndrome).Những người mắc chứng này từng trải qua một biến cố làm chấn động tâm trí ḿnh, dấu hiệu là thái độ tránh né những t́nh huống làm gợi lại biến cố đó, có những cơn ác mộng thường xuyên hoạc lúc tỉnh có những flash back, sống lại những giây phút kinh hoàng đó như là xảy ra thật.Những người này cũng có những triệu chứng như khó ngủ, mất ngủ, ghiền rượu, ghiền thuốc, đau nhức ḿnh mẩy không rơ rệt. Nếu ông bị những chứng tâm lư đi theo như vậy, chúng ta có thể phải để ư đến rối loạn stress hậu chấn thương.
Tóm lại, tốt hơn hết ông nên trước tiên đến bác sĩ gia đ́nh tŕnh bày đầu đủ các triệu chứng và ưu tư của ḿnh. Nếu trong quá khứ, bs của ông cho rằng ông không có bịnh ǵ hết, cho là ông chỉ tưởng tượng trong đầu ḿnh thôi, th́ nên đến một bác sĩ khác kiên nhẫn và sốt sắng hơn. Bác sĩ cần khám kỹ lưỡng để loại bỏ khả năng những nguyên nhân nêu trên như tiểu đường, thiếu máu, thiếu vitamin, dinh dưỡng không đầu đủ, viêm dây thần kinh, và nhất là cần khám hệ tuần hoàn (các mạch máu, áp huyết) và hệ thần kinh của ông xem có triệu chứng ǵ đáng kể không và theo đó điều trị thích đáng.
Nếu triệu chứng không nặng lắm và nói chung chỉ là cảm giác mơi mệt, không khỏe trong người, có thể ông thử những biện pháp về vệ sinh tổng quát như:
1. ngủ cho có giờ giấc, đúng giờ, nơi yên tĩnh
2. ăn uống điều độ, đầy đủ, đồ ăn tươi, ăn rau cải,trái cây nếu cần uống thuốc multivitamin (môt ngày 1 viên)
3. tránh uống cafê, cai rượu nếu nghiện rượu
4. vận động cơ thể, đi bộ, làm vườn, tập thể thao,tập thư giản (relaxation), thiền, tai chi,yoga.
5. sinh hoạt với những người cùng sở thích, hiểu ḿnh, đồng bịnh với ḿnh.
6. gia đ́nh cần lưu tâm đến nổi khổ của người bịnh, nên có thái độ khuyến khích người bịnh gia nhập vào sinh hoạt chung. Nên để người già làm những công việc thường ngày theo sở thích như là một cơ hội để vận động cơ thể, cảm thấy ḿnh có ích cho gia đ́nh hay tập thể, chứ không phải người tàn phế. Người bịnh có thể t́nh nguyện làm việc xă hội như giữ ǵn sạch sẽ các nơi công cọng, phụ giúp cho nhà thờ, thà thương, cô nhi viện để cuộc sống có ư nghĩa hơn.
7. các thuốc giảm đau thường dùng gồm có acetaminophen (paracetamol, tên thương măi Tylenol ở Mỹ), các thuốc giảm viêm mà không phải corticoid như ibuprofen (Advil, Motrin), Naprosyl (uống lúc bụng no, cẩn thận nếu loét bao tử, có thể gây chảy máu bao tử và ruột). Nên để ư, nếu lạm dụng thuốc giảm đau nhiều quá, nếu dùng hàng ngày, nhất là dùng thuốc để “chặn cơn đau”lúc chưa đau ǵ lắm, lúc ngừng thuốc cơn đau lại trổi đậy nhiều hơn (analgesic rebound pain), lại càng phải uống thuốc nhiều hơn.
8. nếu có những triệu chứng tâm ly như loại rối loạn stress hậu chứng thương, mất ngủ, ác mộng, sống cô lập, lo âu sợ hăi thái quá, cần nhờ bác sĩ chuyên về tâm lư hoặc bs tâm thần giúp đỡ
Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của ông Lê Quang Trường ở Saigon về chứng trào ngược thực quản.
Bác sĩ Hồ văn Hiền
Chúng tôi có nhận được email của ông Lê Quang Trường ở Saigon, nội dung như sau:
Thưa BS, em bị trào ngược thực quản, mặc dù em vẫn uống thuốc suốt trong thời gian 9 tháng qua như Pariet, Nexium, Pantoprazole... kèm theo mosad MT-5, motilium-M, Levosupiride. Nhưng tại sao có lúc đang uống thuốc vẫn bị trào ngược xảy ra, có lúc lại có cảm giác hết bệnh? thật kỳ lạ?
Mặc dù em có kiêng cữ beer rượu, ăn uống chia làm nhiều bữa, tránh giảm stress... BS điều trị cho em có nói rằng bệnh lư này không nguy hiểm ǵ cà, nhưng để chữa hết là 1 điều rất khó khăn, đ̣i hỏi kiên tŕ lâu dài, có BS nói rằng bệnh GERD không liên quan đến vi khuẩn HP, c̣n có vị th́ nói là có, diệt HP sẽ giảm hiện tượng trào ngược khiến em hoang mang và lo lắng, phải chăng vi khuẩn HP tồn tại trong niêm mạc dạ dày sinh ra axit nhiều nên dẫn đến hiện tượng trào ngược? Kết quả nội soi vào tháng 11 năm ngoái em âm tính với HP. Mặc dù vậy nhưng toa thuốc đầu tiên em đi khám BS vẫn cho em kháng sinh diệt HP là Clarithromycin, Amox, Pantoprazole, Motilium-m, Newlanta.
Vậy xin quư BS tư vấn cho em nếu như cơ thể chúng ta nhiễm HP th́ có gây ra hiện tượng trào ngược hay không? Có phải trong thời gian sử dụng thuốc kháng axit mà nội soi sẽ cho kết quả clotest vi khuẩn âm tính giả. Xin đa tạ.
Chúng tôi đă chuyển thư cho bác sĩ Hồ văn Hiền, chuyên khoa nhi và y khoa tổng quát, có pḥng mạch và đang làm việc cho các bệnh viện ở Bắc Virginia, và sau đây là phần giải đáp của bác sĩ Hiền:
Trào ngược thực quả và nhiễm Helicobacter pylori (H. pylori) là hai bịnh khác nhau, mặc dù cùng có thể xảy ra trong bao tử, và tác động qua lại với nhau.
Bịnh trào ngược từ bao tử lên thực quản (gastroesophageal reflux disease, GERD) là do chất dịch tiết trong bao tử, có tánh acid đi ngược lên trên thực quản, gây ra triệu chứng như rát, đau, buốt trong lồng ngực (heartburn), ợ chua do thức ăn chạy ngược đến miệng (regurgitation). Do acid rất mạnh tấn công lên trên niêm mạc lót trong thực quản, thực quản có thể bị viêm măn tính (reflux esophagitis), làm thẹo, làm thay đổi các tế bào thực quản (dị sản, metaplasia) và có thể về lâu dài gây ra ung thư (esophageal adenocarcinoma).
Acid đi ngược đến thanh quản, khí quản, cuống phổi, cũng có thể gây ra những triệu chứng như ho măn tính, khan tiếng (viêm thanh quản, đau họng măn tính( chronic laryngitis), suyễn); những triệu chứng này có thể làm bs định bịnh sai lạc và chữa trị không hiệu quả. Tuy nhiên, bịnh trào dịch không tỷ lệ thuận với triệu chứng, có nghĩa là có thể trào dịch nhẹ mà triêụ chứng nặng, và ngược lại.
Bịnh GERD tùy theo nhiều yếu tố như t́nh trạng co thắt của cơ tṛn giữa thực quản và bao tử, khả năng thực quản dùng nhu động để đẩy dịch bao tử xuống, khả năng tiết nước miếng để trung hoà acid trong thực quản, khả năng bao tử sản xuất ra acid, khả năng đẩy thức ăn qua ruột nhanh hay chậm, cho nên chữa thuốc có thể thành công nhiều hoặc ít, tái lại hay không.
Thường bs khuyên thay đổi nếp sống như:
1. Tránh đồ ăn chua (chanh, thơm/dứa), ăn lượng thức ăn ít hơn (để bao tử đừng quá căng), những thức gây trào dịch: mỡ, chocolat, peppermint, rượu, hút thuốc lá)
2. Không ăn uống 3 giờ trước khi đi ngủ
3. Kê đầu giường lên cao 15 cm để thức ăn trong bao tử khó đi ngược lại
4. Cố gắng sụt cân nếu quá mập
5. Uống thuốc chống axit như Maalox, Calcium (Tums)
Những thuốc mà vị thính giả uống , phần chính là có tác dụng giảm chất axit trong bao tử bằng cách ức chế các tế bào sản xuất axít HCl (proton pump inhibitor), do đó làm giảm các triệu chứng khó chịu do axit gây ra. Với liều thấp trong 2-4 tuần (ví dụ omeprazole [Prilosec] có bán tự do không cần toa, 20mg/ ngày 30 phút trước bửa ăn), chừng 80% bịnh nhân sẽ giảm triệu chứng nhiều hoặc hết hẳn. Tuy nhiên, 20% c̣n lại cần liều cao hơn (ví dụ omeprazole 20mg x 2 lần/ ngày), một số ít cần uống thuốc giảm axit liên tục hoặc từng đợt 2-4 tuần rồi nghỉ và uống lại khi cần.Một số trường hợp không đáp ứng với thuốc uống cần được bs đường ruột theo dơi, nội soi nếu cần. Triêu chứng có thể do một chứng bịnh khác nhưng không phải do tràn dịch , hoặc do cơn đau trở thành một biểu hiệu của bịnh tâm lư (nội soi không thấy dấu hiệu trào dịch, đo axít liên tục (ambulatory pH monitoring) trong thực quản b́nh thường).
Tương quan giữa H. pylori và bịnh trào dịch thực quản phức tạp, chưa được hiểu rơ. một mặt , H. pylori gây viêm bao tử ở fundus làm các tế bào sản xuất axít teo lại, làm giảm triệu chứng trào dịch thực quản. Trong một số khảo cứu, người ta thấy sau khi trị dứt H. pylori, triệu chứng trào dịch nặng thêm. Tuy nhiên H. pylori gây ra viêm bao tử (gastritis) và có thể dẫn đến ung thư bao tử. 60-90% ung thư bao tử do H. pylori gây ra. Đa số bs đồng ư là phải chữa diệt trừ H. pylori nếu bịnh nhân phải uống thuốc proton inhibitor lâu dài.
Về kết quả âm tính giả (false negative) đối với H. pylori, có khảo cứu cho thấy các thuốc proton pump inhibitor có tác dụng chống lại H. pylori theo nhiều cơ chế mà chúng ta chưa hiểu rơ. Cho nên có người đề nghị nên đợi 3 ngày (hoặc tốt hơn 15 ngày) ngưng uống proton pump inhibitor (như omeporazole/Prilosec; Nexium; Pantoprazole) rồi mới thử truy tầm H. pylori bằng phương pháp hơi thở (Urea breath test, phát hiện H. pylori bằng cách đo hơi thở của bịnh nhân) (The American Journal of Gastroenterology (2003) 98, 1005–1009; doi:10.1111/j.1572-0241.2003.07426.x Studies regarding the mechanism of false negative urea breath tests with proton pump inhibitors; David Y Graham and al.)
Bác sĩ Hồ văn Hiền
Chúng tôi có nhận được email của một thính giả kư tên là Phan Tấn Công hỏi về bệnh vẩy nến. Nhận thấy đây là một căn bệnh khá phổ biến mà nhiều người muốn biết thông tin, chúng tôi đă xin bác sĩ Hồ văn Hiền, chuyên khoa nhi và y khoa tổng quát, có pḥng mạch và đang làm việc cho các bệnh viện ở Bắc Virginia giải thích cặn kẽ như sau:
Bịnh vẩy nến (Psoriasis)
Bịnh vẩy nến (psoriasis, tiếng Hy lạp, có nghĩa: ngứa) là một bịnh da măn tính, do hiện tượng tự miễn nhiễm (autoimmune disease), hệ miễn nhiễm rối loạn chống lại chính cơ thể ḿnh, làm một số tế bào da sanh sản quá nhanh, đồng thời gây ra các hiện tượng viêm (inflamation) trong da cũng như một số bộ phận khác như khớp xương và mắt. Chừng 1-3% dân số mắc bịnh này, tùy theo địa phương. Ảnh hưởng di truyền đóng vai tṛ quan trọng. Đa số phát bịnh lúc tuổi đă trưởng thành (trung b́nh 28 tuổi) tuy trẻ em cũng có thể mắc bịnh. Stress về tâm lư, thương tích ngoài da có thể làm bịnh bộc phát hoặc nặng thêm. Bịnh khó chữa dứt, hay tái đi tái lại.
Triệu chứng:
Dạng thường gặp là những mảng đỏ hồng (màu thịt cá hồi salmon), có lắn ranh rỏ rệt, trên mặt phủ bằng những vảy ly ty, màu bạc, có lẽ giống các vẩy đèn cầy (đèn sáp, nến) nên chúng ta gọi tên như vậy trong tiếng Việt. Thường gặp ở da đầu, cùi chỏ, đầu gối, ḷng bàn tay, ḷng bàn chân, và bộ phận sinh dục. Móng tay, móng chân lốm đốm những lổ nhỏ (pitting). Một số bịnh nhân c̣n bị viêm khớp (psoriatic arthritis). Một số bịnh nhân (10%) c̣n có triệu chứng ở mắt. Bịnh nhân psoriasis dễ bị trầm cảm (depression) cũng như dễ mắc chứng “hội chứng chuyển hóa” (metabolic syndrome, gồm áp huyết cao, mập, mỡ trong máu cao, đường máu cao, dễ bị bịnh tim mạch). Xin nhấn mạnh các điều sau đây chỉ có tính cách thông tin. Bịnh psoriasis khó trị, tia cực tím cũng như những thuốc được dùng có thể có phản ứng phụ, tác dụng qua lại với nhau. Bịnh nhân cần bác sĩ gia đ́nh cũng như bs bịnh da định bịnh, chữa trị và theo dơi.
Trị liệu:
1) Bịnh nhẹ, với một số mảng nến (plaque) lớn, thường bác sĩ dùng những kem thoa có chất corticoid (hormone do vỏ tuyến thượng thận tiết ra, có khả năng làm giảm viêm) cực mạnh (ultra high potency corticosteroid) trong 2-3 tuần, sau đó dùng trong những “xung kích“ (pulse) ngắn cuối tuần, rồi dần dần chuyển qua corticoid loại trung b́nh, yếu hơn.
Tuy nhiên, corticoid chỉ cho thuyên giảm tạm thời, nên đồng thời người ta cũng dùng một thuốc thoa da (ointment, cream, lotion) thứ nh́ tên calcipotriene (Dovonex) là một analog của vitamin D (vitamin D cũng làm psoriasis thuyên giảm, nhưng có tác dụng phụ nhiều hơn ở liều cao). Một số thuốc thoa kết hợp chất corticoid betamethasone với calcipotriol (Taclonex, Dovobet).
