10/12
Ngành năng lượng ngày càng phụ thuộc vào nhập khẩu, nhiều dự án nguồn điện lớn chậm hoặc dừng, nên khả năng thiếu điện tới 2050 là hiện hữu.
Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa hoàn thành báo cáo giám sát chuyên đề về phát triển năng lượng 2016-2021.
Theo báo cáo này, sản lượng điện sản xuất hàng năm tăng, năm sau cao hơn năm trước và hệ thống điện vận hành an toàn, ổn định. Chẳng hạn, năm 2020, tổng sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu đạt 247 tỷ kWh, tăng 1,5 lần so với năm 2015 (163,8 tỷ kWh). Điện thương phẩm tiêu thụ cũng tăng 1,5 lần so với 2015, đạt gần 217 tỷ kWh. Với mức này, sản lượng điện thương phẩm b́nh quân đầu người tăng 1,42 lần trong 5 năm.
Tuy nhiên, đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ ra nhiều tồn tại trong phát triển năng lượng khiến mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia đối mặt nhiều thách thức. Nguồn cung trong nước không đủ đáp ứng yêu cầu dẫn đến phải nhập khẩu năng lượng ngày càng lớn. Tài nguyên năng lượng sơ cấp Việt Nam ngày càng cạn kiệt khi thủy điện cơ bản đă khai thác hết; sản lượng dầu và khí ở một số mỏ lớn suy giảm nhanh.
Cung và cầu năng lượng trong nước mất cân đối, nguồn phát điện giữa các vùng và một số dự án nguồn điện chậm vận hành (Na Dương II, Quỳnh Lập I, Cẩm Phả III; chuỗi dự án khí - điện Cá Voi Xanh, LNG Thị Vải, LNG Sơn Mỹ) hoặc dừng triển khai. Những tồn tại này dẫn tới t́nh trạng thiếu điện ở miền Bắc trong tháng 5 và 6/2023. Tính toán của Ngân hàng Thế giới (WB) tại báo cáo công bố hồi tháng 8, Việt Nam thiệt hại khoảng 1,4 tỷ USD do thiếu điện, tương đương khoảng 0,3% GDP.
Nguy cơ thiếu điện, theo đoàn giám sát, c̣n có thể kéo dài trong ngắn - trung và dài hạn tới 2050. Trong khi đó, theo các chuyên gia, miền Bắc có nguy cơ tiếp tục thiếu điện khi hai năm tới chưa có nguồn mới nào được bổ sung, vận hành.
Nguy cơ thiếu điện tái diễn, nhất là vào 2024-2025 cũng được EVN nêu trong một báo cáo gửi Bộ Công Thương gần đây. Tập đoàn này dự báo năm 2024 "cơ bản đủ điện", nhưng năm 2025 miền Bắc có thể thiếu trên 3.630 MW và sản lượng khoảng 6,8 tỷ kWh trong cao điểm mùa khô (tháng 5-7) do các nguồn điện mới vào vận hành rất ít, chủ yếu rơi vào thời điểm cuối năm. Ngoài đẩy nhanh các dự án nguồn, lưới điện để đưa điện ra Bắc, EVN đề xuất đẩy nhanh mua điện từ Lào.
Công nhân Điện lực Hà Nội sửa chữa sự cố trong thời gian miền Bắc thiếu điện, tháng 6/2023. Ảnh: EVNHANOI
Công nhân Điện lực Hà Nội sửa chữa sự cố trong thời gian miền Bắc thiếu điện, tháng 6/2023. Ảnh: EVNHANOI
Đoàn giám sát cũng chỉ ra chính sách giá điện c̣n nhiều bất hợp lư về cơ cấu phát điện, chưa bảo đảm minh bạch. Các tín hiệu thị trường ở khâu phát điện chưa được phản ánh đầy đủ ở giá điện áp dụng cho hộ tiêu dùng cuối cùng. Giá điện được điều chỉnh, nhưng chưa bù đắp được chi phí đầu vào và đảm bảo lợi nhuận hợp lư của doanh nghiệp.
Cơ cấu biểu giá bán lẻ thực hiện theo Luật Điện lực chưa phù hợp với thực tế tiêu thụ điện của các nhóm khách hàng, cũng chưa có lộ tŕnh cụ thể để áp dụng giá điện hai thành phần.
"Giá điện sinh hoạt của người dân chi trả c̣n cao hơn mức giá của nhóm khách hàng là hộ sản xuất, kinh doanh, tức là vẫn tồn tại bù chéo. Việc này chưa phù hợp mục tiêu khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đối với các ngành, lĩnh vực sản xuất thâm dụng điện", báo cáo nêu.
Với lĩnh vực truyền tải điện, giá dịch vụ này quá thấp, 79,09 đồng một kWh (chưa gồm thuế VAT), không thu hút được nhà đầu tư làm dự án lưới điện.
Góp ư vào báo cáo giám sát này tại phiên thảo luận ngày 12/10, Tổng thư kư Quốc hội Bùi Văn Cường cho rằng, giá điện ở Việt Nam hiện thấp hơn trung b́nh của thế giới, khi đứng thứ 47 trong 147 quốc gia và so với khu vực th́ thấp hơn giá tại Singapore, Thái Lan, Phillipines.
