Đơn vị đang xôn xao vì thiếu gạo, nội bộ rã rời, và thêm vào những hiện trạng đó là những trận bom liên tiếp, bom của “còng cọc” dội (tức Skyraiaer) và B52 tiếp thêm.
Có một cái hiện tượng kỳ lạ, là hễ đơn vi dời tới đâu, thì ăn bom tới đó, mặc dù là hành quân ban đêm để tránh mọi sự dò xét của máy bay do thám, nhưng hễ đóng quân xong, hôm trước thì hôm sau lại bị bom.
Mạnh và Tuất đang cho họp chi bộ tìm nguyên nhân. Chi bộ họp bên cạnh chỗ ngủ của tôi, nên tôi nằm lắng tai nghe hết ráo.
Chẳng có gì lạ. Họ nghi ngờ trong nội bộ của đơn vị có gián điệp, nhưng nghi ngờ ai thì họ không dám quả quyết.
Có vài người bất bình về việc ban chỉ huy cho lũ chúng tôi gia nhập vào đơn vị họ. Tuy họ không nói rõ ra, nhưng tôi cũng đoán được rằng họ không tin tưởng chúng tôi, mặc dù lũ chúng tôi đều là những thằng kháng chiến hai mùa và đều có nhiều thành tích hoặc địa vị hơn họ.
Khi chi bộ họp xong thì tôi đi tìm ngay Hoàng Việt và Năm Cà Dom, lôi cả hai ra xa hỏi ngay:
– Các vị có nghe bộ đội nó bàn tán cái gì về chúng ta không ?
– Sao lại không ? Năm Cà Dom nói ngay. Họ nghi ngờ mình chứ gì ? Mẹ đồ ngốc tử, chúng nó bị bom trên miên trước khi mình đến đây mà ! Vậy mà nghi cái nổi gì ?
Tôi nói :
– Theo tôi thì không nên đi chung với họ nữa. Nên tách ra đi thôi.
Hoàng Việt can ngay :
– Không được đâu ! Bây giờ mà tách ra thì họ càng nghi tợn đó nghe.
– Vậy thì làm sao ? Đi thì không nỡ, ở không xong.
– Thôi thì cứ nhắm mắt đưa chân cho xuôi chuyện rồi lừa dịp nào thuận tiện, mình sẽ tách ra.
Cây nhiệt đới thực chất là một loại thiết bị do thám chủ động, sau khi được thả xuống các khu vực nghi vấn trên đường Trường Sơn, các hệ thống này sẽ hoạt động và phát tín hiệu về căn cứ chỉ huy.
Hừng sáng hôm đó, tôi giật mình thức dậy, nghe mơ màng tiếng trực thăng phành phạch xa xa.
Tôi không chú ý vì chưa rõ trực thăng lợi hại như thế nào. Mấy hôm rày không lúc nào vắng tiếng máy bay, tình hình không yên ổn nữa. Không có ngày giờ để xả hơi nữa.
Về sáng, tâm hồn cũng trong sáng như cái thời khắc trước buổi bình minh. Lâu quá tôi mới được những giây phút như thế.
Tôi muốn suy nghĩ, ôn lại một số việc gần đây hoặc nghĩ về tương lai một tí, nhưng tôi thấy mệt mỏi quá, tâm hồn rã rời thể xác nhũn nát, một sự lười biếng trở thành cố tật trong tôi.
Tôi muốn gọi Hoàng Việt dậy để nấu trà uống chơi vào buổi bình minh cho đúng mốt “bình minh nhất ẩm trà, bán dạ tam bội tửu ” nhưng có lẽ anh chàng nhạc sĩ còm này không còn trà hoặc không giữ được cái thói quen tết đó lúc còn ở thị thành.
Tôi nhớ lại cái dốc vừa qua mà ngán ngẩm. Cặp đầu gối có lẽ hãy còn chưa thích hợp cho một cuộc lội bộ ngay bây giờ, vậy mà chốc nữa đây, một cuộc hành quân sẽ diễn ra như đã định trước.
Bỗng… đùng… út út… út… !
Tôi nghe chiếc võng của tôi đung đưa thật mạnh rồi thì ầm đùng liên tục tôi không còn biết là việc gì đã xảy ra nữa ! Đó là một sự việc không lạ lùng gì cho lắm :
Một trận bom do B52 dội. B52, vừa rồi ở trong cái khe suối tị nạn, tôi đã ngửi thấy mùi nó từ xa xa, thế mà cũng đã rêm mình mẩy lắm rồi, huống chi bây giờ cái “mâm cỗ” ấy lại dọn ra mời ngay tôi.
Nói tóm lại là B52 rải bom đúng khu vực đóng quân của tôi.
Có những kẻ không biết mất trí hay cố ý nói liều, bảo rằng :
- B52 rải bom không ăn thua gì cả.
Thiệt là một nhận xét ngu xuẩn. Không bao giờ B52 rải bom mà không gây thiệt hại về vật chất và về tinh thần.
Có thể trong một sự may mắn nào đó một trận B52 đã không gây ra thương vong, nhưng các bạn ơi, đó là trường hợp hiếm có hoặc không có.
Nếu không có máu chảy ra bên ngoài, thì cũng không sao tránh khỏi máu chảy bên trong, có những người bị chấn động không thấy vết thương mà mềm nhũn ra như quả chuối chín dập, có những người loạn thần kinh.
Cứ xét qua tôi thì thấy rằng cái tác động to lớn nhất của B52 là tác động trong tinh thần.
Mất thần ! Thất thần ! Đó là trạng thái tinh thần của những người sống sót sau trận B52.