2) Đối với những mảng nhỏ phân phối rải rác ở một vùng rộng lớn hơn, thoa thuốc corticoid trở thành bất tiện và người ta dùng ánh sáng trị liệu bằng tia cực tím (photo therapy with ultraviolet light/UV). Đă từ lâu, người ta đă dùng nắng (ánh sáng mặt trời) để trị một số bịnh ngoài da như bịnh vẩy nến. Tác dụng của nắng nhờ tia cực tím trong ánh sáng mặt trời. Tia cực tím làm giảm độ sinh sản bất b́nh thường của tế bào ngoài da và làm giảm các hiên tượng viêm (là hai yếu tố chính gây nên psoriasis). Bs có thể dùng tia cực tím quang phổ hẹp (narrow band ultra violet (NB-UVB) (vd: 3 lần/ tuầnx 7 tuần), ở nhà hoặc khu ngọai chẩn (outpatient). Trường hợp bịnh nặng khó trị, bs có thể cho thoa thuốc như dầu hắc ‘crude coal tar’ trước khi rọi tia cực tím UVB, bịnh nhân được săn sóc trong những trung tâm đăt biệt..
3)Trường hợp nặng hơn, bs có thể dùng phương pháp kết hợp chất psoralen (thoa lên da hoặc uống rồi được hấp thụ rồi máu đem đến da) với rọi tia cực tím A (PUVA). Tia cực tím tác dụng lên trên chất psoralen trong da (photochemotherapy). Dùng PUVA lâu dài có thể tạo nguy cơ ung thư da, làm da già nhanh chóng (photoaging), bỏng da, cho nên bs bịnh da cần theo dơi bịnh nhân theo định kỳ.
4) Gần đây, người ta dùng excimer laser để chữa psoriasis (từ 1997). Tia cực tím trong tia laser tác động chính xác hơn vào các vết vảy nến.
5) Những thuốc có khả năng làm giảm hoạt động của các hiện tượng pḥng thủ của cơ thể (thuốc ức chế miễn nhiễm/immunosuppressive agents) như
- methotrexate,
- acitretin (Soriatane) (2 chất này có thể độc gan),
- cyclosporine (có thể độc thận) được dùng trong những trường hợp nặng và tùy trường hợp có thể dùng song song với ánh sang trị liệu bằng tia cực tím.
- Đặc biệt dùng acitretin cần phải tránh có bầu trong 3 năm sau khi ngưng thuốc, v́ khả năng gây quái thai (teratogenic).
6) Ngoài ra, trong những trường hợp nặng không thuyên giảm với các trị liệu trên, hoặc tránh các phản ứng phụ nguy hiểm của corticoid, có những thuốc mới hơn gọi là ‘biologic” (tác nhân sinh học).
Ví dụ: thuốc chống lại yếu tố “Tumor Necrosis Factor” (TNF là yếu tố gây viêm trong psoriasis)] như Remicade (infliximab), cần chích tĩnh mạch (truyền IV trong 2 tiếng, nhiều lần, và rất đắt tiền (trên 1000 dollars/liều).
7) Vệ sinh trong sinh hoạt hàng ngày như giải quyết các vấn đề gây stress, uống dầu cá (fish oil), vitamin A và D (liều vừa phải), tập thể dục, ra nắng, ngưng hút thuốc lá, cai rượu, giảm cân nếu quá mập đều có thể có tác dụng tốt trong việc chữa trị psoriasis.
(Re: American Academy of Dermatology: Guidelines of care for the management of psoriasis and psoriatic arthritis. 2010)
Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của ông Bùi Phú Hải ở Hải Pḥng về triệu chứng lạnh tay chân.
Ông Bùi Phú Hải ở Hải Pḥng có nêu thắc mắc và được bác sĩ Hồ văn Hiền giải đáp:
Ông Hải 26 tuổi tay chân lạnh lúc làm việc nặng và từ bé tay chân vẫn hay lạnh. Thử máu b́nh thường, tuy chúng ta không biết thử máu gồm những thử nghiệm nào. Bịnh nhân trẻ, không có triệu chứng ǵ khác, chúng ta sẽ không đi sâu vào những căn bịnh hiếm có.
Chúng ta có thể nêu một số điểm tổng quát sau đây với mục đích thông tin:
1) Một số người cảm thấy tay chân lạnh lúc họ tập thể thao, làm việc nặng nhọc. Có thể nghĩ tới những yếu tố sau đây giải thích hiện tượng này:
Lúc làm việc nặng, máu ưu tiên đến những bộ phận như cơ bắp, tim, óc để cung cấp năng lượng. Mạch máu chạy dưới da bàn tay, bàn chân ít được ưu tiên hơn, và do đó các mạch máu này có thể co thắt lại, nhất là nếu nhiệt độ bên ngoài thấp, làm cảm giác lạnh tay chân càng rơ rệt hơn. Hơn nữa làm việc nặng gia tăng nhiệt độ trung ương (core temperature), sai biệt nhiệt độ giữa ngoại biên và trung ương càng lớn, càng cho giảm giác lạnh nhiều hơn ở chân tay.
Trường hợp người hay lạnh tay chân từ nhỏ, có thể bịnh nhân đă có cơ địa hệ thần kinh tự động (autonomic nervous system) thiên về phía kích thích thần kinh giao cảm (sympathetic nervous system), thường có những triệu chứng như dễ xúc động, hồi hộp, tim đập nhanh, tay chân ướt mồ hôi. Lúc làm việc nặng, ở những người này, mạch máu dưới da có thể co thắt lại nhiều hơn người b́nh thường. Nếu người đó làm việc quen dần, có thể cơ thể sẽ thích ứng từ từ và không có bị lạnh tay chân nữa.
Một số người, phần lớn là đàn bà trẻ, mắc chứng tên là hiện tượng Raynaud (Raynaud’s phenomenom): B́nh thường lúc ở môi trường lạnh, cơ thể chúng ta tự động làm co các mạch máu nhỏ ở ngoại biên (tay chân, đầu ngón tay, ngón chân, mũi, vành tai) để bảo vệ nhiệt lượng cho phần trung tâm cơ thể (óc, phổi, bụng). Hiện tượng này làm tay chân lạnh và tái. Trong trường hợp chứng Raynaud, phản xạ tự nhiên này trở nên quá lố, quá nhạy cảm với những thay đổi nhỏ của nhiệt độ bên ngoài. Ngón tay ngón chân dễ trở nên tái hoặc tím ngắt, lúc bớt lạnh th́ trở nên đỏ và sưng. Trường hợp nhẹ, bịnh nhân có thể chỉ thấy lạnh tay chân, khám không thấy ǵ đặc biệt và bịnh nhân cần mang găng tay, vớ, mặc áo ấm. Hiện tượng Raynaud cũng có thể thứ phát đi kèm theo bịnh phong thấp.
Trong trường hợp một người đàn ông trẻ tuổi tương đối khỏe mạnh, chúng ta có thể thử áp dụng những biện pháp sau đây:
1. "Máu xấu" là một quan niệm b́nh dân nay không dùng trong y khoa. Nếu thử máu, có thể xem bịnh nhân có thiếu máu hay không (đếm hồng cầu [RBC count], đo hematocrit); người thiếu máu (anemia) có thể dễ bị lạnh hơn. Ngày xưa, từ “máu xấu” để chỉ những người bị giang mai (syphilis), hay những người bị ngứa, bị phong, dị ứng ngoài da, mà người ta nghi là do yếu gan, nên máu không được lọc sạch. Quan niệm "máu xấu" theo lối này, có thể là một cách nói cho bịnh nhân dễ hiểu, không có ǵ chính xác, không được dùng trong y khoa chính quy hiện nay.
2. Nếu bịnh nhân quá gầy, có thể ăn uống đầy đủ hơn, để tăng lớp mỡ dưới da chống lạnh tốt hơn.
3. Nếu bịnh nhân không quen vận động thể dục, ít làm việc nặng, nếu bs cho phép, có thể tập luyện, làm việc nặng thường xuyên hơn để tăng sức chịu đựng và tính cường cơ (muscular tone).
4. Tránh cà phê, thuốc lá v́ những món này làm giảm lưu thông trong các mạch máu
5. Tránh giày quá chật cản trở lưu thông máu dưới chân, nhúc nhích các ngón chân thường xuyên nếu phải ngồi, đứng một chỗ. Nếu cần mang vớ, găng tay loại dày để giữ nhiệt.
6. Có thể uống các viên dầu cá omega 3, ăn các cá có nhiều dầu như cá tuna (cá ngừ), cá ṃi (sardine), cá thu (mackerel), ăn đậu nành, tàu hũ có linoleic acid, là những chất giúp máu huyết lưu thông. Nếu bịnh nhân thích, một chút rượu nho (red wine) cũng giúp các mạch máu dăn nở.
7. Các biện pháp thư giản, giảm lo âu cũng có thể có ích cho lưu thông ngoại biên, giảm lạnh tay chân
Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời email của một thính giả hỏi về bệnh tiểu đường.
Bác sĩ Hồ văn Hiền
Bác sĩ Hồ văn HiềnChuyên gia phụ trách giải đáp mục Hỏi Đáp Y Học kỳ này là bác sĩ Hồ văn Hiền, chuyên khoa nhi và y khoa tổng quát, có pḥng mạch và đang làm việc cho các bệnh viện ở Bắc Virginia.
Chúng tôi có nhận được một email của một thính giả ở Việt Nam không nêu danh tính, và được bác sĩ Hồ văn Hiền trả lời:
Bịnh tiểu đường.
Tiếng Việt chúng ta dùng những từ sau đây:
Đái tháo đường, dể dịch toàn bộ từ la tinh diabetes mellitus. Diabetes nghĩa gốc Hy lạp là đi ngang qua, có nghĩa là đi tiểu rất nhiều, nước uống vào th́ được người bịnh đi tiểu thẳng ra, mellitus là ngọt, có pha mật. Có một bịnh đái tháo lạt (diabetes insipidus) làm bịnh nhân tiểu rất nhiều nhưng do thận người đó không cô đọng nước tiểu được, một cơ chế hoàn toàn khác.
Nói ngắn lại, chúng ta có thể gọi là “bịnh đái đường”, hay “bịnh tiểu đường”.
Nguyên nhân:
Trong bụng chúng ta có một bộ phận tên là tụy tạng (tuyến tụy, pancreas) dài như ngọn lá, chừng 15 cm, nằm sau bao tử và bên trái đầu ruột non. Tuyến này có những cụm tế bào beta (beta cells) nằ m trong những cụm gọi là “đảo Langherhans” (islets of Langerhans) tiết vào máu một chất nội tiết gọi là insulin (nghĩa đen là chất từ các “đảo nhỏ” tiết ra).
Trong ḍng máu chúng ta, có glucose là chất đường đơn giản được hấp thụ từ thức ăn (vd nho) hoặc chế biến từ đường ăn (sucrose) các chất tinh bột (carbohydrates) rút ra từ thức ăn.
Glucose là nguồn năng lượng duy nhất của bộ năo, và là nguồn năng lượng chính của các bộ phận khác của cơ thể. Các tế bào “đốt” glucose bắng cách oxy hóa glucose. Muốn làm việc này, trừ tế bào năo bộ, các tế bào cần tác dụng của insulin để lấy glucose từ máu ra.
1. Nếu không đủ insulin, như trường hợp các tế bào beta cells của tụy tạng là nơi sản xuất insulin bị hư hại, mức insulin được sản xuất tụt xuống gần 0. Loại này gọi là tiểu đườngtype 1 (type I diabetes). Phần lớn do một tác dụng tự miễn nhiễm (autoimmune mechanism). Đa số các trường hợp trẻ con (preschool children) và thiếu niên bị tiểu đường bị loại này (trước đây gọi là juvenile diabetes). Di truyền và môi trường (vd nhiễm siêu vi Cocksakie 4) đều quan trọng, bịnh nhân thường mạnh khỏe, không bị béo ph́ (obesity), đột ngột phát bịnh.
2. Hoặc nếu có đủ insulin, hoặc thiếu chút ít, trong máu nhưng tế bào không phản ứng với insulin (reduced insulin sensitivity, insulin resistance). Giả thuyết cho rằng tế bào có những insulin receptor (thụ thể) để thu nhận insulin, nhưng v́ các thụ thể này không chấp nhận insulin nữa nên insulin không tác dụng được (tương tự như chúng ta có ch́a khoá mở cửa, nhưng v́ khóa cũ, sét nên ch́a khoá không mở được). Trường hợp này là tiểu đường type 2 (type 2 diabetes), thường gặp hơn type 1 nhiều (90% các trường hợp). Bịnh nhân thường lớn tuổi hơn (trung niên, trên 40 tuổi), mập, ít vận động. Do dịch bịnh mập ở trẻ em ở Mỹ, càng ngày càng có nhiều bịnh nhân trẻ tuổi hay trẻ em mắc bịnh này.
Hai trường hợp này, đều dẫn tới việc glucose ứ đọng trong máu và mức đường glucose trong máu (glycemia, blood glucose level) tăng dần.
B́nh thường, lúc nhịn đói, mức glucose này là 5 millimole/lít plasma (dưới hoặc ngang 6.1 mmol/lít, hoặc 110mg/dl), nếu cao đến hoặc trên 7 millimol/lít (126mg/dl), th́ chúng ta nói người đó bị bịnh tiểu đường. Đến mức trên 10 mmol/lít, thận không đủ sức giữ lại đường trong máu, đường glucose tràn ra nước tiểu, kéo thêm thật nhiều nước được thải ra, bịnh nhân đi tiểu rất nhiều (polyuria), bị mất nước (dehydration), sụt cân. Trong lúc đó bịnh nhân cố ăn nhiều thêm và uống nhiều thêm để bù lại, tạo nên 3 chữ "nhiều (poly)” cổ điển của bịnh tiểu đường ; ăn nhiều, uống nhiều và tiểu nhiều (polyphagia, polydipsy, polyuria). Cơ thể không dùng được glucose, đổi qua dùng chất mỡ, đốt mỡ để tạo năng lượng cần thiết, tạo nên những chất ketone làm nhiễm acid (ketoacidosis), bịnh nhân có thể mê man, chết nếu không chữa kịp thời. Lâu dài, bịnh tiểu đường gây hư hại các động mạch, các dây thần kinh, làm tổn hại các bộ phận quan trọng như tim, thận, mắt.
Chữa trị
1) Thuốc men làm hạ đường (hypoglycemic agents):
a) Thuốc kích thích tạng tiết insulin nhiều hơn. Dùng cho tiểu đường type 2, v́ trong type 1, tế bào beta c̣n rất ít. Tiêu biểu; loại sulfonylureas, như Chlorpropamide (diabinese), glyburide (Micronase)
b) Thuốc làm giảm sản xuất glucose ở gan (gluconeogenesis), tiêu biểu là metformin (Glucophage). Metformin không được dùng nếu cơ năng gan, thận bị yếu. Phản ứng phụ thường gặp là triệu chứng tiêu hoá (biếng ăn, ói mữa, đau bụng, tiêu chảy).
c) Thuốc làm tế bào trở nên nhạy cảm với tác dụng của insulin.
d) Thuốc làm giảm hấp thụ glucose ở ruột
e) Một loại hormone do ruột tiết ra (guts hormone) lúc người bịnh uống glucose, chất này gọi là glucagon-like peptide 1(GLP-1) và có khả năng kích thích tuyến tùy tạng sản xuất thêm insulin. Có những thuốc tác dụng tương tự như GLP-1 (GLP-1 agonist), làm tăng insulin, và giảm đường máu.Một thuốc chích (exenatide) tổng hợp theo một chất trong nọc độc được trích ra từ nước miếng một con thằn lằn độc Gila (đọc là [hi lơ]) monster miền tây nam Hoa kỳ, thuốc làm giảm cân và có thể có khả năng phục hồi trí nhớ (như trong bịnh Alzheimer).
