Ô nhiễm không khí ở Hà Nội được xác định chủ yếu đến từ hoạt động giao thông, công nghiệp và đốt phụ phẩm nông nghiệp.
T́nh trạng ô nhiễm không khí ở Hà Nội gia tăng trong khoảng 10 năm trở lại đây. Theo kết quả quan trắc của Bộ Tài nguyên và Môi trường, ô nhiễm không khí ở Hà Nội bắt đầu từ khoảng tháng 10 và kéo dài đến tháng 4 năm sau, tập trung tại một số điểm có mật độ giao thông lớn và nhiều cơ sở sản xuất. Trong ngày có hai khung giờ ô nhiễm nghiêm trọng là 6-8h và 17-19h.
Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2016-2020 cho thấy nồng độ bụi PM 2.5 trung b́nh năm tại Hà Nội vượt gần hai lần quy chuẩn quốc gia. Số ngày trong năm 2019 có chỉ số chất lượng không khí (AQI) ở mức kém và xấu chiếm 30,5%.
Sau đó trừ mấy năm Covid (2020-2021) phải giăn cách xă hội, chất lượng không khí được cải thiện th́ đến nay tái diễn ô nhiễm với mức độ trầm trọng hơn. Từ đầu năm 2024 đến nay, Hà Nội đă ghi nhận 4 đợt ô nhiễm không khí nặng, trong đó ba đợt tháng 1-4 và một đợt vào đầu tháng 10.
TP Hà Nội đă chỉ ra 5 nguồn chính gây ô nhiễm không khí gồm: Phương tiện giao thông đường bộ (cả bụi đường), công nghiệp, dân sinh, đốt sinh khối và nông nghiệp.
Nguồn phát thải lớn nhất là hoạt động giao thông. Theo số liệu năm 2019, tổng phát thải bụi PM 2.5 từ các nguồn là hơn 30.000 tấn, hơn 50% số này đến từ nguồn thải tại chỗ. Trong đó, hoạt động giao thông, bụi đường lớn nhất, chiếm 56%. Thành phố có 1,1 triệu ôtô, hơn 6,9 triệu xe máy, 70% trong số này đă sử dụng trên 10 năm, tạo ra nguồn phát thải lớn.
Nghiên cứu của Viện Khoa học và Công nghệ môi trường, Đại học Bách khoa Hà Nội, cho thấy khí thải xăng và dầu diesel từ giao thông đóng góp 46% lượng bụi siêu mịn và các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi từ xe máy chiếm hơn 90% vào tổng mức phát thải từ giao thông. Xe máy là nguồn phát thải lớn nhất, tiếp theo là xe tải hạng nặng, xe buưt và xe tải hạng nhẹ.
Phát thải nhiều thứ hai là từ các hoạt động sản xuất công nghiệp. Hà Nội có 10 khu công nghiệp, khoảng 1.300 làng nghề cùng các cơ sở sản xuất công nghiệp ở các tỉnh, thành phố lân cận, nơi chỉ cách trung tâm 50-100 km. Đơn cử hoạt động nhiệt điện ở Hải Dương, Quảng Ninh; chế biến xi măng ở Ḥa B́nh, Ninh B́nh, Hà Nam; phân bón, hóa chất tại Thái Nguyên, Phú Thọ.
Nguồn nhiều thứ ba là đốt phụ phẩm nông nghiệp, chiếm khoảng 13% vào t́nh trạng ô nhiễm không khí Hà Nội. Khoảng thời gian ô nhiễm không khí nghiêm trọng nhất cũng trùng vào dịp thu hoạch hai vụ lúa chính là hè thu và đông xuân. Tại các huyện như Quốc Oai, Mỹ Đức, Chương Mỹ, người dân vẫn giữ thói quen đốt rơm rạ ngay tại đồng.
Ngoài ra, các nguồn như xây dựng, đốt rác, y tế và hoạt động dân sinh khác đóng góp khoảng 10% vào t́nh trạng ô nhiễm không khí ở Hà Nội.
Cơ quan chuyên môn đánh giá TP HCM có nguồn phát sinh khí thải lớn hơn, nhưng ô nhiễm không khí lại không nghiêm trọng bằng Hà Nội. Từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau có sự chênh lệch ngày đêm về nhiệt độ, độ ẩm, hướng và tốc độ gió, bức xạ nhiệt rất lớn làm hạn chế khả năng khuếch tán chất ô nhiễm, đặc biệt là bụi PM 10 và bụi mịn PM 2.5.
"Các yếu tố bất lợi về thời tiết làm cho t́nh trạng ô nhiễm không khí ở miền Bắc nói chung, Hà Nội nói riêng trầm trọng hơn miền Trung, miền Nam hay các tháng c̣n lại trong năm", ông Lê Hoài Nam, Cục phó Kiểm soát ô nhiễm môi trường nhận định.
Nhiều hạn chế trong quản lư chất lượng không khí
Tiến sĩ Hoàng Dương Tùng, Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam, đánh giá hệ thống pháp luật hiện hành trong quản lư chất lượng không khí chưa đủ, chưa cụ thể tới từng loại h́nh, từng ngành để có thể theo kịp tốc độ phát triển của kinh tế xă hội. Ví dụ trước đây không ai nghĩ phải lo vấn đề đốt rác th́ giờ ngay ở cạnh Hà Nội đă có một nhà máy đốt rác phát điện công suất 4.000 tấn, phát sinh hàng triệu m3 khí thải hàng giờ cần được kiểm soát.
Khoảng cách giữa quy định và triển khai thực tế c̣n cách xa nhau. Tiến sĩ Tùng cho rằng mặc dù đă đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, vấn đề ô nhiễm không khí "dường như chỉ ở trung ương hoặc cùng lắm là các tỉnh nhắc đến, các quận huyện nơi trực tiếp phát sinh th́ không mấy quan tâm. Nhiều nơi không nắm được vấn đề gây ô nhiễm nhất của ḿnh là ǵ để có giải pháp phù hợp".
Hạn chế thứ ba được các chuyên gia đưa ra là sự đầu tư chưa đồng bộ, nơi có nơi không của hệ thống mạng lưới quan trắc. Hiện cả nước có 27 trạm quan trắc môi trường không khí ở 22 tỉnh thành, trong đó Hà Nội 4 trạm, TP HCM, Đà Nẵng mỗi nơi hai trạm. 7/27 trạm đă được đầu tư từ cách đây trên 10 năm.
Ở địa phương, hiện mới có 30 tỉnh, thành đă xây dựng và vận hành trạm quan trắc không khí tự động, liên tục với tổng số 95 trạm.