Thực tế, đó chính là bi kịch cuộc đời của những cô gái trẻ...
Thánh nữ là những cô gái được lựa chọn để trở thành hiện thân của một nữ thần đầy quyền lực, đại diện cho những tín đồ thần giáo để cầu xin thần linh, thậm chí là đại diện cho thế lực thần linh bảo vệ đất nước.
Tục lệ tôn thờ Nữ thánh hộ quốc đồng trinh (Kumari) đă có từ xa xưa tại Nepal và một số nơi tại Ấn Độ. Đây là một tục lệ xuất hiện trong xă hội Hindu giáo tại Ấn Độ cổ đại từ trước kỷ nguyên Tây lịch. Từ "Kumari", bắt nguồn từ tiếng Phạn “Kaumarya” có nghĩa là "Nữ thánh đồng trinh".
Kumari trong một lần xuất hiện trước công chúng.
Kumari - Tục lệ tôn thờ Nữ thánh hộ quốc đồng trinh ở Nepal
Nữ thánh đồng trinh "Kumari" tại Nepal là người bảo trợ cho Quốc vương và toàn bộ vương quốc. Người ta tin rằng, Nữ thánh đồng trinh có một quyền lực siêu nhiên có thể bảo trợ vận mệnh cho Quốc vương và làm cố vấn cho ngài mỗi khi có một vấn đề nan giải.
Kumari tại Nepal là hiện thân vật chất của Taleju Bhavani - Nữ thần Rắn (Naga Goddess) bảo trợ vương quốc Nepal (một trong các hóa thân của Nữ thần tối cao Durga). Do vậy, Kumari được các tín đồ thần giáo rất mực thờ phụng.
Những thư tịch cổ cho thấy truyền thống tuyển chọn và tôn thờ các Kumari ở Nepal có niên đại từ thế kỷ 13. Một Kumari phải có đủ tiêu chuẩn như: có 32 yếu tố hoàn hảo như sức khỏe tốt, không mắc bệnh truyền nhiễm (nhất là đậu mùa), làn da tươi sáng, tóc và mắt đen, hàm răng chưa mất một cái nào...
Ngoài ra, h́nh dáng bên ngoài của một Kumari phải có những nét đặc trưng như g̣ má giống sư tử, dáng ngồi giống cây bồ đề, thân thể thơm tho, sạch sẽ. Cô gái được chọn làm Kumari phải thể hiện sự mạnh mẽ của ḿnh, b́nh tĩnh và có lá số tử vi không được xung khắc với Quốc vương đang trị v́.
Khi trở thành Kumari, các bé gái sẽ rời gia đ́nh để đến sống trong khu điện thờ, phải luôn mặc đồ màu đỏ, vẽ một con mắt thứ ba giữa trán, chân nhuộm đỏ, mang những món trang sức của Kumari lưu truyền từ đời trước, ngồi trên ngai chạm trổ h́nh rắn.
Từ lúc này, Kumari sẽ không c̣n dùng tên thật, sống khép kín trong cung điện, không có bất ḱ hoạt động giao tiếp nào với người lạ. Khi có kinh nguyệt lần đầu tiên, mất một chiếc răng hoặc bị chảy máu v́ bất ḱ lư do ǵ, Kumari sẽ tự động trở về đời sống b́nh thường.
Kumari không được sống cuộc sống b́nh thường và rất khó tái ḥa nhập với xă hội khi họ không c̣n là thánh nữ. Nhiều người tin rằng, cưới một Kumari là một tai họa, thậm chí đen đủi. V́ vậy, vào năm 2008, ṭa án Nepal đă đưa ra phán quyết, tục lệ thờ Kumari là một hủ tục và truyền lệnh cho các Nữ thánh đồng trinh phải trở về nhà, đi học như bao trẻ em khác.
Số phận bi đát của các thánh nữ Ấn Độ
Theo truyền thống, thánh nữ Ấn Độ là con nhà nghèo, khi được 10 tuổi, các cô gái này sẽ bị bán để trở thành vật hiến tế cho thần linh. Đến khi dậy th́, họ lại trở thành nô lệ t́nh dục cho những vị quan chức, tư tế.
Họ được ví như những “kĩ nữ nhà thổ”, không có chức năng ǵ khác ngoài phục vụ nhu cầu t́nh dục của các thầy tu. Sinh ra trong các gia đ́nh thuộc tầng lớp thấp nhất trong xă hội nên về cơ bản, các thánh nữ không có khả năng tự bảo vệ ḿnh và buộc phải có nhiều “đối tác t́nh dục”.
Các thánh nữ Ấn Độ không phải rời nhà để sống trong cung điện biệt lập như những Kumari, họ chỉ lên đền thờ khi “đối tác” có nhu cầu. Khi không c̣n trẻ đẹp, họ trở về nhà và không được ai đếm xỉa, quan tâm.
Suốt đời, họ không thể có cuộc sống hôn nhân b́nh thường như những người khác. Các thánh nữ già lưu lại đền thờ sẽ phải sống những năm tháng đau khổ, trở thành người giám sát, quân sư cho những thánh nữ mới.
Hủ tục thánh nữ ở Ấn Độ dù đă bị cấm từ năm 1986 nhưng dường như không hề thay đổi. Để có được miếng cơm manh áo cho gia đ́nh, các cô gái có địa vị thấp vẫn chấp nhận sống dưới đáy xă hội, trở thành nạn nhân t́nh dục, hy sinh tuổi xuân cho “thần thánh”.
theo Mask