2) Insulin, dùng cho tiểu đường type 1, hoặc type 2 nếu dùng chế độ ăn uống và các thuốc hạ đường huyết nói trên mà vẫn không đủ insulin do cơ thể sản xuất để điều hoà đường máu. Insulin cần chích và có nhiều dạng khác nhau. Insulin được sản xuất nhân tạo Loại insulin có tác dụng nhanh kéo dài chừng 3-4 tiếng, loại tác dụng dài chừng 24 tiếng. Cần chích hoặc dùng máy bơm (portable insulin infusion pumps), tuy nhiên đến nay vẫn chưa bắt chước được sự điều chỉnh sản xuất insulin tự nhiên theo nhu cầu của cơ thể lành mạnh.
3) Ghép tụy tạng (pancreas transplantation) từ người khác (thường cùng với ghép thận)
4) Cấy tế bào đảo tùy tạng (islet cell transplantation) của nhiều người cho (donors), bơm vào tỉnh mạch cửa của gan. Được thực hiện trên một số ít bịnh nhân ở Canada.
5) Chế độ dinh dưỡng cho bịnh nhân mắc chứng tiểu đường với mức đường máu không ổn định.
Bác sĩ gia đ́nh cần theo dơi kỹ lưỡng và ngoài ra cần một chuyên viên về ẩm thực có khả năng (registered dietician) hướng dẫn về cách ăn uống để giúp bịnh nhân giữ đường máu trong mức chấp nhận được, không quá cao mà không quá thấp. Đường máu quá cao có thể gây những tai biến nguy hiểm (tiểu quá nhiều, mất nước [dehydration], mê man do acidosis do ketone quá nhiều trong máu (diabetic ketoacidosis). Bịnh nhân có thể dùng thuốc căn cứ trên mức đường huyết kiểm tra hằng ngày. Có thể cách đối phó với các mức đường huyết đó cần được bác sĩ của bịnh nhân điều chỉnh lại thường xuyên. Một cách để có được một cái nh́n tổng quát về t́nh trạng đường trong máu là thử nghiệm đo hemoglobin A1C trong máu. Mức A1C phản ảnh mức độ kiểm soát bịnh tiểu đường trên một khoảng thời gian dài, thay v́ những mẫu máu lẻ tẻ đo đường trong máu đo đường máu chỉ phản ảnh mức đường trong một thời điểm nhất định. Nên được giữ A 1C dưới 7, ở người già có thể nới rông hơn một chút.
Nên cho bs của bịnh nhân biết thêm về cách ăn uống của bịnh nhân và lối sinh hoạt của bịnh nhân nói chung.
Bác sĩ và chuyên viên dinh dưỡng có thể cần những tin tức sau đây để quyết đ́nh thích hợp hơn:
- Bn ăn ǵ lúc ăn sáng, trưa, chiều, tối, trước khi đi ngủ
- Bn thường uống nước ǵ, bao nhiêu, lúc nào: Ví dụ bịnh nhân uống nước ngọt (soda), nước trà đường, ăn chè nhiều quá, th́ bs có thể đề nghị thay thế bằng những chất ngọt nhân tạo (artificial sweeteners) ít calories.
Tóm lại, bịnh nhân nên nhờ một bs và nếu có thể chuyên viên dinh dưỡng theo dơi thường xuyên.
- Nên giữ vận động cơ thể đều đặn càng tốt.
- Nên ăn làm nhiều bữa, đều đặn, đừng trồi sụt nhiều quá trong số lượng calories hấp thụ. Nếu bịnh nhân không muốn ăn, cần thay đổi thức ăn, kiểm tra xem có bịnh ǵ về răng, hoặc các bộ phận khác hay không.
- Nên chọn những thức ăn lành mạnh (healthy food), ít đường bột tinh chế, nên ăn rau cải, trái cây (trừ các thứ có nhiều đường như dưa hấu) và các loại hạt, đậu.
- Tránh các mỡ ḅ, heo, nên ăn dầu olive (thực vật).
- Ăn thịt vừa đủ.
- Nên theo dơi Hemoglobin A1C của ḿnh.
- Nếu bị áp huyết cao cần nhờ bs theo dơi và điều trị nếu bs thấy cần.
Chúc bịnh nhân may mắn.
Khi kết quả thử nghiệm cho thấy bà Catherine Wyatt-Morley mang HIV dương tính, bà được bảo cho biết bà chỉ c̣n sống được 6 năm. Gần 20 năm sau, bà mẹ của 3 người con vẫn c̣n sống, chống chỏi với bệnh AIDS và t́m được sức mạnh để giúp các phụ nữ khác trong hoàn cảnh giống như bà.
Faiza Elmasry
Các trẻ em bị nhiễm HIV trong viện mồ côi ở ngoại ô Nairobi, Kenya, một cơ sở hoạt động lệ thuộc vào tài trợ của nước ngoài
Bà Catherine Wyatt-Morley từng có một cuộc sống gia đ́nh hạnh phúc, với 3 đứa con dễ thương và một việc làm tốt. Thế rồi đến năm 1994, khi tái khám sau một vụ giải phẫu, bác sỹ của bà cho bà biết là bị nhiễm HIV, siêu vi gây bệnh AIDS. Bà vô cùng kinh ngạc không tin nổi điều mà bác sỹ nói với bà.
Bà đă lập gia đ́nh 10 năm, không hề có liên hệ tính dục ngoài hôn nhân, hoàn toàn chung thủy với chồng, không bao giờ chích ma túy , cũng chưa bao giờ phải truyền máu hay làm bất cứ chuyện ǵ khác để có thể lây nhiễm HIV. V́ thế bà cảm thấy như trời sập. Bà cho biết sau bao nhiêu năm rồi mà bà vẫn không t́m ra được một từ nào khác hơn từ “trời sập” để diễn tả cảm giác lúc đó.
Bà Wyatt-Morley biết được là bà đă bị nhiễm siêu vi HIV từ chồng bà. Sau đó ông bị chẩn đoán mắc bệnh AIDS, được nhập viện và đă qua đời. Bà phải một ḿnh đối phó với những thực tế của cuộc đời.
Bà nói:” Chúng tôi mất tất cả, bị trục xuất khỏi nhà, mất việc làm, bị loại bỏ khỏi nhà thờ của chúng tôi. Họ hàng quay lưng lại không ai thèm liên hệ. V́ thế tôi phải t́m cách sắp xếp những ưu tiên: Ai là người sẽ chăm sóc các con tôi, tôi phải chuẩn bị chi trả cho đám tang chôn cất tôi, tất cả những chuyện như thế.”
Vào lúc đó bà bắt đầu viết thư cho các con v́ nghĩ rằng bà sẽ chết và để lại đàn con mồ côi, và bà muốn các con bà hiểu rơ bà là người như thế nào.
Từ những bức thư tưởng là trối trăn đó, một cuốn sách đă ra đời mang tựa đề: ”Hồi Kư bệnh AIDS: Nhật kư của một người mẹ mang HIV.”
Cách đó nửa ṿng trái đất, tại Kenya, bà Pierina Guantai, một người mẹ cũng bị nhiễm HIV, đă đọc cuốn sách, cho biết:
”Cuốn sách gợi hứng khởi cho tôi thật nhiều, v́ tôi cũng trải qua những giây phút khó khăn như vậy. Đọc cuốn sách và thấy như có ḿnh trong đó. Cuốn sách thực sự đă khuyến khích tôi, và tác giả Catherine đă giúp cho tôi đứng dậy và đủ nghị lực tiến lên, giúp tôi cảm thấy ḿnh là người xứng đáng.”
Những hưởng ứng như vậy khiến bà Wyatt Morley càng hăng hái muốn làm nhiều hơn nữa. Bà tâm sự:
”Từ nỗi đau, nỗi thống khổ, tôi đă thành lập một tổ chức bắt đầu năm 1994 ngay từ pḥng ngủ trong nhà tôi.”
Tổ chức mang tên Phụ Nữ về Duy Tŕ Giáo dục và Dinh dưỡng gọi tắt là WOMEN, cung cấp những dịch vụ thử nghiệm HIV, tư vấn, hỗ trợ và dinh dưỡng cho những người bị nhiễm hay có nguy cơ bị lây nhiễm HIV/AIDS.
Bà giải thích: ”Chúng tôi có 13 nhân viên và là tổ chức duy nhất tại Mỹ do một phụ nữ nhiễm HIV gốc châu Phi quản trị, v́ thế nên tôi biết rất rơ số phận của những cá nhân mà tôi làm việc với họ và cho họ.”
Bà Catherine Wyatt-Morley đă đi ṿng quanh thế giới để nói lên những ǵ mà bà từng nếm trải.
Bà đến châu Phi để tận mắt chứng kiến tác hại của bệnh AIDS. Bà đến thăm các vị sư ở Thái lan để học hỏi cách chăm sóc theo phương cách an ủi tôn giáo cho người mắc bệnh AIDS.
Bà trở thành tiếng nói cho những người không có thế lực để họ được lắng nghe. Và lúc nào bà cũng đem niềm phấn khởi đến cho những phụ nữ khác đang phải sống với HIV, như bà Pierina Guantai.
Bà Guantai đă bắt đầu lập ra tổ chức riêng của bà với sự giúp đỡ của tổ chức của bà Wyatt-Morley. Bà nói:
”Tôi đến nói chuỵện với những người phải sống với HIV, khuyến khích và hỗ trợ cho gia đ́nh họ và những cá nhân bị nhiễm hay bị ảnh hưởng của HIV/AIDS.”
Mục tiêu chính của bà Guantai là phụ nữ và trẻ em thuộc giai cấp trung lưu.
Bà giải thích: ”Chính phủ Kenya đă triển khai những chương tŕnh với sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Thành kiến trong số những người thuộc giai cấp trung lưu vẫn c̣n cao, ngăn cản người ta t́m sự giúp đỡ chữa trị. Giới nghèo lại sẵn sàng nhận những dịch vụ giúp đỡ hơn là giới trung lưu. Một khó khăn khác, theo tôi, là làm sao chăm sóc cho trẻ em bị nhiễm HIV và những trẻ mồ côi bị bỏ lại trên cơi đời này sau khi cha mẹ các em chết. “
Mặc dù hai phụ nữ này chưa bao giờ gặp mặt nhau, bà Guantai ghi nhận công của bà Catherine Wyatt-Morley trong sự thành công mà tổ chức của bà đă đạt được từ trước đến giờ.
Bà Wyatt–Morley nói sự đoàn kết giữa các phụ nữ lây HIV/AIDS là tối cần thiết cho cuộc chiến chống lại chứng bệnh này. Bà nói:
”Mặc dù cơ sở của chúng tôi đặt ở miền nam nước Mỹ, chúng tôi thực sự muốn tất cả các phụ nữ trên thế giới biết là họ có một người chị em sát cánh với họ trong cuộc chiến. Nếu họ cần ai để tṛ chuyện, hỏi thăm, xin vui ḷng t́m đến chúng tôi, chúng tôi ở đây để hỗ trợ họ bằng mọi cách mà chúng tôi có thể làm. “
Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của ông Thân văn Lĩnh ở Đồng Nai về bệnh đau dây thần kinh hông.
Bác sĩ Hồ văn Hiền - Chuyên gia phụ trách giải đáp thắc mắc y học kỳ này là bác sĩ Hồ văn Hiền, chuyên khoa nhi và y khoa tổng quát, có pḥng mạch và đang làm việc cho các bệnh viện ở Bắc Virginia.
Ông Thân văn Lĩnh ở Đồng Nai có nêu thắc mắc và được bác sĩ Hồ văn Hiền giải đáp:
Bịnh dây thần kinh hông (sciatica)
Ông đau lưng 5-6 năm nay, lan toả ra đến gót chân, uống thuốc chừng mười ngày th́ khỏi, nhưng cứ hay tái lại. Bác sĩ không cho ông biết là bịnh ǵ, thuốc tên ǵ; có lúc ông được chích trực tiếp vào đầu gối.
Một trong những nguyên nhân thường gặp có thể giải thích triệu chứng của ông là bịnh đau dây thần kinh hông lớn (sciatica). Để cho dễ hiểu và dễ nhớ, cái tên la tinh sciatica này chỉ có nghĩa là đau do dây thần kinh hông [sciatic nerve] bị chèn ép, tổn thương làm cho ta có cảm giác đau trên lộ tŕnh của nó, dọc theo phía sau đùi và cẳng chân.
Bây giờ chúng ta vào chi tiết hơn:
Sở dĩ chúng ta điều khiển được một số cơ, chúng ta có được những cảm giác ở đùi, cẳng, chân là do có những sợi dây thần kinh
1) Đi từ ngoài (ví dụ xa nhất là đầu ngón chân, rồi đến cẳng, đùi) đem những tín hiệu vào tuỷ xương sống (spinal chord) rồi đi ngược lên bộ óc chúng ta , báo chúng ta biết: ví dụ chân đạp gai (đau), chân chạm ống khói xe Honda (nóng, phỏng), hay cho ta biết có ǵ đè lên bàn chân.
2) Đồng thời óc gởi ra những tín hiệu đến các bắp cơ để thi hành những mệnh lệnh như nhón gót (dorsiflexion, L4), nhất bờ ngoài bàn chân (foot eversion, L5), duỗi ngón cái (S1). Những sợi thần kinh này được tập hợp thành một dây thần kinh lớn tên là thần kinh hông lớn (sciatic nerve). Dây thần kinh này đi từ xương sống lưng đoạn ngang thắt lưng (lumbar, L4,5, S1), qua những lỗ nằm giữa các đốt xương sống thắt lưng. Nếu bây giờ, những đốt xương sống đó bị bịnh, như bị trẹo xương sống, hoặc đĩa đệm nằm giữa các đốt sống bị hư hại, lồi ra (herniation of an inter-vertebral disc, slipped disc), và như vậy dây thần kinh sciatica bị đè lên trên lộ tŕnh (đường đi) của nó, th́ dây thần kinh này sẽ
1) phát ra những tín hiệu báo cáo sai cho năo bộ là có cái ǵ làm cho vùng phụ trách của nó (đùi, cẳng hoặc bàn chân) bị đau, bị tê, hoặc bị nóng buốt. Cho nên người bịnh sẽ "thấy"/có cảm giác ḿnh đau ở chân, cẳng hay đùi trong lúc mà, trên thực tế nguyên nhân nằm tận vùng xương sống lưng hoặc trong vùng xương chậu (ví dụ đau xương sống lưng, bướu trong vùng xương chậu)
2) các bắp cơ liên hệ tới dây thần kinh này sẽ ít nhiều bị yếu đi.
Người bịnh có thể đau nhiều hơn:
- lúc ban đêm
- lúc đi nhiều, ngồi nhiều
- cúi xuống quá nhiều,bật người ra phía sau (bending backward)
- ho, nhảy mũi mạnh, rặn nhiều lúc đi cầu
Định bịnh:
Bác sĩ sẽ t́m những triệu chứng cho biết dây thần kinh sciatic bị chèn ép.
Chẩn đoán h́nh ảnh.
Trong số ít trường hợp, bs có thể cần chụp quang tuyến, CT scan, hoặc MRI (cọng hưởng từ trường). Nói chung trừ những trường hợp phức tạp, bs không cần đến chẩn đoán h́nh ảnh đắt tiền. Nếu bs của bạn thấy không cần CT, MRI, không nên "ép" bs các thử nghiệm này.
