4 nhân tài đất Việt lưu danh sử Trung Quốc gồm những ai? Họ không chỉ là nhân tài đất Việt mà c̣n được sử sách Trung Quốc ngợi ca là anh hùng v́ những đóng góp của ḿnh.
1. Lư Ông Trọng
Lư Ông Trọng (không rơ năm sinh năm mất) tên thật là Lư Thân. Ông được xem là nhân vật truyền thuyết sống vào cuối đời Hùng Duệ Vương, đầu thời An Dương Vương, gốc làng Chèm, Từ Liêm, Hà Nội. Tương truyền ông cao hai trượng ba thước, tính t́nh cương trực, trung hậu, thương dân. V́ bất b́nh tên lính huyện ác ôn đánh đập dân phu dă man nên ông đă đánh chết hắn, bị khép vào tội chết. Tuy nhiên, v́ vua tiếc hiền tài nên đă không xuống tay, sau đó ông bỏ chức, đi học phương xa.
Lư Ông Trọng (bên phải) và vợ Hoàng phi Bạch Tĩnh Cung Công chúa
Thời Tần Thủy Hoàng bị quân Hung Nô quấy nhiễu, gặp đúng lúc Lư Ông Trọng sang đi sứ nên vua Tần đă mời ông giúp sức, phong làm Vạn Tín Hầu. Đáng kinh ngạc là khi ông cầm quân ra giữ đất Lâm Thao (vùng Cam Túc, Trung Quốc hiện nay) th́ quân Hung Nô tràn đến bao nhiêu cũng thua, dần trở nên kinh sợ khi nghe danh Lư Ông Trọng.
Vua Tần vô cùng khâm phục, phong tước cao, thưởng hậu hĩnh c̣n gả cả công chúa cho. Dù được vua níu kéo nhưng ông không ở lại nước Tần mà về quê hương. Quân Hung Nô biết tin liền tiếp tục quấy nhiễu Tần, Tần Thủy Hoàng tiếp tục mời sang nhưng Lư Ông Trọng không muốn, nói vua Thục báo tin ḿnh đă mất. Không ngờ Tần Thủy Hoàng chỉ với bức tượng Lư Ông Trọng cũng đuổi được quân Hung Nô. Từ đó thấy được cái tài và uy danh của vị tướng Việt lớn mức nào.
2. Nguyễn An
Nguyễn An (1381 - 1453) quê ở vùng Hà Đông ngày nay, từ nhỏ đă là thần đồng tính toán, có biệt tài về kiến trúc. Ông khi mới 16 tuổi đă góp công xây dựng các công tŕnh cung điện của nhà Trần. Sau khi nhà Minh đánh thắng nhà Hồ, bắt được cha con Hồ Quư Ly mang về Trung Quốc vào năm 1406 th́ vào năm 1407, vua Minh tiếp tục bắt những người học vấn cao, thợ khéo, các thanh niên tráng kiện để mang về Trung Quốc, trong đó có Nguyễn An.
Nguyễn An với tài kiến trúc, lại nổi tiếng liêm khiết nên đă trở thành tổng công tŕnh sư của Tử Cấm Thành. Ban đầu quan lại ở Bộ Côn không phục nhưng thấy nhân tài nước Thục tính toán rành mạch, đầu nghĩ tay chỉ thành h́nh nên cuối cũng cũng phải phục tùng. Công lao này của Nguyễn An được ghi rơ trong các bộ sử cổ của Trung Quốc như Hoàng Minh thông kỷ, Anh Tông chính thống thực lục.
3. Hồ Nguyên Trừng
Hồ Nguyên Trừng (1374–1446) là con trưởng của Hồ Quư Ly, có biệt tài về đúc súng, pháo. Sau khi bị quân Minh bắt về Trung Quốc, ông được vua Minh trọng dụng, trở thành thầy dạy đúc súng pháo của người Trung Quốc, đem lại bước tiến lớn trên con đường sử dụng thuốc nổ vào chiến tranh của nước này.
Trong Vân đài loại ngữ của Lê Quư Đôn có nhắc đến việc ghi chép của sử nhà Minh về Hồ Nguyên Trừng như sau: "Trừng khéo chế súng, chế ra thần cơ cho triều đ́nh, đến nay tế binh khí đều phải tế Trừng".
Hay trong nghiên cứu củaGiáo sư Trần Quốc Vượng về lịch sử Trung Quốc nói chung và Minh sử nói riêng cũng có đoạn: "Đến đời vua Thành Tổ nhà Minh (1403-1424) đánh nước Giao chỉ học được phép đúc thần cơ sang pháo, lúc bấy giờ mới đặt ra đội súng thần cơ". Theo đó, Hồ Nguyên Trừng có công lao quan trọng trong việc thành lập Thần cơ doanh - binh chủng pháo binh đầu tiên của quân đội Trung Quốc và cũng là binh chủng pháo binh đầu tiên của nhân loại.
4. Khương Công Phụ
Khương Công Phụ (731 - 805) xuất thân b́nh dân ở đất Yên Định – Thanh Hóa (lúc đó là quận Nhật Nam dưới thời Đường). Tuy nhiên, trong sách Chuyện thi cử và lập nghiệp của học tṛ xưa, ông lại được cho là sinh ra trong một gia đ́nh làm nghề bán thuốc bắc, từ nhỏ đă thông minh, theo học một người Trung Quốc là Nho sĩ đỗ đạt nhưng sống ẩn dật v́ chán cảnh quan trường.
Khi vua Đường chỉ cho 8 sĩ tử An Nam sang Trường An thi, Khương Công Phụ đă vượt qua hết các kỳ khảo hạch với thứ hạng luôn đứng đầu. Trong kỳ thi ở Trường An, ông xuất sắc đỗ Trạng Nguyên, làm đến chức Tể tướng của triều vua Đường Túc Tông.
Học giả La Sĩ Bằng của Trung Quốc nhận xét về Khương Công Phụ như sau: "Thời Đường lấy văn thơ kén quan chức. Người An Nam muốn ra làm quan ắt phải theo lối đó. Công Phụ qua khoa cử làm quan đến chức cao quư như Tể phụ th́ thơ văn chắc phải uyên thâm lỗi lạc… Chỉ có trong Toàn Đường Văn, quyển 446 có chép 2 thiên: Bạch Vân chiếu xuân hải và Đối cực trực gián sách. Qua hai thiên văn chương ấy, chúng ta đại khái thấy được bút văn, kiến thức của bậc văn tài".
VietBF@ sưu tập