Washington đang dồn hết sức lực để trở lại châu Á nhưng giới phân tích cho rằng, đây thực sự không phải một chiến lược khôn ngoan của Nhà Trắng.
'Cài số lùi' quan hệ Mỹ - Trung
Thời gian qua thế giới được chứng kiến các hoạt động ngoại giao sôi động của hai lãnh đạo hàng đầu nước Mỹ tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Sau khi chủ trì Hội nghị thượng đỉnh của Diễn đàng hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Tổng thống Obama cùng với Ngoại trưởng Hillary Clinton thực hiện một loạt chuyến thăm quan trọng đến các nước châu Á, trong đó đáng chú ý nhất là chuyến thăm của ông chủ Nhà Trắng đến Australia và chuyến thăm của bà Clinton đến Philippines.
Trong hai chuyến thăm này, ông Obama và bà Hillary có một số phát biểu khiến Trung Quốc cảm thấy bất an. Tại Australia, Tổng thống Obama chính thức thông báo kế hoạch triển khai hàng nghìn quân đến xứ sở chuột túi trong vài năm tới. Rõ ràng, việc Mỹ đưa quân đến gần Trung Quốc không thể không khiến Bắc Kinh nổi giận.
Không chỉ vậy, Ngoại trưởng Hillary khi ở thăm Philippines còn cam kết sẽ bảo vệ nước này trong một cuộc tranh chấp lãnh hải ở khu vực. Giới quan sát cho rằng, cam kết này rõ ràng ám chỉ đến Trung Quốc bởi giữa nước này với Philippines đang có cuộc tranh chấp lãnh hải ở khu vực biển Đông.
Ngoài các động thái trên, Tổng thống Obama còn lần đầu tiên cùng với các nhà lãnh đạo Đông Á tham dự Hội nghị thượng đỉnh ASEAN.

Tổng thống Obama và Ngoại trưởng Clinton cùng thúc đẩy các hoạt động ngoại giao tại châu Á.
Ảnh: First Post.
Theo Washington, tất cả những hoạt động trên của Tổng thống Obama và Ngoại trưởng Hillary chỉ nhằm để truyền đi thông điệp rằng Mỹ là một cường quốc châu Á-Thái Bình Dương. Ông chủ Nhà Trắng nhấn mạnh, Mỹ sẽ là một cường quốc Thái Bình Dương hòa bình và việc họ triển khai lính thủy đánh bộ ở Australia không phải là nhằm cô lập Trung Quốc dù Mỹ thừa nhận họ có lo lắng về những hoạt động phô trương sức mạnh gần đây của Trung Quốc ở biển Thái Bình Dương.
Tuy nhiên, Bắc Kinh đương nhiên không tin vào những tuyên bố xoa dịu đó. Con rồng châu Á cho rằng, Mỹ đang tìm cách xâm phạm vào vùng ảnh hưởng và bao vây họ.
Một chuyên gia thuộc Trung tâm nghiên cứu các vấn đề thế giới của
Xinhua nhận định, Mỹ tuyên bố làm người lãnh đạo Thái Bình Dương song “mũi dùi” thực chất là nhằm vào Trung Quốc, hơn nữa Mỹ cũng không che giấu ý đồ và việc triển khai chiến lược này.
“Cùng với sự trỗi dậy của Trung Quốc và quan hệ giữa họ với ASEAN ngày càng tốt đẹp, Mỹ cảm thấy Trung Quốc ngày càng có thể tạo ra mối đe dọa cho bá quyền của họ. Vì vậy, mục tiêu chuyển dịch chiến lược sang hướng Đông của Mỹ là kiểm soát, ngăn chặn Trung Quốc”, chuyên gia này quả quyết.
Với suy nghĩ này, Trung Quốc đã đáp trả khá quyết liệt như tổ chức một cuộc tập trận hải quân ở Thái Bình Dương. Ngoài ra, Bắc Kinh còn đe dọa những nước trong khu vực sẽ phải chịu “thua thiệt” nếu đứng về phía Mỹ chống lại họ.
Như vậy, hệ lụy nhãn tiền của chiến lược tái can dự châu Á của Washington là chấm dứt một thập kỷ ổn định trong quan hệ Mỹ - Trung, vốn có được sau sự kiện ngày 11/9/2001.
Khi đó, chính quyền của Tổng thống George W. Bush quyết định từ bỏ cách đánh giá Trung Quốc là một đối thủ chiến lược và chuyển sang hợp tác với Bắc Kinh chống khủng bố cũng như một số vấn đề khác mà hai bên cùng quan tâm như chống biến đổi khí hậu và đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, nếu không khôn khéo, sự trở lại châu Á của Mỹ sẽ đặt dấu chấm hết cho 10 năm ổn định này.
Biến động an ninh khu vực
Nghiêm trọng hơn, vì cặp quan hệ Trung - Mỹ là tác nhân rất quan trọng đối với tình hình an ninh và ổn định ở cả khu vực nên sự băng giá trong mối quan hệ này sẽ ảnh hưởng đến cả khu vực và thế giới.