Chụp X quang lưng làm người bịnh bị phóng xạ nhiều 20 lần chụp h́nh phổi thường.
Những trường hợp sau có thể cần chụp h́nh lưng nếu đau lưng:
Khả năng gảy xương:
● Chấn thương nặng
● Chấn thương nhẹ, bn trên 50 tuổi
● Bn dùng corticoid dài hạn
● Bịnh xốp xương (osteoporosis)
● Bn trên 70 tuổi
Khả năng nhiễm trùng:
● trên 50t
● dưới 20t
● trước đây bị ung thư
● có triệu chứng toàn thân (constitutional symptoms)
● mới bị bịnh hiễm trùng
● dùng thuốc chích (x́ ke matúy)
● hệ miễn nhiễm bị ức chế (immunosuppression)
● đau lúc nằm ngữa
● ban đêm đau (nocturnal pain)
(Theo agency for Health Care Research and Quality/AHRQ)
Chữa trị:
Biện pháp bảo thủ cho các trường hợp đơn giản:
1. đắp nước đá 2-3 ngày lên những vùng đau (lạnh làm giảm sưng/viêm)
2. nếu cần uống thuốc giảm đau như Acetaminophen (paracetamol, "Tylenol"), giảm viêm nhóm NSAID như Ibuprofen (vd Advil, Motrin), naprosyn (Aleve); coi chừng xót ruột, nên uống sau khi ăn, những người loét bao tử, từng chảy máu bao tử nên tránh loại ANSAID này.
3. không nên nằm một chỗ (bedrest is not recommended)
4. thể dục để làm bắp cơ lưng và bụng mạnh thêm trước đây dùng nhiều, nay được kết luận là không có lợi
5. Để tránh tái phát, rất quan trọng:
● Tránh khiêng, nâng, vật nặng, xoay qua lại (twisting) cột xương sống, ít lắm là trong 6 tuần đầu.
● Không bao giờ khom lưng xuống mà nâng một vật nặng lên, nghĩa là không dùng lưng để nâng đồ vật lên. Nếu thật cần, chỉ nên ngồi chồm hổm, và đưa tay ra, đứng lên, nghĩa là dùng hai chân để nâng đồ vật lên.
● Sáng sớm thức dậy, đừng nhảy ra khỏi giường, từ từ đưa chân xuống, chống hai tay và đứng dậy.
Nếu càng ngày càng đau thêm, hoặc nếu trường hợp phức tạp như chấn thương mạnh, đau kéo dài vài tuần, triệu chứng đường tiểu (tiểu ra máu, són tiểu), đau lúc nằm xuống... cần liên lạc với bs để chữa trị.
Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của ông Phạm văn Khanh ở Đồng Tháp về chứng cườm mắt và teo thần kinh thị giác.
Bác sĩ Hồ văn Hiền
Ông Phạm văn Khanh ở Đồng Tháp có nêu thắc mắc và được bác sĩ Hồ văn Hiền giải đáp:
Cataract, optic nerve atrophy and headache.
Cườm mắt, teo thần kinh thị giác và chứng nhức đầu.
Bịnh nhân Phạm Văn Khanh 60t, Đồng Tháp, từng được bác sĩ chuyên khoa mắt cho biết ḿnh bị chứng teo thần kinh thị giác và bị đục thủy tinh thể một bên. Nay bịnh nhân nhức đầu và hỏi xem có liên hệ đến hai bịnh kia không. Bịnh nhức đầu, nhức răng có hành trăm nguyên nhân khác nhau, bn cần đến bs y khoa tổng quát để khám và định bịnh. Về liên hệ có thể có giữa chứng nhức đầu và bịnh mắt, điều chúng ta nghĩ đến trước tiên là nhức đầu do áp xuất nhăn cầu tăng (glaucoma), mắt thấy không rơ nên phải đeo kính (cận thị, viễn thị), hoặc u bướu. Trong trường hợp thính giả đương nhiên cần theo dơi khám lại với bs mắt. Thường th́ teo thần kinh thị giác không chữa được, nhưng cần hơn là săn sóc và bảo vệ mắt c̣n lại. Để bịnh nhân có thể hiểu về các chứng bịnh này và giúp cho thính giả khác ư thức hơn về bảo vệ sức khỏe mắt, ngăn ngừa bịnh mất thị giác (mù) do những triệu chứng đến rất âm thầm, tôi sẽ đi vào chi tiết hơn, chỉ với mục đích thông tin.
Căn bản về giải phẩu (cơ thể học).
Mỗi con mắt chúng ta là một cái pḥng tối, như cái pḥng tối của máy chụp h́nh. Ánh sáng từ thế giới bên ngoài vào, đi xuyên qua giác mạc (cornea) và thủy tinh thể (lens), rồi chiếu h́nh đảo ngược lên trên một cái màng h́nh, gọi là vơng mạc (retina), vai tṛ giống như phim chụp ảnh trong máy chụp h́nh. Trong vơng mạc có những tế bào đặc biệt biến tín hiệu ánh sáng thành những tín hiệu thần kinh, các tín hiệu này được dẫn truyền qua một dây thần kinh gọi là dây thần kinh thị giác (thị thần kinh, optic nerve, gồm chừng 1,2 triệu sợi thần kinh) đi đến phía sau của bộ óc (visual cortex), là nơi tiếp nhận các tín hiệu này và tạo nên cảm giác "thấy" của chúng ta.
BỊNH ĐỤC THỦY TINH THỂ (“CƯỜM KHÔ”) HOẶC CATARACT;
Trong bịnh cataract, hoặc cườm khô, có một vết đục trong thủy tinh thể của mắt (lens of the eye). Trong một cái máy chụp h́nh, nh́n vào phía trước, chúng ta thấy một lăng kính để cho ánh sáng đi vào phía sau và ánh sáng in h́nh lên phim. Mắt chúng ta cũng tương tự như một cái máy chụp h́nh, ánh sáng cũng đi qua một bộ phận như một cái thấu kính, bộ phận đó là thủy tinh thể (lens).
Lúc cườm khô (cataract) mới xuất hiện, người bịnh thường không thấy thay đổi ǵ trong khả năng ḿnh trông thấy, nhưng từ từ theo thời gian, vết đục càng ngày càng ảnh hưởng tới thủy tinh thể mắt, làm cho người bịnh biết mắt mờ đi (blurred vision), h́nh thể sự vật bị méo mó, người bịnh xốn mắt, khó chịu lúc nhiều ánh sáng và dễ bị chóa mắt lúc nh́n vào một ngọn đèn (glare).
Cataract không chữa bằng thuốc uống được. Các chữa duy nhất là giải phẫu (mổ), bằng cách lấy cái thuỷ tinh thể đă vẫn đục ra khỏi cái vỏ (capsule) chứa đựng nó và thay thế vào đó bằng một kính nhân tạo bằng plastic. Nếu sau khi giải phẩu, bịnh nhân bị cataract lại, th́ có thể dùng phải phẩu bằng tia laser để trị chứng này (dùng laser đốt phần vỏ bị đục).
Các khảo cứu cho thấy những tia cực tím (ultraviolet/UV lights) làm dễ bị mắc chứng cataract hơn. Cho nên mang kính mát (kính râm, gương) có khả năng lọc tia UV (tia cực tím) hoặc đội nón (mũ) rộng vành lúc ra nắng có thể giúp chúng ta phần nào. Những bịnh nhân tiểu đường (diabetes) cũng có nguy cơ dễ bị cataract hơn, và chữa trị bịnh tiểu đường đúng mức có thể giúp tránh cho mắt người bịnh không bị cataract.
CHỨNG CƯỜM NƯỚC (TĂNG NHĂN ÁP) HOẶC GLAUCOMA
Glaucoma là một bịnh của giây thần kinh thị giác (optic nerve), là bộ phận đem thông tin về những h́nh ảnh mà ta thấy từ mắt đến năo bộ. Trường hợp áp suất (sức ép, pressure) trong tṛng mắt lên quá cao, các sợi tạo nên giây thần kinh thị giác bị hư hại, thần kinh thị giác teo lại (atrophy), và bác sĩ thấy đầu thần kinh thị giác (optic disk) bị nhạt màu (disc pallor), định bịnh teo thần kinh thị giác ( optic nerve atrophy).
Người bịnh không cảm nhận ánh sáng ở một số điểm gọi là “điểm mù” (blind spots). Lúc đầu th́ người bịnh không ư thức được là có những vùng tối ḿnh không nh́n thấy, cho đến lúc giây thần kinh đă bị hư hại đáng kể, th́ người bịnh mới biết là mắt ḿnh có trục trặc. Nếu toàn bộ giây thần kinh thị giác bị hư hại, lúc đó người bịnh bị mù hẳn (blindness).
Trong phần trước của mắt, chúng ta có một lượng nước trong gọi là thủy dịch (aqueous humor) và đây không phảI là nước mắt mà chúng ta thấy làm ướt phần ngoài con mắt. Mắt sản xuất một lượng thủy dịch nhỏ một cách liên tục, và cùng một lượng nhỏ tương đương được thảI ra ngoài, qua một hệ thống dẫn lưu (làm nước thoát đi), làm cho áp suất trong mắt ở một mức không thay đổi. Hệ thống dẫn ra ngoài này nằm trong một cái góc, gọi là góc dẫn lưu (drainage angle). Nếu góc dẫn lưu bị tắc nghẽn, áp suất trong mắt sẽ tăng lên cao quá mức, đè lên giây thần kinh thị giác và có thể làm hư hại dây thần kinh này.
Những loại cườm nước (glaucoma) khác nhau:
Glaucoma góc mở (open angle glaucoma) thị giác bị tổn thương, hư hại rất từ từ, không gây đau đớn cho ngườI bịnh, cho nên người bịnh không biết rằng ḿnh đang mắt bịnh để lo đi chữa trị. Lúc người bịnh có triệu chứng và biết là ḿnh có bịnh th́ giây thần kinh thị giác đă bị tổn thương (hư hại) đáng kể rồi.
Glaucoma với góc đóng (Angle closure glaucoma);
Lúc chỗ thoát nước hoặc dẫn lưu của mắt bị tắt nghẽn, áp suất trong tṛng mắt gia tăng đột ngột, th́ có hiện tượng gọi là cơn cườm nước cấp tính do góc đóng (acute angle closure glaucoma attack). Bịnh nhân sẽ có những triệu chứng như sau:
Mắt mờ (blurred vision)
Đau nhức dữ dội ở mắt
Nhức đầu
Ṿng hào quang ngũ sắc chung quanh ngọn đèn hoặc nguồn ánh sáng (rainbow colored halos around lights)
Buồn nôn (buồn mửa, mắc ói) (nausea), ói mửa (vomiting)
Đây là một trường hợp cấp cứu thật sự về bịnh mắt. Nếu bạn có những triệu chứng trên, cần gọi bác sĩ y khoa chuyên về mắt ngay. Nếu không được chữa trị gấp rút và kịp thời, có thể gây mù ḷa (blindness).
Những ai dễ bị cườm nước:
Bác sĩ chuyên khoa mắt của bạn xem xét nhiều yếu tố khác nhau để xem cái nguy cơ (risk) để bị cườm nước nhiều hay ít:
Tuổi tác
Bịnh sử gia đ́nh: trong gia đ́nh, bà con có ai bị cườm nước (glaucoma) hay không
Trong quá khứ có bị tổn thương mắt hay không (eye injury).
Chữa trị cườm nước như thế nào:
Nói chung, một khi đă xảy ra, những hư hại do cườm nước (glaucoma) không thể đảo ngược lại nữa. Những thuốc nhỏ mắt, giải phẫu bằng tia laser, hoặc giải phẫu trong pḥng mổ là những phương thức là ngăn chặn không cho mắt bị hư hại thêm nữa. Trong một số trường hợp, bịnh nhân được cho thuốc để uống.
Với bất cứ loại cườm nước nào, khám bịnh theo định kỳ thường xuyên là biệnpháp rất quan trọng để ngăn ngừa mất khả năng nh́n thấy, nghĩa là mất thị lực (vision loss).V́ chứng cườm nước có thể tiến triển (nghĩa là trở nên nặng hơn) mà chính bịnh nhân cũng không biết, thỉnh thoảng có thể bác sĩ cần phải điều chỉnh trị liệu cho thích hợp (có nghĩa là thay đổi thuốc, liều thuốc, phương pháp trị liệu..).
Chúc bịnh nhân may mắn.
Một phúc tŕnh mới cho biết con số những người bị bệnh mất trí nhớ trên toàn thế giới sẽ tăng gấp ba vào năm 2050, từ 36 triệu lên đến hơn 115 triệu người.
Lisa Schlein | Geneva
UserPostedImage
H́nh: Reuters
Một bệnh nhân Alzheimer ngủ suốt ngày trước khi qua đời tại một viện dưỡng lăo ở Hà Lan
Bệnh mất trí nhớ không chỉ là một vấn đề tại các quốc gia có thu nhập cao. Một phúc tŕnh của Tổ chức Y tế Thế giới, WHO, và Hội Nghiên cứu về Alzheimer Quốc tế cho biết bệnh mất trí nhớ ảnh hưởng đến dân chúng tại mọi quốc gia, trong đó có hơn một nửa đang sống tại những nước có thu nhập trung b́nh và thấp. Hai tổ chức này c̣n cho biết vào năm 2050, con số này sẽ tăng hơn 70%.
Ông Marc Wortmann, Giám đốc Điều hành Hội Nghiên cứu về Alzheimer Quốc tế nói con số thống kê này thật đáng sợ:
“Hiện nay trên thế giới cứ mỗi 4 giây có một trường hợp mắc bệnh mất trí nhớ mới. Chỉ cách đây 10 năm, phải 7 giây mới có một người bị bệnh này , do đó con số này gia tăng nhanh chóng. Và nếu nh́n vào viễn ảnh tương lai vào năm 2050, mỗi một giây đồng hồ sẽ có một người mắc bệnh này. Do đó chúng ta cần phải hành động. Chúng ta cần làm điều ǵ đó để ngăn chặn dịch bệnh này.”
Bệnh mất trí nhớ gia tăng v́ con người có tuổi thọ dài hơn.
Tuy nhiên phúc tŕnh mới công bố cho biết bệnh mất trí nhớ không phải là chuyện b́nh thường của người già. Hầu hết người già không có t́nh trạng này.
Các chuyên viên nói rằng bệnh mất trí nhớ là một sự rối loạn của năo bộ bắt nguồn một số các bệnh khác nhau của năo. Bệnh này ảnh hưởng đến trí nhớ, lối suy nghĩ và năng lực thực hiện những hành động sinh hoạt thường ngày.
Bác sĩ Shekhar Saxena, Giám đốc Bệnh Tâm thần và Lạm dụng Thuốc của WHO nói bệnh Alzheimer chiếm 70% các trường hợp mất trí nhớ:
“Bệnh mất trí nhớ thường không được nhận ra. Bệnh này thường bị nhận xét sai lầm là một sự suy giảm hoạt động của trí óc do tuổi già gây nên, v́ bệnh này có thể trùng hợp với những vấn đề của tuổi già, và tiến triển của bệnh cũng chập chạm. Ngay cả tại các quốc gia có thu nhập cao, chỉ có từ 1/5 đến một nửa các trường hợp mất trí nhớ được nhận ra trong những lần kiểm tra định kỳ. Tỉ lệ phần trăm này rơ ràng là thấp hơn nhiều so với các nước có thu nhập trung b́nh và thấp.”
