Sau khi xây dựng phi pháp nhiều hạ tầng trên Biển Đông, Trung Quốc vừa công bố triển khai mạng lưới UAV tại vùng biển này. Trung Quốc đang từng bước thực hiện âm mưu h́nh thành một mạng lưới kiểm soát đa tầng nhằm độc chiếm Biển Đông.
Mới đây, tờ South China Morning Post dẫn thông báo từ Cục Nam Hải thuộc Bộ Tài nguyên Trung Quốc cho biết đă triển khai mạng lưới thiết bị bay không người lái (UAV) ở Biển Đông để theo dơi, giám sát những thực thể và vùng biển xa bờ.
Theo thông báo trên, mạng lưới giám sát UAV gồm các thiết bị được tích hợp camera độ phân giải cao, có phạm vi quan sát rộng, truyền h́nh ảnh theo thời gian thực để chuyển về các cơ sở mặt đất và cho chất lượng h́nh ảnh như thực. Các UAV thu thập h́nh ảnh hoặc quay phim trực tiếp và truyền về bộ phận thu phát tín hiệu trên mặt đất.
Từ đây, dữ liệu tiếp tục được đăng tải lên mạng lưới vệ tinh viễn thông, giúp kỹ thuật viên ngồi ở trung tâm điều khiển tại tỉnh Quảng Đông có thể theo dơi diễn biến trực tiếp từ những ḥn đảo, vùng biển cách xa hàng ngàn ki lô mét. Theo tờ South China Morning Post, những phương tiện thu phát tín hiệu có thể di chuyển linh hoạt trên đảo hoặc cũng có thể được đặt trên tàu thuyền, do đó phạm vi hoạt động của mạng lưới giám sát này được cho là rất rộng.
Ngày 13.9, nhận xét với Thanh Niên về diễn biến trên, PGS Stephen Robert Nagy (thuộc Đại học Cơ Đốc giáo quốc tế - Nhật Bản, học giả tại Quỹ châu Á - Thái B́nh Dương ở Canada) cho rằng: “Thực tế đang cho thấy Bắc Kinh ngày càng tinh vi bằng cách thực hiện những biện pháp kiểm soát thực tế mà không triển khai phương tiện quân sự. Ví dụ mới nhất của chiến lược này chính là việc triển khai mạng lưới UAV để giám sát hàng hải lẫn các thực thể tại Biển Đông”.
Cụ thể, mạng lưới UAV mà Bắc Kinh vừa tuyên bố triển khai được thực hiện bởi Cục Nam Hải thuộc Bộ Tài nguyên Trung Quốc, nhằm “núp bóng” dưới vỏ bọc dân sự - một chiêu tṛ mà Trung Quốc từng nhiều lần thực hiện. Điển h́nh như cuối năm 2016 th́ Bắc Kinh mở đường bay dân sự đến đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam nhưng đang bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp; hay tháng 7.2018, Cục Hải dương và Ngư nghiệp Hải Nam ngang nhiên kêu gọi “mọi tổ chức hay cá nhân” đăng kư tham gia “phát triển du lịch và xây dựng” những đảo không người ở tại các khu vực mà nước này chiếm đóng phi pháp trên Biển Đông... Tất cả được giới chuyên gia quốc tế nhận định là chiêu tṛ núp bóng biện pháp “dân sự” để kiểm soát Biển Đông, dù thực tế c̣n là để phục vụ mục tiêu quân sự. Ví dụ, kêu gọi đầu tư xây dựng trên những thực thể không người ở ẩn chứa tiền đề phát triển hạ tầng quân sự.
Mở rộng kiểm soát thực tế
Với việc Bắc Kinh triển khai mạng lưới UAV ở Biển Đông, PGS Nagy đánh giá việc “núp bóng” dân sự giúp Trung Quốc chối bỏ rằng đó không phải là hành vi đối đầu quân sự. “Tuy nhiên thực tế th́ dựa vào những hạ tầng và phương tiện này, Trung Quốc mở rộng kiểm soát Biển Đông”, ông Nagy nhận định và chỉ ra: “UAV có thể giúp Bắc Kinh mở rộng hoạt động sang nhiều khu vực ở Biển Đông để có được các thông tin về địa h́nh trong ḷng biển, độ sâu, ḍng chảy...”. Đây là những cơ sở quan trọng để Bắc Kinh triển khai các phương tiện, thiết bị dưới mặt nước để kiểm soát khu vực. Qua đó, Trung Quốc có thể nhận diện và cản trở phương tiện của các quốc gia khác hoạt động trong vùng biển. Đơn giản hơn th́ đây là cách để Trung Quốc t́m cách kiểm soát tàu ngầm, tàu lặn và cả tàu nổi cũng như thiết bị không người lái của những nước khác triển khai trong khu vực. Mục tiêu ở đây c̣n có thể nhằm vào các hoạt động thực thi tự do hàng hải (FONOP) mà Mỹ hay Nhật Bản, Anh, Pháp, Úc... tiến hành gần đây.
T́m cách kiểm soát 24/7
Cùng ngày 13.9, trả lời Thanh Niên, TS Koh Swee Lean Collin (chuyên gia về quốc pḥng tại Trường Nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam, Singapore) nhận xét: “Các UAV là một phần của mạng lưới t́nh báo thu thập thông tin, giám sát và do thám (ISR) của Trung Quốc trên Biển Đông. Mạng lưới ISR không chỉ dựa vào nền tảng của một vài loại cảm biến đơn thuần vốn có thể bị cản trở, ví dụ như vệ tinh bị mây che phủ. V́ thế, UAV giúp lấp đầy những khoảng trống nhất định. Hơn nữa, thực hiện các nghiệp vụ ISR bằng UAV th́ chi phí rẻ hơn là triển khai máy bay có người lái. Nên với UAV, Bắc Kinh có thể tiến hành thu thập thông tin, giám sát và do thám ở quy mô lớn với chi phí thấp”.
Tuy nhiên, theo TS Collin th́: “Do hạn chế về trọng lượng và thời gian hoạt động, UAV vẫn bị những giới hạn về phạm vi cũng như số lượng cảm biến và thiết bị mang theo, nên chắc chắn Bắc Kinh vẫn phải triển khai thêm máy bay có người lái, thậm chí chiến đấu cơ hay máy bay trinh sát, để hoạt động bên cạnh UAV”.
Ông Collin cho rằng với các hạ tầng và phương tiện đă có trong suốt quá tŕnh quân sự hóa Biển Đông mà Trung Quốc vẫn đang theo đuổi, Bắc Kinh hiện đă có thể tuyên bố Vùng nhận diện pḥng không (ADIZ) tại đây.
Nhưng đó là ở tầm cao. C̣n mạng lưới UAV vừa được thiết lập th́ có thể ở tầng thấp hơn. Như vậy, Trung Quốc đang dần h́nh thành mạng lưới kiểm soát đa tầng.
TS Collin nhấn mạnh: “Có thể kết luận, UAV giúp Bắc Kinh tổ chức thu thập thông tin, giám sát và do thám 24/7 Biển Đông trong mọi thời tiết”.
Trước các hành động trên của Trung Quốc, PGS Nagy cho rằng cộng đồng quốc tế cần có trách nhiệm tăng cường các hoạt động hàng hải đa phương và thường xuyên hơn để gửi thông điệp: Việc Bắc Kinh sử dụng công nghệ núp dân sự hay phương tiện quân sự ḥng độc chiếm Biển Đông đều không được thế giới chấp nhận.