Chiến lược gia kỳ cựu người Mỹ Paul Stares nhận định: “Nhìn lại các sự kiện từng xảy ra trong quá khứ giữa hai nước, nếu những bất đồng và thái độ thù địch hiện nay giữa Bắc Kinh và Washington không được điều hòa hiệu quả sẽ dẫn đến một cuộc khủng hoảng trầm trọng trong tương lai giữa hai bên”.
Do đó, theo ông, trong những thập kỷ tới, hòa bình tại khu vực châu Á, thậm chí toàn cầu sẽ bị đe dọa bởi những động thái “không ai nhường ai” của cả Mỹ lẫn Trung Quốc.

An ninh khu vực sẽ biến động lớn sau bước dịch chuyển của Mỹ.
Ảnh: facenfacts.
Đồng thời, sự căng thẳng giữa hai siêu cường này cũng đặt tất cả các nước trong khu vực vào môi trường chính trị an ninh đầy phức tạp. Môi trường ấy thuận lợi hơn hay bất lợi hơn trước đối với từng quốc gia trong khu vực tuỳ theo mức độ quan hệ của họ với Mỹ và Trung Quốc, nhưng rõ ràng trở nên phức tạp và dễ biến động hơn trước.
Một minh chứng rõ ràng cho sự biến động này là quyết định triển khai 2.500 lính thủy đánh bộ Mỹ đến một căn cứ của Australia ở Darwin trên ngưỡng cửa phía Nam của Indonesia.
Một số nước Đông Nam Á, bao gồm cả Indonesia và Malaysia bày tỏ lo ngại rằng sự hiện diện của hải quân có thể châm ngòi cho sự mất lòng tin và làm suy yếu an ninh khu vực. Bộ trưởng Ngoại giao Singapore K. Shanmugam cũng phải lên tiếng rằng, các nước ASEAN không muốn “bị kẹt giữa những lợi ích cạnh tranh” của các cường quốc lớn.
Giải pháp lý tưởng
Trước những bất lợi trên, giới phân tích cho rằng, Mỹ cần tính toán lại chiến lược trở lại châu Á của mình và có thể thay đổi cách tiếp cận với khu vực này.
Theo
National Interest, việc Mỹ cần làm trước tiên là mở các diễn đàn lớn trong nước cũng như quốc tế nhằm tìm ra giải pháp giúp Nhà Trắng có thể đảm bảo với các đồng minh trong khu vực cũng như Trung Quốc rằng, cách tiếp cận châu Á của Washington không gây thiệt hại cho bất cứ quốc gia nào.
Ngoài ra, có một điều mà Nhà Trắng cần nhận thức rõ rằng, vị trí độc tôn của nước Mỹ không còn được giữ vững trong tình hình mới. Ngày nay là kỷ nguyên đa cực, bộ mặt thế giới đã thay đổi với sự trỗi dậy của châu Á, với vai trò ngày càng lớn của các quốc gia, trong đó có Trung Quốc.
Vì vậy, Washington cần theo đuổi chiến lược lâu dài để dần hướng khu vực này vào một môi trường an ninh đa cực hơn, thay vì cứ phụ thuộc hoàn toàn vào sức mạnh hải quân Mỹ cũng như một hệ thống đồng minh song phương vốn không còn phù hợp với thực tiễn khu vực và thế giới.
Về phần mình, Bắc Kinh cũng nên kìm chế hành động của quân đội nước mình tại Tây Thái Bình Dương và “giữ mồm giữ miệng” một số chuyên gia mang tư tưởng cực đoan, đồng thời thừa nhận, bằng cả lời nói và hành động, rằng Mỹ không cố tình dàn xếp tình hình để các nước trong khu vực ngày càng quan ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc tại châu Á.
Hơn nữa, Bắc Kinh cần tham gia các cuộc trao đổi trực tiếp với Washington cũng như một số cường quốc châu Á khác để làm rõ về vai trò của Trung Quốc trong môi trường an ninh khu vực trong tương lai và thẳng thắn bày tỏ mối quan ngại cũng như dự định của mình trong dài hạn.
Nhìn chung, cả hai siêu cường nên nhận thức rõ rằng, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang khủng hoảng và chính trường quốc tế đầy rẫy những vấn đề phức tạp thì sự đối đầu vào thời điểm này thực sự bất lợi.
Thiếu sự hợp tác, tương trợ lẫn nhau, Mỹ và Trung Quốc không chỉ khó giải quyết cuộc khủng hoảng ngay trong bản thân mỗi nước này mà còn không thể giúp gì được thế giới dù vai trò của họ là rất lớn.
Vì thế, giải pháp hữu hiệu nhất đối với Washington là điều chỉnh chính sách can dự châu Á của mình theo hướng ôn hòa hơn và hạn chế đối đầu với Bắc Kinh.
Theo Báo Đất Việt