Giáo sư Martin Prince chuyên về Tâm lư Dịch bệnh tại trường đại học Kings ở London nói với Đài VOA là có nhận thức sai lầm cho rằng bệnh mất trí nhớ không phải là một vấn đề của những nước nghèo. Ông nói:
“Tại châu Phi, tương đối ít có thông tin về bệnh này. Có một vài cuộc nghiên cứu được thực hiện gần đây tại Tây Phi, và tôi nghĩ đă không nói sự thực khi bảo rằng bệnh Alzheimer rất hiếm xảy ra đối với người dân châu Phi. Tại khu vực này có ít người già và tuổi thọ ở đây ngắn hơn, nhất là khu vực này có nhiều người chết v́ HIV/AIDS. Tuy nhiên trong số những người sống lâu c̣n lại, tỷ lệ người bệnh mất trí nhớ hầu như tương tự như tại các quốc gia có thu nhập cao.”
Mất trí nhớ chưa phải là một vấn đề to lớn tại các quốc gia nghèo, đó là v́ số người sống trên 75 tuổi rất ít. Hiện tượng này sẽ thay đổi v́ dân số gia tăng và vấn đề y tế được cải thiện.
WHO cho biết có hơn 600 tỉ đô la được chi tiêu mỗi năm để chữa trị và chăm sóc cho những người mắc bệnh mất trí nhớ và con số này sẽ tăng khủng khiếp.
Các giới chức Y tế gọi bệnh mất trí nhớ là một quả bom nổ chậm, nhưng chỉ có 8 quốc gia có chiến lược ngăn ngừa và chữa trị bệnh này.
Phúc tŕnh của WHO khuyến cáo các quốc gia thiết lập những chương tŕnh chú trọng đến việc khám phá ra bệnh sớm sủa, nâng cao nhận thức của công chúng về bệnh này, và giảm thiểu những mặc cảm xấu hổ về bệnh, chăm sóc tốt hơn và giúp đỡ nhiều hơn cho những người hoạt động trong ngành chăm sóc sức khỏe.
Không có thuốc chữa dứt bệnh mất trí nhớ nhưng các giới chức y tế nói có thể làm được nhiều việc để giúp đỡ và cải tiến cuộc sống của những người bị bệnh mất trí nhớ, gia đ́nh họ và những người chăm sóc họ.
Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của bà Minh và ông Lê văn Măi cùng ở B́nh Phước về chứng gai cột sống.
Bác sĩ Hồ văn Hiền
Bà Minh ở B́nh Phước có nêu thắc mắc và ông Lê văn Măi cũng ở B́nh Phước tŕnh bầy về trường hợp bệnh của ông.
Sau đây là phần giải đáp của bác sĩ Hồ văn Hiền:
Osteoarthritis
Chứng gai cột sống và thoái hoá xương sống lưng (osteophytes and osteoarthritis of the spine) 1) Xương sống chúng ta gồm những đốt xương sống (vertebra) nối liền với nhau bằng những cái điă đệm (intervertebral disc) để giảm thiểu tác dụng các va chạm trên các đốt xương đó (shock absorbers)
Xương sống lưng (lumbar spine) và cổ (cervical spine) là nơi chịu ảnh hưởng nhiều nhất của các động tác đi đứng, khiêng nặng, cúi lên cúi xưống của chúng ta. Ngoài ra c̣n có thể có tác hại do tai nạn, chấn thương, bịnh béo ph́ cũng như tác dụng do yếu tố di truyền (có những người mang gien có tác dụng làm cho đĩa đệm của họ yếu hơn b́nh thường).
Các đốt xương sống tiếp giáp với nhau bằng những khớp xương nhỏ (facet joint, vertebral joint) ở hai bên phía sau đốt sống. Lúc khớp xương bị thoái hoá (degeneration), mât sụn bọc các đầu xương ở trong khớp bị hư hại, ṃn và tróc ra, làm lộ xương ở dưới sụn. Khớp xương bị viêm (sưng và đau) lúc đứng, ngồi và cả lúc đi. V́ khớp cột sống bị viêm, các đĩa đệm giữa các đốt sống cũng bị hư hại, cột sống không c̣n vững chắc như trước. Do đó, cột sống t́m cách tự ổn định bằng cách mọc ra những nhánh xương (bone spurs, osteophytes) bao quanh những khớp xương sống lưng đó. Đồng thời, thân đốt xương sống mọc ra những nhánh tương tự.
Chúng ta giải thích cặn kẻ như vậy để đi tới môt điểm quan trọng là chúng ta không nên lo âu nhiều quá khi nghe đến gai cột sống. Thứ nhất đây không phải là một cái gai đâm vào tuỷ sống, hoặc một bộ phận trong lưng. Chúng chỉ là những mấu xương lồi lên, mọc rất chậm, đầu của nó trơn tru và không nhọn như cái gai bông hồng. Sự hiện diện (tồn tại) của chúng chỉ chứng tỏ là xương sống của chúng ta đang bị "thoái hoá" (degeneration), giản dị là đang bị hư hại từ từ theo thời gian, và không c̣ "mới" như lúc c̣n trẻ nữa, nhưng cũng không có nghĩa là bị bịnh ǵ ghê gớm, cần lấy những "gai" này ra mới b́nh thường được.
Trong một số trường hợp, ở eo lưng các gai xương này có thể làm cho ống xương sống hẹp lại (lumbar spinal stenosis) đè lên những rễ dây thần kinh lúc chúng chui ra từ tuỷ sống. Người bịnh thấy đau dọc theo phía sau hạ chi (mông, đùi và cẳng chân, xuống bàn chân/ sciatica); hiếm hơn, có thể ảnh hưởng đến khả năng tiêu tiểu. Tuy nhiên nên nhắc lại ở đây là nếu chúng ta đau lưng mà chụp h́nh thấy "gai" xương sống, điều này không có nghĩa là bịnh đau lưng đó do các gai này gây ra, cũng không có nghĩa là phải cắt hết cái gai th́ mới hết đau. Trường hợp nặng:
- bịnh nhân không di chuyển một ḿnh được và sinh hoạt b́nh thường v́ ống tuỷ xương sống (lumbar spinal stenosis) bị hẹp lại,
- không trị được bằng vật lư trị liệu và chích thuốc corticoid vào màng bọc tuỷ sống (epidural injections),
Bs giải phẫu có thể quyết định mổ (phẫu thuật) để giải toả chèn ép trên các dây thần kinh (surgical decompression).
Cách pḥng ngừa: dinh dưỡng đầy đủ (calcium, vitamin D), đừng hút thuốc, tránh chấn thương cột sống (ngồi xe hơi có bộ phận nâng đầu cổ [head rest]), tránh những thể thao quá sức chịu đựng b́nh thường của ḿnh (như cử tạ quá nặng, gymnastics: vận động quá khó), tránh ngồi quá lâu ở những tư thế không lành mạnh, và đáng kể nhất là đừng quá mập.
Thuốc men:
1) Những thuốc giảm đau phổ biến ở Mỹ (không cần toa) như aspirin, ibuprofen (Motrin, Advil), naprosyn (Aleve) thuộc nhóm NSAID (Non Steroid Anti-inflammatory Drug: thuốc chống viêm không phải corticoid), có biến chứng chính là khó chịu bao tử và ruột (loét, chảy máu) và làm bn dễ chảy máu hơn (ví dụ không được dùng các thuốc này một thời gian trước khi giải phẫu).
1) Uống kèm thuốc ức chế bơm proton như omeprazole (Prilosec, thuốc giảm axit bao tử) có thể giảm bớt các biến chứng về tiêu hóa của NSAID.
2) Nếu dùng acetaminophen (paracetamol, Tylenol) có thể tránh những phản ứng phụ trên nhưng dùng nhiều quá có thể hại gan, nhất là người yếu cơ năng gan v́ uống rượu, bị viêm gan, gan mỡ..
3) Loại NSAID mới chuyên biệt hơn nữa (COX2 more selective inhibitor), như Celebrex, ít có phản ứng phụ về tiêu hóa hơn nhưng vẫn có tác dụng phụ tim mạch.
2) Glucosamine và chondroitine sulfate (một số thuốc viên kết hợp cả hai) được dùng nhiều ở Mỹ như là một loại “thuốc dân gian” (“alternative medicine”) để giúp trị các bịnh xương khớp, không có phản ứng phụ đáng kể.
3) Như đă giải thích ở trên, đây là bịnh thoái hoá, tương tự như đồ dùng nhiều th́ hư hại, cũ đi, không làm mới lại được. Tuy nhiên, sự đau nhức không đi đôi và không tỷ lệ với các thay đổi thấy trên MRI và X quang. Lúc tuổi già hơn (trên 60), có thể ít thấy triệu chứng đau nhức hơn mặc dù ở tuổi đó hầu hết mọi người đều bị thoái hóa cột sống.
4) Nói chung người ta khuyến khích bịnh nhân càng giữ mức hoạt động, vận động thường xuyên, được càng nhiều càng tốt. Nếu cần có thể nhờ chuyên gia về vật lư trị liệu giúp đỡ.
5) Có một số người cho rằng thời tiết, áp suất không khí, độ ẩm thấp trong không khí làm đau nhức xương khớp. Tuy nhiên các khảo cứu khoa học chỉ chứng minh tác dụng của áp suất không khí (giảm lúc trời sắp giông mưa) làm đau xương khớp. Nói chung không khí âm thấp, tù túng quá làm các nấm mọc trong nhà, không tốt cho sức khỏe, gây dị ứng. Nên giữ mức ẩm 40% là vừa. Ngược lại, về mùa đông sắp tới không nên để không khí quá khô trong nhà bên Mỹ.
6) Nói chung, nếu phải sống với bịnh viêm xương khớp, Viện Sức Khoẻ Quốc Gia Hoa Kỳ khuyên chúng ta nên dành quyền chủ động và tích cực bảo vệ sức khoẻ ḿnh bằng cách:
• ‘get educated”: t́m hiểu về bịnh này, để loại bỏ nhựng hiểu lầm và sợ sệt vô cố cũng như dùng những trị liệu giản dị và anh toàn (dùng nước nóng, nước đá đắp cho giảm đau, giảm viêm, uống những thuốc rẻ và an toàn cho ḿnh, tránh phung phí tiền vào những phương thuốc không cần thiết, tránh "doctor shopping", nhảy từ thầy thuốc này qua thầy thuốc khác.
• tránh ngồi, nằm một chỗ: giữ mức hoạt động, làm việc tích cực (stay active)
• tập thể dục, thễ thao, taichi, (stay active)
• eat well: ăn uống điều độ, chọn thức ăn tươi, đừng mập quá
• ngủ đầy đủ (plenty of sleep)
• “have fun”: dù đau nhức, chọn những hoạt động làm ḿnh thấy vui, thoải mái, giải trí trong khả năng của ḿnh (thể thao, hobbies, tham gia công tác t́nh nguyện), chơi vui với con cháu...
• "have a positive attitude'; có thái độ tích cực, lạc quan
Những nhận xét trên đây hoàn toàn có tính cách thông tin. Mọi quyết định chữa trị cần được bác sĩ riêng của ḿnh
VOA
Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của ông Lê Chánh ở Daklak về chứng viêm đại tràng của vợ ông.
Bác sĩ Hồ văn Hiền
Bác sĩ Hồ văn HiềnChuyên gia phụ trách giải đáp thắc mắc y học kỳ này là bác sĩ Hồ văn Hiền, chuyên khoa nhi và y khoa tổng quát, có pḥng mạch và đang làm việc cho các bệnh viện ở Bắc Virginia.
Ông Lê Chánh ở Daklak có nêu thắc mắc và được bác sĩ Hồ văn Hiền giải đáp:
Right lower abdominal pain and constipation
Trả lời ông Lê Chanh, Đắc Lắc hỏi về vợ 47 t, đau bụng dưới, bác sĩ định bịnh là viêm đại tràng, bón, đi cầu khó, tái hồi.
Ở đây tôi chỉ bàn về chứng đau bụng góc dưới bên tay trái (left lower quadrant pain. Đau vùng này kèm theo đi cầu khó có thể do nhiều nguyên nhân: bón, phân nghẹn ở ruột già, viêm các túi cùng ruột già (đại tràng), bịnh về buồng trứng (ovaries), ống dẫn trứng của đàn bà.
Bón (constipation) có nghĩa là đi cầu (đại tiện) 2 lần hoặc ít hơn mỗi tuần, đi cầu khó và phải rặn nhiều (excessive straining).
Bác sĩ nói bà bị viêm đại tràng (colitis), tuy nhiên đa số viêm đại tràng làm tiêu chảy hơn là đi cầu khó khăn (bón). Vậy cần hỏi lại cho rơ, và cần biết bác sĩ định bịnh căn cứ trên triệu chứng hay chẩn đoán h́nh ảnh.
Một số bịnh nhân bị viêm túi cùng ruột già (diverticulitis): đau bụng dưới bên trái, sốt nhẹ, đi cầu khó, bón. Bác sĩ chữa diverticulitis bằng thuốc kháng sinh, cho ăn thức ăn lỏng vài ngày th́ bớt, thường uống thuốc 7 ngày - 2 tuần. Trường hợp nặng hơn, hoặc theo dơi sau khi bịnh viêm túi cùng nhẹ đă thuyên giảm do chữa bằng kháng sinh, bs cho đi soi ruột (colonoscopy), hoặc định bịnh h́nh ảnh (imaging) bằng cách bơm chất barium (cản quang vào hậu môn) rồi chụp X quang. Có thể thấy các túi cùng, ruột già bị sưng, hoặc chỗ bị lũng, ap xe, và cũng để loại bỏ khả năng u bướu ruột già (colonic neoplasms).
Do đó cần khám bs tổng quát cũng như bs phụ khoa nếu triệu chứng dai dẵng và không có định bịnh dứt khoát.
Đa số những trường hợp bón thông thường, phân ứ trong ruột già, làm đau bụng và không có triệu chứng toàn thân (systemic symptoms), cần để ư những biện pháp sau đây:
1. -ăn thức ăn có nhiều sợi xơ (fiber rich diet) (cần 10-12 gram fiber mỗi ngày, nếu cần th́ uống những thuốc như metamucil)
2. -mỗi bữa ăn phải uống kèm theo 1-2 ly nước (nước lạnh, nước trà), hoặc nước canh, nước phở...
3. -một số thuốc dễ gây bón, nhất là người già (thuốc an thần, thuốc đau bụng [làm giảm co thắt ruột nhưng cũng giảm nhu động ruột, gây bón], thuốc hạ huyết áp (vd calcium channel blockers), thuốc bổ có calcium và chất sắt (calcium and iron supplements), thuốc lợi tiểu
4. -xem nơi đi vệ sinh có thoải mái, ngồi ở thế thoải mái hay không, và người bịnh có thể đến pḥng vệ sinh một cách dễ dàng, không cần phải nín lâu hay không (ví dụ v́ đông người, không kín đáo, chủ nhân không cho công nhân dùng pḥng tắm tự do...)
5. -uống thuốc xổ nhiều quá có thể lờn thuốc và gây bón.
6. -phụ nữ do sanh đẻ khó khăn có thể yếu những bắp thịt (cơ) vùng sàng xương chậu (pelvic floor dysfunction), u xơ tử cung lớn cũng có thể đè lên ruột già nằm phía sau tử cung và làm khó đi cầu.