Ông nhận xét, việc duy tŕ giá điện thấp có mặt tốt, nhưng ngược lại một số doanh nghiệp lợi dụng chính sách giá rẻ trong sản xuất nhôm, thép, chậm đổi mới công nghệ sản xuất. Như vậy là sẽ trợ giá cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp FDI.
"Nếu t́nh trạng bù giá, trợ giá như thế này th́ khả năng nợ xấu và phá sản của EVN là hiện hữu, nên cần sớm có cơ chế mới với giá điện. Chúng ta cứ bù giá, trợ giá măi th́ các doanh nghiệp FDI sẽ được hưởng lợi, chúng ta phải cân nhắc kỹ", ông nêu quan điểm.
Với vai tṛ cơ quan giám sát, ông Lê Quang Huy, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường, Phó trưởng đoàn giám sát, cũng cho rằng, giá điện là vướng mắc lớn nhất trong đảm bảo an ninh năng lượng, cung cấp điện. Chủ trương về giá hai thành phần chậm triển khai và c̣n bù chéo giữa điện sinh hoạt, sản xuất.
"Giá điện, tần suất điều chỉnh, căn cứ để tính toán giá, nhất là thông số đầu vào có phản ánh kịp thời chưa, đă được điều chỉnh kịp thời chưa? V́ sẽ không thu hút được đầu tư, không khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả", ông Huy nói. Đoàn giám sát đề nghị Chính phủ có cơ chế tài chính trong lĩnh vực điện và đẩy nhanh thực hiện lộ tŕnh thị trường điện cạnh tranh để xử lư những tồn tại trong chính sách giá điện.
Thừa nhận cơ chế giá điện là vấn đề tranh căi lâu nay, Phó thủ tướng Trần Hồng Hà khi giải tŕnh, thông tin Thủ tướng đă chủ tŕ cuộc họp về vấn đề này. Theo đó, trong thời gian chờ sửa Luật Điện lực, có thể cho phép, ban hành cơ chế mua bán điện trực tiếp và tính thêm một số chi phí vận hành, điều tiết, phân phối... vào công thức tính giá điện. Việc này nhằm mục tiêu đưa giá điện sát thị trường hơn.
"Chắc chắn phải giải quyết vấn đề chồng chéo, chuyển giá điện sang thị trường. Cơ quan nhà nước sẽ phải tính toán, kinh doanh là kinh doanh, c̣n nhà nước phải quản lư khâu điều phối", ông Hà nói, và thêm rằng trách nhiệm này thuộc về Bộ Công Thương khi phải ban hành 1 nghị định và 3 thông tư cho việc này từ nay tới cuối năm.
Cũng theo báo cáo giám sát, quy hoạch các phân ngành năng lượng triển khai c̣n hạn chế, nhất là trong thực hiện Quy hoạch điện VII, và VII điều chỉnh với phát triển điện mặt trời, điện gió và thủy điện nhỏ.
Việc đầu tư nguồn điện và lưới điện giai đoạn 2016-2021 chưa đồng bộ, bất cập. Năng lực đấu lưới và truyền tải điện chưa đáp ứng nhu cầu phát triển các năng lượng tái tạo ở khu vực miền Trung. Nguồn phát điện ở miền Bắc c̣n thiếu và chưa xây dựng được hệ thống kết nối năng lượng với khu vực ASEAN một cách ổn định và hiệu quả.
Ngoài ra, hạ tầng và hệ thống nhập khẩu, trung chuyển than quy mô lớn, các dự án kho cảng nhập khẩu khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) chậm triển khai, hệ thống kho cảng xăng dầu đầu tư c̣n dàn trải, hiệu quả sử dụng thấp. Việc kết nối giữa các cơ sở sản xuất điện và bán điện, cơ chế điều phối, mua điện c̣n gặp nhiều khó khăn.
Nhiều kiến nghị về giải pháp được đoàn giám sát đưa ra, một trong số đó là đề xuất cơ chế đặc thù để thực hiện các dự án nguồn, lưới điện; hoàn thiện chính sách phát triển năng lượng thông qua sửa Luật Điện lực
Theo Đoàn giám sát, năm 2023 cần ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII, Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia, danh mục các dự án phát triển năng lượng quan trọng quốc gia, cấp bách trong giai đoạn 2023-2030. Bởi, đây là căn cứ triển khai các dự án.
Cùng với đó, đoàn giám sát đề nghị đẩy nhanh đầu tư hệ thống kho dự trữ quốc gia về dầu thô và sản phẩm xăng dầu, hạ tầng kho, cảng nhập khẩu khí hóa lỏng (LNG); hệ thống kho, cảng trung chuyển và dự trữ than.
Đoàn Giám sát c̣n kiến nghị trong năm 2023 tŕnh Quốc hội thông qua Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm 2045, làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển hợp lư điện gió trên bờ, điện gió ngoài khơi.
|
|