Chữa trị:
Một số trái cây như đu đủ, trái kiwi (nhiều fiber), apricot, cherry, xoài, nho giúp cho đi cầu dễ dàng hơn.
Sau đây là những thuốc bán không cần toa ở Mỹ, bn cần tham khảo với bs của ḿnh)
1) tăng chất sợi: Cám (Bran powder) (1-4 muỗng canh, 2 lần/ ngày); gạo lứt, bánh làm bằng cám cũng có thể cung cấp nhiều cám hơn.
Psyllium: (metamucil); Methylcellulose (Citrucel).
2) Thuốc làm trơn phân (stool surfactant): docusate sodium (Colace)
3) Thuốc làm phân ướt và mềm: Magnesium hydroxide (Philip's Milk of magnesia); Polyethylene glycol (Miralax)
4) Thuốc kích thích ruột (stimulant laxatives) (có thể làm đau quặn ruột): bisacodyl, cascara, senna (Senokot)
VOA
Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của bà Tân ở Na Uy về việc sử dụng thuốc chống trầm cảm.
Bác sĩ Hồ văn Hiền
Bà Tân ở Na Uy có nêu thắc mắc và được bác sĩ Hồ văn Hiền giải đáp:
Duration of treatment of depression
Uống thuốc trị chứng trầm cảm cần kéo dài bao lâu?
Bịnh nhân 45 t, mắc chứng trầm cảm 5-6 năm nay, bịnh nhân lúc đầu được uống thuốc ngủ nhưng không bớt, nay uống thuốc chống trầm cảm loại 4 ṿng (tetracyclic antidepressants: mianserin, mirtazapine) th́ đang kết quả tốt, được chữa trị đều đặn. Đương nhiên, tôi không thể có ư kiến và can thiệp về trường hợp cá biệt của bịnh nhân. Tôi chỉ xin nêu đây một số thông tin liên hệ đến chứng trầm cảm để chúng ta cùng học hỏi.
Chứng trầm cảm có hai dạng chính:
1) Cơn rối loạn trầm cảm lớn (major depressive disorder): bịnh nhân không thấy thích thú, thú vị trong bất cứ chuyện ǵ, không thích làm việc, hoạt động, mang mặc cảm tội lỗi, không tập trung được, lo lắng mất ngủ, ăn không thấy ngon.
2) Dysthymia: buồn bă không thấy lạc thú, hững hờ với công việc, kéo dài trên 2 năm; triệu chứng nhẹ hơn, nhưng măn tính (kinh niên) hơn loại trầm cảm trên.
Thuốc trị trầm cảm chủ yếu tác dụng tăng mức các chất dẫn truyền thần kinh [neurotransmitters] trong năo bộ. Norepinephrine và serotonin là 2 chất truyền dẫn thần kinh (neurotransmitter) được tiết ra trong khớp thần kinh (synapse), tạo liên lạc, đưa tín hiệu từ tế bào thần kinh này qua tế bào thần kinh kế tiếp.
Thuốc trị trầm cảm thế hệ thứ nhất làm tăng chất norepinephrine trong các khớp thần kinh (synapses). Ví dụ: loại tricyclic antidepressant [thuốc chống trầm cảm 3 ṿng], như amitriptylin [“Elavil”].
Những thuốc bịnh nhân đang dùng là loại có 4 ṿng trong công thức hoá học, được đưa vào thị trường trong thập niên 1970's, và na ná giống loại thuốc 3 ṿng (tetracyclic anti-depressants, đừng lẫn lộn với trụ sinh tetracyclin)
Hiện nay, các thuốc trị trầm cảm mới (thế hệ thứ hai, second generation antidepressants), tuy không hiệu nghiệm hơn, được ưa chuộng hơn và rất thịnh hành. Thuốc ít phản ứng phụ hơn các thuốc trị trầm cảm thế hệ trước, nhất là ít tác động lên tim mạch và bịnh nhân khó chết v́ thuốc hơn nhiều nếu chẳng may hoặc cố t́nh uống quá liều. Tuy nhiên, cũng nên nhắc ở đây là FDA cảnh báo các bác sĩ cần chú ư đến hiện tượng gia tăng tự sát ở các trẻ em, thanh thiếu niên dùng thuốc chống trầm cảm, nhất là cần theo dơi chặt chẽ bịnh nhân trong tháng đầu tiên.
Những thuốc này được gọi là SSRI (Selective Serotonin Reuptake Inhibitors, “thuốc ức chế tái hấp thu có chọn lọc serotonin”. Serotonin là một chất truyền dẫn thần kinh (neurotransmitter) được tiết ra trong khớp thần kinh (synapse). Thuốc loại SSRI ngăn chặn không cho serotonin bị thu hồi trở ngược lại vào tế bào thần kinh phía trước (presynaptic cell), do đó tăng serotonin ở khe khớp thần kinh (synaptic cleft). Những thuốc thường gặp là fluoxetin (Prozac, Sarafem), sertralin (Zoloft), paroxetin (Paxil), fluvoxamin (Luvox).
Theo khuyến cáo hiện nay của Tổ chức Y tế Quốc tế (WHO), lúc chữa cơn trầm cảm bằng thuốc, nếu thuốc hiệu nghiệm người ta cho bịnh nhân uống thêm chừng 9-12 tháng (In adult individuals with depressive episode/disorders who have benefited from initial antidepressant treatment, the antidepressant treatment should not be stopped before 9-12 months after recovery).
Sau đó nếu muốn dừng thuốc, người ta giảm liều thuốc từ từ (progressive tapering) trong nhiều tháng, và canh chừng xem bịnh có tái phát (relapse).
Những trường hợp sau đây, người ta khuyến cáo nên uống thuốc trong khoảng thời gian ‘vô hạn định” (indefinitely):
• bịnh nhân phát bịnh lên cơn đầu trước tuổi 20, hoặc sau tuổi 50,
• hoặc người trên 40 tuổi mà đă bị lên cơn 2 lần (2 depressive episodes) với một lần xảy ra sau 50 tuổi,
• hoặc bất cứ tuổi nào mà đă có trên 3 cơn (episodes).
(Ref: 1) 2011 Current Medical Diagnosis and Treatment, Stephen McPhee, McGrawHill) 2) Guidelines by the American College of Physicians)
Đương nhiên, thông tin này là để trả lời một cách tổng quát câu hỏi của thính giả. Mọi quyết định của bác sĩ c̣n tùy theo bịnh nhân, tùy theo thuốc được dùng. Ngay những khuyến cáo này cũng thay đổi theo kiến thức mới và thuốc mới có thể sẽ xuất hiện.
Trong chương tŕnh hỏi đáp y học kỳ này, Bác Sĩ Hồ Văn Hiền trả lời thắc mắc của ông Khơi Huỳnh ở bang Maryland, Hoa Kỳ về chứng đau măn tính (chronic pain).
Chuyên gia phụ trách giải đáp thắc mắc y học kỳ này là Bác sĩ Hồ Văn Hiền, chuyên khoa nhi và y khoa tổng quát, có pḥng mạch và đang làm việc cho các bệnh viện ở Bắc Virginia.
Ông Khơi Huỳnh, đang định cư ở bang Maryland của Hoa Kỳ, có thắc mắc về chứng đau măn tính. Chúng tôi đă chuyển thắc mắc cho bác sĩ Hồ văn Hiền, và sau đây là phần giải đáp của bác sĩ Hiền:
Đau măn tính (chronic pain)
Thính giả đặt câu hỏi ở Mỹ; tất cả mọi biện pháp trị liệu cần bác sĩ của bệnh nhân và bệnh nhân quyết định. Câu chuyện chúng ta hôm nay hoàn toàn có tính cách thông tin tổng quát và không áp dụng riêng cho trường hợp cá biệt nào.
Đau lúc chúng ta bị thương, bị bệnh ở một bộ phận nào đó là một hiện tượng có ích. Chúng ta được cảnh báo là bộ phận đó, chỗ đó của cơ thể cần được săn sóc, và ít lắm th́ cần được nghỉ ngơi cho đến khi hoàn toàn hồi phục.Trong một số trường hợp, cơn đau vẫn kéo dài do bệnh nhân mắc một bệnh kinh niên (chronic disease), như viêm khớp thấp làm đau các khớp (rheumatoid arthritis), hoặc tiểu đường làm viêm các dây thần kinh (diabetes, diabetic neuropathy).
Trong một số trường hợp khác, bộ phận tổn thương có vẻ như đă lành hẳn xét theo các tiêu chuẩn khách quan ( như chụp h́nh xương găy nay đă lành lâu, hay khúc ruột bị đau đă được lấy ra bằng giải phẩu) bệnh nhân vẫn cảm thấy đau đớn, không khỏi hẳn, hoặc không thuyên giảm. Đau đớn kinh niên kéo dài trên 6 tháng (hoặc ít lắm trên 3 tháng), được mô tả như là hội chứng đau măn tính (chronic pain syndrome), gồm nhiều thành phần và đ̣i hỏi sự săn sóc điều trị của nhiều chuyên gia khác nhau, làm việc chung thành một ê kíp (team).
Nguyên nhân gồm nhiều yếu tố đi song song hoặc kết hợp với nhau:
1) Bệnh trong những hệ (system) của cơ thể, có thể đă được định bệnh chính xác, có thể chưa: như hệ tiêu hoá (loét bao tử), hệ xương-cơ (viêm khớp), hệ thần kinh (dây thần kinh, rễ thần kinh bị chèn ép), hệ tiết niệu (viêm bọng đái tái hồi, hệ sinh dục (đau v́ nội mạc tử cung nằm sai chỗ/endometriosis).
2) Một số yếu tố về tâm thần (neuro-psychiatric disorders) như bệnh về cá tính (personality disorder, bệnh trầm cảm (depression),bệnh mất ngủ (sleep disorders) cũng liên hệ tới hội chứng đau măn tính.
3) Trong một số đau măn tính, có thể người bệnh có thể được "hưởng lợi" (rewarded) một cách gián tiếp hoặc trực tiếp v́ t́nh trạng đau đớn đó. Dù là người bệnh không ư thức như vậy, nhưng cơn đau lúc ban đầu (lúc bệnh mới cấp tính) giúp cho bệnh nhân thấy rằng có thể có những mối "lợi" này, củng cố (reinforce) cảm nhận của bệnh nhân là ḿnh c̣n bị đau, trong lúc mà, khách quan mà nói, nguyên nhân làm hại ḿnh,làm ḿnh đau (nocive stimuli) không c̣n hiện hữu nữa. Cái lợi từ trong ra có thể là sự đau đớn làm ḿnh bớt cảm giác tội lỗi, làm ḿnh bớt trách nhiệm, làm ḿnh khỏi phải đi làm việc mà ḿnh không thích. Cái lợi đến từ bên ngoài có thể là người đau được gia đ́nh chú ư nhiều hơn, được ưu tiên hơn, được bác sĩ thăm hỏi nhiều hơn,được trợ cấp.
Chữa trị dùng nhiều can thiệp khác nhau:
1) Chữa bệnh thể chất (organic disease) gây ra đau đớn.
2) Tâm lư trị liệu (psychological interventions), giúp bệnh nhân giải quyết những uẩn khúc về tâm lư nếu có, cắt đứt bớt những yếu tố có khả năng "củng cố" vai tṛ “ người bệnh đau khổ” (interruption of the reinforcement of the pain behavior).
3) Vật lư trị liệu (physical therapy): tăng thể lực, tăng khả năng co giăn (flexibility) các khớp và các cơ, giúp bệnh nhân tự túc trong sinh hoạt, hoạt động nhiều hơn. Dùng massage, siêu âm (ultrasound), sức nóng, lạnh để giảm viêm, giảm đau.
4) Trị liệu bằng cách dạy cho bệnh nhân có cuộc sống hoạt động, dùng đôi bàn tay trong mục đích sáng tạo, như làm nghề mộc, làm đồ gốm, in tranh lên đồ gốm; trang bị chỗ ở của người bệnh để họ có thể di chuyễn dễ dàng, sống tự túc thay v́ ngồi hoặc nằm một chỗ, thụ động xem TV v́ đau đớn lúc cử động, di chuyển (liệu pháp lao động /occupational therapy).
5) Dùng thuốc giảm đau. Vấn đề quan trọng là làm sao tránh đừng để bệnh nhân ghiền thuốc, lệ thuộc vào những thuốc ma tuư (narcotics).
Thuốc men:
(1) Prednisone là một chất corticoid, là giảm viêm (anti-inflammatory), nhưng đồng thời cũng làm giảm khả năng đề kháng của cơ thể chống nhiễm trùng; có thể làm xót bao tử, loét bao tử. Dùng lâu dài có thể làm đổi tâm tính, giữ nước, lên cân, xốp xương và làm tăng áp suất trong nhăn cầu (increased intraocular pressure), nhất là người bị chứng cườm nước (glaucoma).
(2) Gabapentin là một thuốc chống kinh phong, được dùng chữa các cơn đau do viêm dây thần kinh (neuropathic pain) hoặc các hội chứng đau kinh niên. Theo Cochrane, chừng 50% bệnh nhân dùng không hiệu quả, 30% có kết quả ở mức cao. 2/3 bệnh nhân có biến chứng như chóng mặt, buồn ngủ, dáng đi không b́nh thường (gait disturbances), phù nề (edema). Tuy nhiên chỉ 11% bệnh nhân bỏ cuộc v́ những phản ứng phụ này.
(3) Cymbalta (Duloxetine) là một loại thuốc chống trầm cảm (antidepressant) có tác dụng làm tăng các chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitters) serotonin và norepinephrine trong các khớp thần kinh (synapses) của năo bộ.Thuốc c̣n được dùng chữa các đau do viêm dây thần kinh trong bệnh tiểu đường (diabetic neuropathy), đau xương khớp, đau lưng.
Biến chứng: áp huyết có thể tăng (đa số không tăng nhiều); khô miệng; đi tiểu nhiều lần. V́ có tương tác quan trọng với nhiều thuốc khác (drug-drug interaction), bn cần cho bs ḿnh biết tất cả các thuốc khác đang dùng (kể cả thuốc dân tộc, thuốc mua tự do, nhất là thuốc chống trầm cảm thuộc loại MAO inhibitors). Người bị cườm nước (glaucoma) không được dùng thuốc này.
4) Dùng thuốc giảm đau. Vấn đề quan trọng là làm sao giảm thiểu các biến chứng và tránh đừng để bệnh nhân ghiền thuốc, lệ thuộc vào những thuốc ma tuư.
Chích ngoài màng cứng (epidural injection):
Xương sống lưng tạo nên một cái ống rỗng dài để che chỡ tuỷ sống.Tuỷ xương sống chạy dài từ cổ xuống lưng được bao bọc bởi một màng mỏng gọi là màng cứng (dura). Các rễ thần kinh xuất phát từ tuỷ sống phải đi qua khoảng không gian bọc quanh màng cứng (epidural space). Nếu chữa thuốc uống không kết quả, bs có thể đâm kim vào cột xương sống, chích thẳng vào khoảng epidural space một hổn hợp thuốc tê (anesthetic) và thuốc corticoid để làm giảm viêm ổ các rễ thần kinh, từ đó làm giảm đau ở bả vai, lưng, eo lưng.
Trong chương tŕnh hỏi đáp y học kỳ này, Bác Sĩ Hồ Văn Hiền trả lời thắc mắc của ông Phạm Đ́nh Khoan, ở Việt Nam, về chứng viêm xoang măn tính vá ngứa mắt.
Chuyên gia phụ trách giải đáp thắc mắc y học kỳ này là Bác sĩ Hồ Văn Hiền, chuyên khoa nhi và y khoa tổng quát, có pḥng mạch và đang làm việc cho các bệnh viện ở Bắc Virginia.
Ông Phạm Đ́nh Khoan, ở Việt Nam, có thắc mắc như sau:
"Thưa bác sĩ, tôi bị viêm xoang 20 năm nay rồi, bây giờ mắt tôi bị đau và ngứa ở mắt bên trái. Tôi bị đau và ngứa ở trong hốc mắt. Tṛng mắt của tôi th́ b́nh thường, không sao. Nước mũi thường xuyên bị chảy nước và mũi hay bị nghẹt. Đi khám th́ bác sĩ cho thuốc kháng sinh về uống khỏi một thời gian ngắn, nhưng giờ nó lại bộc phát lại.
Bây giờ t́nh trạng của tôi ngứa ở mí mắt, đau ở hốc mắt th́ mắt tôi có bị ảnh hưởng ǵ sau này không ạ?"
Chúng tôi đă chuyển thắc mắc cho bác sĩ Hồ văn Hiền, và sau đây là phần giải đáp của bác sĩ Hiền:
Viêm xoang măn tính & ngứa mắt (Sinusitis and Eye itching)
Chúng ta có 4 cặp xoang nối liền với mũi :xoang hàm (maxillary sinuses) hai bên mũi; xoang sàng (ethmoid sinuses, sau mũi); xoang trán (frontal sinuses; giữa hai mắt), trên mũi; và xoang xương bướm (sphenoid) ở sàn sọ. Nếu do nhiễm trùng, dị ứng, u bướu, polyp, niêm mạc lót trong xoang bị sưng, chất nhờn trong xoang đặc quá, kẹo quá, không thoát ra mũi dễ dàng, chất nhờn ứ lại, làm môi trường tốt cho virus, vi trùng, nấm nảy nở, trong xoang đáng lẽ phải là nơi vô trùng. Trong trường hợp này ta có viêm xoang cấp tính.Nếu nhiễm trùng kéo dài quá 12 tuần, chúng ta gọi là viêm xoang măn tính (chronic sinusitis).
Những trường hợp nặng, do hốc mắt (orbit) nằm sát vách với các xoang, nhiễm trùng của các xoang có thể lan ra vùng hốc mắt và gây triệu chứng phía bên mắt.
Trong một số trường hợp, bệnh dị ứng mũi có thể là một yếu tố giúp cho bệnh viêm xoang dễ xảy ra hơn (predisposing factor). Một số trường hợp viêm mũi măn tính, chữa không dứt được cũng do mũi dị ứng với nấm mọc trong xoang (alllergic reaction to fungi).
Người bị dị ứng mũi cũng có thể bị chứng viêm kết mạc do dị ứng mắt kèm theo (allergic conjunctivitis).
Ngoài da, người bệnh cũng có thể bị ngứa mí mắt v́ chứng bệnh ngoài da trên vùng da xung quanh mắt hoặc trên mí mắt. Mắt cũng có thể ngứa ngáy v́ bị khô, nhất là người lớn tuổi, lượng nước mắt tiết ra để làm trơn phía trước tṛng mắt không c̣n dồi dào như lúc c̣n trẻ, cần những chất thuốc bôi trơn cho mắt (eye lubricants).
Bệnh nhân (viêm xoang măn tính, tái hồi cùng với ngứa mắt) nên đi khám bác sĩ gia đ́nh xem ḿnh có tạng dị ứng hay không (atopic constitution), và dị ứng mũi có phải là một yếu tố cần kiểm soát để ngăn ngừa và chữa trị viêm xoang hữu hiệu hơn.
Những biện pháp như uống thuốc dị ứng (loratidine (Claritin), cetirizin (Zyrtec), dùng thuốc xịt mũi:
1.Loại thuốc ổn định tế bào mast cell gây triệu chứng dị ứng ( mast cell stabilizer), như cromolyn [Nasalcrom],
2. Corticoid (như fluticasone propionate [Flonase], mometasone [Nasonex],
3. Loại kháng histamin (antihistaminic) như olopatadin [Patanase].
Viêm kết mạc dị ứng có thể được chữa trị bằng những thuốc có tác dụng tương tự như 3 nhóm trên, nhưng dạng thuốc nhỏ mắt: cromolyn như "Crolom ophthalmic"; antihistaminic and mast cell stabilizer như olopatadine [Patanol], ketotifen [Zaditor].
Bs cũng xem bệnh nhân cần đi khám chuyên khoa mắt và ngoài da hay không, tuỳ theo t́nh trạng và tuổi tác của bệnh nhân (ví dụ đau tṛng mắt có thể do cườm nước, áp suất trong mắt lên cao (glaucoma), bệnh nhân có thể ngứa v́ nhiễm trùng, dị ứng, ung thư da, v...v
Trong chương tŕnh hỏi đáp y học kỳ này, Bác Sĩ Hồ Văn Hiền trả lời thắc mắc của thính giả Châu A Giêng, về Viêm thần kinh thị giác (Optic neuritis), và Bệnh đa xơ cứng (Multiple sclerosis)
Viêm thần kinh thị giác (Optic neuritis) & Bệnh đa xơ cứng (Multiple sclerosis)
Thính giả Châu A Giêng ở Đồng Nai, Việt Nam, gởi thư đến Chương tŕnh Hỏi đáp Y học với câu hỏi như sau:
Kính gởi Bác sĩ Hiền
Tôi muốn hỏi cho trường hợp của con gái tôi của tôi, năm nay 41 tuổi. Cách đây 2 năm trong khi đang làm việc, đột nhiên mắt của con tôi bị mờ, rồi sau đó hầu như không nh́n thấy nữa. Sau này đi khám ở bệnh viện th́ mới biết là con tôi bị viêm tủy, khô tủy!
Gia đ́nh chúng tôi đưa con tôi đi khám và chữa bệnh ở nhiều bệnh viện ở Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng hầu như không có kết quả. Chúng tôi đi khám ở Trung tâm EXSON, nơi Bác sĩ Vơ Xuân Sơn, chuyên khám và điều trị các bệnh về cột sống, tủy xương -- bệnh chỉ đỡ hơn thôi, chứ không thể chữa trị dứt điểm.
Chúng tôi cũng đă khám và điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy, nhưng cũng không có kết quả tốt hơn. V́ hoàn cảnh khó khăn nên chúng tôi đành đưa cháu về nhà. Có Bác sĩ nói là bệnh này không chữa được.Hiện nay bệnh của con tôi ngày càng xấu đi. Trước đây c̣n tự ăn uống được, nay th́ tay chân yếu hẳn, gần như là bại liệt.
Tôi gởi thư này đến quư đài, nhờ chuyển đến bác sĩ tư vấn xem ở các nước tiên tiến có thể điều trị được bệnh của con tôi không.
Câu chuyện của ông kể về cô con gái 41 tuổi, đột ngột bị mờ mắt, chữa không khỏi, rồi bệnh nặng hơn, tay chân yếu đi, không tự ăn uống được. Ông gọi bệnh này là bệnh “khô tuỷ”.
Tôi xin có một số nhận xét sau đây:
1) Có lẽ ông lẫn lộn về tên bệnh này.
• Bệnh có thể có liên hệ gần xa với cái gọi là "khô tủy" là bệnh myelofibrosis, trong đó tuỷ xương (bone marrow) bệnh nhân là nơi sản xuất các tế bào máu (hồng cầu, bạch cầu, tiểu bản/Red blood cell, white blood cell, platelets) không c̣n hoạt động sản xuất các tế bào máu nữa. Bệnh nhân xanh xao, thiếu máu, dễ nhiễm trùng, gan, lá lách sưng to.
• Về "tuỷ", cần phân biệt "tuỷ xương" (bone marrow, French:moelle osseuse), là phần xốp đỏ có nhiều mỡ, chúng ta thấy trong ruột xương lúc chặt ngang một khúc xương heo, ḅ.
• “ Tuỷ sống" (spinal cord,French: moelle epiniere), là phần thần kinh màu trắng bạc, nằm trong các đốt xương sống lưng (vertebral canal).
• Tuỷ sống, là nơi nối liền bộ óc chúng ta với các phần từ cổ trở xuống.
2) Tôi giải thích cho rơ điểm này v́ câu chuyện ông kể có vẻ không dính dáng ǵ đến "tuỷ xương" (bone marrow), hay 'khô tuỷ xương", và v́ nhầm lẫn định bệnh của con gái, tôi đoán có thể ông t́m đến người chuyên môn về giải phẫu cột sống, tuỷ xương.
3) Cho nên, trước hết, nếu ông muốn t́m hiểu về các trị liệu ở nước ngoài, ông cần xin bác sĩ xác nhận con gái ông bị bệnh ǵ, chẩn đoán theo thuật ngữ khoa học (danh từ chuyên môn) gọi là ǵ, và tiếng Anh tên bệnh ấy, kết quả xét nghiệm, bệnh học mô tả bằng danh từ Anh ngữ như thế nào. Như thế để tránh hiểu lầm, và khỏi phải lặp lại (nếu ra nước ngoài chữa) không cần thiết các thí nghiệm, nghiên cứu đă làm ở VN rồi.
4) Để giúp ông t́m hiểu thêm tôi xin sơ lược một số khái niệm về trường hợp bệnh t́nh tương tự:
a) Bệnh nhân nữ, trẻ, đột ngột bị mờ mắt, thường nhất là do bệnh "optic neuritis", nghĩa là viêm dây thần kinh thị giác.
b) Trong mắt chúng ta, những tín hiệu ánh sáng từ ngoài vào con ngươi (pupil), chiếu vào đáy tṛng mắt, lên vơng mạc (retina). H́nh chiếu trên vơng mạc được biến thành ḍng điện, được dẫn truyền vào óc chúng ta bằng một dây thần kinh, tương tự như dây cáp nối camera video với computer (bộ óc). Các sợi (fiber) trong bó dây thần kinh này được bao bọc bởi một chất mỡ gọi là myelin để bảo vệ chúng, và ḍng điện dẫn truyền riêng rẽ theo từng sợi thần kinh. Cũng giống như dây cáp video có lớp nhựa bao bọc mỗi sợi dây điện trong đó, làm điện không bị " mát dây".
c) Trong cơ thể chúng ta, có một số tế bào phụ trách hệ thống pḥng thủ, chống "ngoại xâm' như vi trùng, các protein lạ từ ngoài vào. Trong một số trường hợp, các tế bào thuộc hệ thống pḥng thủ này, gọi là hệ miển nhiễm (immune system) bị rối loạn, chúng "trở giáo", chống lại các tế bào của chính cơ thể ḿnh (“phe ta”). Trường hợp này gọi là bệnh tự miễn nhiễm (auto-immune disease).
d) Trong bệnh viêm thần kinh thị giác, các tế bào hệ miễn nhiễm phá huỷ chất myelin của dây thần kinh, và phá huỷ các tế bào (oligodendrocytes) sản xuất chất myelin này. Dây thần kinh bị hư (demyelination of the optic nerve), và các tín hiệu từ mắt vào óc bị gián đoạn. Bệnh nhân thấy đau sau mắt, nhất là tṛng mắt nh́n qua lại, lên xuống, mắt mờ dần, càng ngày càng tăng trong vài ngày, vài tuần. Bệnh nhân bị mắt mờ, màu sắc rối loạn hoặc hoàn toàn mù.
d) Hiện nay, chưa có thuốc chữa dứt được bệnh này. Tuy nhiên, dù chữa hay không chữa trị, chừng 90 % trường hợp, tự phục hồi lại được, một phần hoặc toàn phần.
e ) Optic neuritis có thể là triệu chứng đầu tiên của một bệnh của hệ thần kinh (nervous system), bao gồm bộ óc (brain) và tuỷ sống (spinal cord). Các tế bào pḥng thủ có thể tấn công luôn chất myelin trong năo bộ và tuỷ xương sống, tạo nhiều hư hại, trong vùng chất trắng (white matter) cũng như chất xám (gray matter) của bộ năo và gây những triệu chứng thần kinh như mất khả năng trí tuệ (loss of cognitive abilities), mệt mỏi (fatigue), chóng mặt, trầm cảm (depression), liệt các cơ của cơ thể (paralysis).
Bệnh này gọi là multiple sclerosis ( MS) (đa xơ cứng), nhưng xin chú ư đây không nói về xơ cứng xương khớp, mà từ "xơ cứng" (sclerosis) được các bs giải phẫu học thế kỷ thứ 19 dùng để mô tả những mảng (plaque) mô sờ cưng cứng như mô sẹo/thẹo, rải rác trong năo bộ và tuỷ sống bệnh nhân lúc giải phẩu tử thi ( multiple =đa, nhiều; sclerosis, từ la tinh có nghĩa là sẹo/thẹo [scar]).
f) Chẩn đoán bệnh đa xơ cứng dựa trên các tiêu chuẩn:
- Bằng chứng khách quan chứng minh có 2, hoặc nhiều hơn, dấu hiệu tổn thương ở năo bộ hoặc tuỷ sống
- Các dấu hiệu này trải dài trong thời gian và không gian: có nghĩa là các tổn thương xảy ra trên hai vùng khác nhau của hệ thần kinh trung ương, và cách nhau trên 3 tháng.
g) Trong 10 năm qua, chữa trị bệnh MS đă cải thiện hơn nhiều, nhờ những thuốc mới được dùng ngay sau khi bệnh nhân được xác nhận là mắc bệnh đa xơ cứng (MS), và các tiến bộ về chẩn đoán h́nh ảnh (imaging) bằng MRI, tuy chúng ta vẫn cần những liệu pháp tốt hơn, hữu hiệu hơn. Hiện nay, FDA công nhận 5 thứ thuốc gọi là immunomodulators (thuốc điều hoà hệ miễn nhiễm) được dùng cho MS: gồm những thuốc interferon beta 1-a, và 2 thuốc glatiramer và mitoxantron. Đều là thuốc chích, từ mỗi ngày cho đến mỗi tháng. Giá thuốc từ US$1000 đến $1500 mỗi tháng.
Nói tóm lại, có thể bệnh nhân mắc chứng multiple fibrosis. Bệnh này do hệ miễn nhiễm tấn công các sợi thần kinh và cả tế bào thần kinh. Bệnh bớt rồi tái lại từng cơn, triệu chứng đi từ bộ phận này qua bộ phận khác, trải dài trong thời gian.
Định bệnh căn cứ phần lớn trên bệnh sử các triệu chứng, cho nên bs cần nhiều th́ giờ điều tra và theo dơi mới chẩn đoán chính xác, phân biệt với nhiều bệnh tương tự.
Cần bs chuyên khoa thần kinh (neurologist) có kinh nghiệm chữa MS. Có những thuốc mới (immunomodulators) tuy đắt tiền có thể cải thiện các cơn bệnh, làm tiến tŕnh chậm lại.
Có những biện pháp giúp cải thiện đời sống hàng ngày của bệnh nhân, do đó cần cộng tác với bs gia đ́nh, chuyên viên vật lư trị liệu, bs tâm thần, v..v..
Chuyên gia phụ trách giải đáp thắc mắc y học kỳ này là Bác sĩ Hồ Văn Hiền, chuyên khoa nhi và y khoa tổng quát, có pḥng mạch và đang làm việc cho các bệnh viện ở Bắc Virginia.
Thính giả Diệp Thị Liên, ở Đồng Nai, Việt Nam, có câu hỏi như sau:
"Cậu em tôi tên Đỗ Văn Thiên, năm nay 52 tuổi, ở Đồng Nai. Cách đây 3,4 năm, em tôi bị tai biến mạch máu năo ảnh hưởng tới tay phải và chân phải. Hiện tại chạy chữa châm cứu th́ cũng đỡ. Tay phải th́ cũng bưng được tô hủ tiếu nhẹ, c̣n chân phải th́ ngồi ở yên sau cũng đạp được xe đạp từ từ nhè nhẹ. Bây giờ em tôi không c̣n uống thuốc của bác sĩ kê nữa mà uống một loại chức năng gọi là Giảo cổ lam được bào chế ngoài Hà Nội. Loại thực phẩm chức năng này được làm từ một loại cây, nó không phải là thuốc, chỉ là thực phẩm chức năng thôi. Em tôi uống cái đó th́ thấy đỡ lắm. Máu huyết giờ cũng ổn định rồi. Ngoài ra th́ cũng uống thêm một loại thuốc sủi. Nếu mà uống viên sủi này vào th́ đỡ và không bị chuột rút ở chân. C̣n nếu mà không uống th́ bị chuột rút ở chân, đi không được. Như vậy tôi muốn hỏi bác sĩ là ḿnh có cần phải uống thêm loại vitamin hay khoáng chất nào nữa hay không? Muốn uống viên vitamin C thay thế cho viên sủi có được hay không?"
Chúng tôi đă chuyển thắc mắc cho bác sĩ Hồ văn Hiền, và sau đây là phần giải đáp của bác sĩ Hiền:
Thân nhân của vị thính giả đang dùng một số thuốc không rơ tên của bác sĩ ở Việt Nam cho, tất nhiên tôi không thể có ư kiến ǵ về những thuốc này. Cũng vậy, về câu hỏi có thể dùng vitamin C để thay thế môt thứ thuốc nào đó, tôi cũng không biết thuốc bệnh nhân đang dùng là thuốc ǵ, nên không trả lời được. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra một vấn đề thú vị về y khoa: vai tṛ của vitamin C trong tai biến mạch máu năo (TBMMN) như thế nào?
Trước hết xin nhắc lại TBMMN (cerebrovascular accident), hay "stroke" (đột truỵ/đột quỵ) được định nghĩa như là một thay đổi đột ngột của cơ năng thần kinh gây ra bởi một thay đổi trong lượng máu cung cấp cho năo bộ.
Stroke có thể do :
• Mô năo chết v́ không đủ máu đến nuôi dưỡng (ischemic infarct) do một mạch máu bị tắc nghẽn,
a) v́ máu đóng cục trong ḷng mạch máu (cerebral thrombosis),
b) hoặc v́ một cục máu từ một nơi khác (embolus; thường từ tim đến, do rung tâm nhĩ [atrial fibrillation], máu trong tâm nhĩ dễ đóng cục) đến làm tắc nghẽn mạch máu năo.
Triệu chứng chính là một bộ phận nào đó ngưng làm việc (focal deficit) (vd: liệt một phần cơ thể, không nói được).
• TBMMN (Stroke) có thể do chảy máu trong óc (do một động mạch bị vỡ, v́ động mạch đó bất b́nh thường bẩm sinh [arteriovenous malformation] ở người trẻ; ở người già th́ thường gặp nhất là bệnh áp huyết cao làm thoái hoá (degeneration) vách các động mạch phần dưới của năo bộ (hypertensive intracerebral hemorrhage). Người bệnh bị nhức đầu, bị mất cơ năng cục bộ (không cử động được một nhóm bắp thịt, mất cảm giác một vùng nào đó; focal deficit), và mức tỉnh táo, ư thức cũng giảm.
• Ngoài ra, người bị chảy máu dưới màng năo, trong vùng nước tuỷ sống (subarachnoid hemorrhage) thường bị nhức đầu nhiều, đối với giảm ư thức tổng quát, không tỉnh táo (decreased level of consciousness).
• Sọ là một cái hộp cứng, không giăn nở được. Do đó, khi máu chảy trong năo hay dưới màng óc (subarachnoid hemorrhage) tạo nên một khối đè nén lên phần c̣n lại của năo bộ, lại thêm vào đó làm phù nề năo bộ (cerebral edema), do đó gây trở ngại cho sự tuần hoàn của máu đem dinh dưỡng (glucose) và cung cấp oxy cho năo bộ.
Các biện pháp ngăn ngừa TBMMN (stroke) do thiếu máu (ischemic strokes, không phải do chảy máu) trở lại:
1) Nhóm thuốc chính được dùng có tác dụng làm giảm đông máu;
• chính là aspirin (75-320mg/ ngày);
• clopidogrel (Plavix);
• heparin;
• warfarin.
2) Quan trọng không kém là kiểm soát bệnh áp huyết (hypertension) cao, bệnh tiểu đường (diabetes) và bệnh mỡ cao trong máu (hyperlipidemia), ngưng hút thuốc lá, chữa bệnh tim (rung tâm nhĩ), chữa bệnh xơ vữa động mạch cỗ (atheroma of the carotid arteries).
3) Ngoài ra c̣n có chương tŕnh phục hồi (rehabilitation) người bệnh sau khi stroke, như giải quyết các vấn đề tinh thần (trầm cảm, thiếu chú ư), dinh dưỡng, ngôn ngữ, vật lư trị liệu, v.v.... giúp trở lại đời sống càng gần vơi b́nh thường càng tốt.
4) Về Vitamin C (ascorbic acid), có một số bác sĩ căn cứ trên một số nghiên cứu chứng tỏ Vitamin C tối cần cho sự toàn vẹn của vách mạch máu và cho sức khoẻ của các mạch máu, và dùng vitamin C ở những liều cao rất nhiều (megadoses) so với liều được dùng trong y khoa luồng chính. Chính phủ Mỹ khuyến cáo chúng ta cần 60-95mg vitamin C/ ngày, NIH th́ khuyên chừng 200mg/ngày, trong lúc đó có những bác sĩ khuyên dùng đến vài gram (vài ngàn mg)/ ngày ). Nói chung lợi ích và công dụng của vitamin C là một đề tài tranh căi trong giới khoa học từ mấy chục năm nay, chưa ngă ngũ. Hiện nay, mức vitamin C uống cao nhất được coi có thể chấp nhận (upper tolerable level) là 2000mg/ngày. Dùng nhiều hơn có thể tiêu chảy và sạn thận (vitamin C [ascorbic acid] được biến dưỡng thành oxalate, sinh ra sạn oxalate trong nước tiểu).
Những nghiên cứu gần đây cho thấy người có mức vitamin C cao nhất trong máu ít bị TBMMN (stroke) hơn người có mức vitamin C thấp, và cơ nguy tai biến mạch máu năo (risk of stroke) có thể giảm đến 70%. Việc này chứng tỏ mức vitamin C gắn liền với khả năng ít bị stroke hay không, tuy nhiên giới khoa học hiện nay chỉ cho đây là một tương quan (correlation) giữa hai hiện tượng, chưa chứng minh rằng uống nhiều vitamin C làm giảm stroke (tương quan nhân quả). Các chuyên gia nói chung chỉ khuyên chúng ta ăn uống rau quả nhiểu là tốt hơn cả. Nếu uống vitamin C, nên tham khảo với bác sĩ của ḿnh về liều lượng thích hợp.
• 5) Nói về thuốc dược thảo được dùng chữa bệnh stroke, chúng ta có thể nhắc đến ginkgo biloba, tiếng Việt gọi là cây bạch quả, cây mọc ở Trung quốc, Nhật và Nam Hàn, cao 20-30 mét. Bạch quả là một trong những cây sống lâu nhất thế giới, có thể cả ngàn năm (tiếng Pháp Abricot argente’ japonais,arbre aux ecus;Trung hoa: Bai Gua).
• Người ta nghĩ tác dụng chính là cải thiện lưu thông máu (blood flow) ở óc, mắt, và các bắp thịt (cơ).
• Nghiên cứu vể hạt bạch quả (seeds) c̣n ít; người ta thấy hạt bạch quả có những chất giết vi khuẩn, ngược lại cũng chứa chất độc tố có thể gây bất tỉnh (loss of consciousness) và co giật (epilepsy).
• Lá bạch quả h́nh quạt, có hai thuỳ, được dùng trong ngành y học " lề trái" (alternative medicine) của Mỹ, và đang được nghiên cứu khoa học trên loài vật.
• Gần đây một nghiên cứu của đại học Johns Hopkins (Mỹ), công bố trên báo y khoa “Stroke,” cho thấy ở chuột được chữa bằng ginkgo biloba, các mô thẩn kinh bị hư hại giảm xuống chứng một nửa, cũng như các rối loạn về thần kinh do stroke gây ra cũng giảm xuống chừng một nửa. Người ta nghĩ rằng có thể lá ginkgo biloba làm vô hiệu hoá các gốc hoá học tự do (free radical) chung quanh nơi xảy ra stroke.Tuy nhiên xin nói rơ, đây là thí nghiệm trên chuột, chưa có ǵ chứng tỏ áp dụng được kết quả này trên con người.
(Ref:Can ginkgo protect from strokes? http //www-nhs-uk/news/2008/10October/Pages/Ginkgoandstrokepreve ntion.aspx)
Cũng như mọi khi, những điều chúng ta bàn ở đây chỉ có tính cách thông tin. Thính giả cần tham khảo trực tiếp với bác sĩ của ḿnh.
Thường xuyên tán gẫu với bạn bè giúp cải thiện trí năo – Ảnh: Shutterstock
Bạn đang trong t́nh trạng ù ĺ, nỗ lực nhiều mà vẫn không thể t́m ra giải pháp cho các vấn đề đơn giản? Đừng lo, những gợi ư sau từ các chuyên gia được đăng trên hăng tin Times News Network có thể giúp bạn “đả thông” năo.
Nghỉ ngơi một lát
Suy nghĩ nát óc mà vẫn chưa t́m ra giải pháp? Hăy tạm gác việc đó lại, nghỉ ngơi một chút và tập trung vào điều khác. Một khi bạn không thể t́m ra giải pháp đúng, tốt nhất là rời khỏi bàn làm việc, để máy tính xách tay và điện thoại di động qua một bên và bước ra ngoài hít thở không khí trong lành.
Xem những tấm h́nh đẹp
Bạn có thấy trẻ em trông thật dễ thương? Hăy t́m xem những tấm h́nh về trẻ em hoặc chính những bức ảnh của con bạn. Theo các chuyên gia, những h́nh ảnh này sẽ giúp bạn cảm thấy dễ chịu hơn, thậm chí mỉm cười, từ đó trở nên tỉnh táo hẳn lên.
Nhai kẹo cao su
Các chuyên gia thừa nhận nhai kẹo cao su không chỉ giúp giảm vi khuẩn sinh sôi và cải thiện cơ hàm, mà c̣n giúp bạn trở nên tỉnh táo hơn.
Học hát hoặc học chơi một nhạc cụ
Âm nhạc từ lâu được chứng minh đem lại nhiều lợi ích cho sức khỏe. Và học cách chơi một nhạc cụ hoặc thậm chí hát là một cách giúp tăng cường trí lực hữu hiệu.
Tập thể dục
Các hoạt động thể chất giúp tống khứ mọi phiền muộn trong tâm trí, giúp bạn dễ dàng suy nghĩ thông suốt hơn.
Tám chuyện với bạn bè
Theo nghiên cứu, khi bạn tự cô lập khỏi mọi người, bạn đang tự đặt ḿnh vào t́nh trạng dễ bị suy giảm chức năng nhận thức khi có tuổi. Con người được trang bị một loạt kỹ năng giao tiếp cần phải được sử dụng. Bạn có các mối quan hệ xă hội càng rộng, th́ nguy cơ suy giảm nhận thức do tuổi già sẽ giảm đáng kể.
Bổ sung thực phẩm chứa flavonoid
Ăn các thực phẩm như chuối, cam quưt, bưởi, cần tây, sô cô la đen giàu flavonoid, chất chống ô xy hóa giúp tăng cường trí năo, cải thiện kỹ năng nhận thức bằng cách tạo ra các tế bào thần kinh mới trong năo, cải thiện khả năng ghi nhớ và làm tăng lưu lượng máu đến năo.
Đoán Tuổi Thọ Qua Bài Kiểm Tra SRT (Sitting - Raising - Test)
Đoán Tuổi Thọ Qua Bài Kiểm Tra SRT (Sitting - Raising - Test)
Khả năng đứng lên và ngồi xuống mà không dùng đến tay, cẳng tay hay đầu gối hỗ trợ có thể dự đoán được tuổi thọ của một người.
Các bước đứng lên ngồi xuống theo thứ tự trái sang phải. Ảnh: Yourhealth.
Trong một hội thảo về vấn đề sức khỏe thể chất và các cách khác nhau giúp kiểm tra t́nh trạng sức khỏe, các bác sĩ Brazil hướng dẫn bài tập kiểm tra đứng lên ngồi xuống (Sitting-Raising Test - SRT). Rất đơn giản, bạn chỉ cần ngồi bệt, bắt chéo hai chân, từ từ đứng thẳng lên rồi lại ngồi xuống theo tư thế ban đầu. Lặp lại động tác 5 lần 10 nhịp.
Theo tiến sĩ Claudio Gil Araujo, mặc dù rất đơn giản, song những chuyển động hạ thấp người xuống sàn rồi đứng thẳng trở lại là thước đo sức mạnh cơ bắp, sự linh hoạt, khả năng cân bằng và kết cấu cơ bắp của cơ thể. Nói cách khác, đây chính là những yếu tố tạo nên sức khỏe thể chất của một người.
Bài kiểm tra được tính trên thang điểm từ một đến 10 tức là sau khi hoàn thành một chu kỳ đứng th́ được một điểm. Một điểm sẽ bị trừ cho mỗi lần sử dụng tay hoặc đầu gối để hỗ trợ và trừ nửa điểm cho mỗi lần mất thăng bằng.
Trong một nghiên cứu, kết quả cho thấy trong cùng một thời gian như nhau, những người đạt điểm từ 0-3 có tuổi thọ thấp hơn và nguy cơ chết sớm hơn 5 lần so với những người đạt điểm từ 8-10. Tiến sĩ Claudio nói: “Bạn cũng có thể tự làm một bài kiểm tra và tự đánh giá chính ḿnh. Những ǵ bạn cần là một không gian vừa đủ”.
Bác sĩ Kelvin Chew, giám đốc Trung tâm Y khoa Thể thao Changi (Singapore) nhận xét: “Bài kiểm tra SRT rất dễ dàng nhưng mang lại kết quả to lớn. SRT có ư nghĩa như một bài kiểm tra để xác định ai cần phải tập thể dục nhiều hơn và c̣n đặc biệt ư nghĩa hơn với dân số đang già hóa của chúng tôi. SRT đă được chứng minh và xác nhận độ tin cậy, v́ vậy chúng tôi càng tự tin hơn khi tiến hành các cuộc thử nghiệm tại Singapore”.
Theo Yourhealth, SRT không chỉ là một bài kiểm tra mà c̣n một bài tập thể dục đơn giản, hiệu quả cao cho những ai bận rộn có thể tự tập ngay trong pḥng của ḿnh.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.