Tôi không thể tả đầy đủ nổi cái quang cảnh từng rú sau khi tôi ngoi lên được từ một mô đất và ý nghĩ đầu tiên của tôi là “à ra mình còn sống !”
Tôi gọi ầm lên để chứng tỏ một lần nữa, với tôi, rằng tôi hãy còn sống, và để những người quanh tôi biết rằng tôi còn sống.
Hoàng Việt ngoi lên đầu tiên rồi kế đó là Năm Cà Dom và Thu.
Thu chạy ào sang ôm chầm lấy tôi. Nàng thở hổn hển và đôi mắt trợn ngược lên, nàng nói không ra tiếng.
Tôi bảo:
– Nó đi rồi.
– Hả hả ? Cái gì, cái gì ?
– Máy bay chớ cái gì.
Thu lắc đầu chứng tỏ nàng không hiểu chi cả. Nàng nói lảm nhảm không có nghĩa gì cả. Nàng sắp điên lên. Tôi nói:
– Em yên tâm đi, nó đi hết rồi.
– Trời ơi… hơi hơi… Nàng gục đầu vào vai tôi mà thở những hơi thở ngắn đứt đoạn rất gấp.
– Em đừng sợ nữa. Hết bom rồi mà.
– Em chết mất anh ạ. Bom gì ghê thế.
– Ừ thì B52 mà.
– Như trời sập vậy. Ối chao ôi !
Tiếng kêu la của những người bị thương bắt đầu vang lên đó đây .
Lúc nãy, rừng bịt bùng không thể nhìn thấy xa mươi thước, cỏn bây giờ thì cả một dãy đất trống trước mắt tôi dài hàng cây số.
Những gốc cây chổng ngược lên trời chen lẫn với những hố bom còn nghi ngút khói, những hố bom như những cái khuôn bánh khọt kế tiếp nhau. Không còn cái gì còn nguyên lành cả.
Mặt đất chi chít hố bom ở tuyến lửa đường Trường Sơn
Từ những đống đất tôi mới thấy những con người lóp chui lên. Không một người nào còn giữ được cái bộ mặt bình thường.
Một người không biết từ đâu quần áo tả tơi như tổ đĩa chạy băng băng qua các hố bom trước sự ngạc nhiên của vài người vừa hồi tỉnh đang ngồi lấy lại sức.
Không ai buồn đuổi theo hoặc ngăn anh chàng kia lại.
Hẳn chạy, quanh các miệng hố bom mà đất bị lửa cháy hãy còn nóng, anh ta bò lên những thân cây vừa đố xuống như con khỉ đột.
Những người còn sống sót đã bắt đầu ngoi lên những đống đất vùi lấp họ, càng lúc càng nhiều và tiếng kêu gào, tiếng rên la cũng vang lên rầm rĩ.
Mạnh Rùa không biết từ đâu mọc lên, gào lên thất thanh chứ không phải là hạ lệnh như một viên chỉ huy phải làm mỗi khi có nguy biến để trấn tĩnh tinh thần đơn vị.
– Ai còn khỏe đứng lên !
Không thấy ai nhúc nhích cả, hắn bèn hét :
– Ai còn khỏe moi đất lên cứu cấp .
Rồi Tuất và mấy cán bộ nữa xuất hiện. Họ đi vạch từng mô đất tìm những cái xác hoặc những người bị vùi.
Góp nhóp những người còn sống sót, và những đồ đạc còn lại, tiểu đoàn của Mạnh Rùa lôi thôi lếch thếch kéo đi chỗ khác để tránh bom (Vì Mỹ thường hay chơi cái trò đánh tùng dấu, đánh xong rồi trở lại đánh ngay chỗ nó vừa đánh) .
Một cuộc đi như thế có thể gọi là một cuộc hành quân hay không ? Một cuộc đi gồm toàn những kẻ mất hồn còn thể xác thì rã rời như cơm nếp mắc mưa.
Tôi cứ nghe e e mãi trong tai. Tiếng nổ tự nãy giờ vẫn còn vang âm rền rền trong không khí.
Nói là đi trốn lánh, nhưng đâu có ai còn sức để mà đi cho xa. Nghĩa là đi ra vừa khỏi bãi bom là có những người rẽ vào rừng mắc võng nằm.
Thực tình mà nói bây giờ nếu đụng lính Sài Gòn thì họ chỉ cần đưa tay ra nắm eo ếch như bắt nhái bỏ vào giỏ chẳng khó khăn gì.
Cái lũ tàn quân của chúng tôi cũng hối hả tìm chỗ nghỉ.
Trở lại bãi B52 trước mặt tôi trên đường Trường Sơn !
Đây cũng lại là một bằng chứng về sự nói láo nhất của họ, bảo rằng :
- B52 không có tác dụng gì cả.
Họ nóí mãi như thế, cho đến nỗi những anh chết hụt về B52 chạy ra khỏi bãi bom rồi, hồn vía lên mây, lơ lơ láo láo như ốc mượn hồn, mà mồm cứ nói lải nhải rằng : :
Tôi, Năm Cà Dỏm, Hoàng Việt và Thu cố đeo sát bộ đội nhưng càng đeo sát bộ đội thì càng thấy không có ích lợi chi cả.
Ngay hôm sau trận xuống cái đốc kinh hồn đó chúng tôi đã xơi một trận kinh hồn gấp nghìn lần rồi.
Vừa lủi vào rừng được một hôm lại bị một trận tiếp theo nữa.
Buổi trưa hôm đó, tôi còn nhớ. Mạnh Rùa cho tập họp đơn vị lại để làm một cuộc Tào Tháo điểm binh.
Tôi nom vẻ mặt cậu nào cậu ấy ngơ ngác như những chú… (không phải nai vàng đạp trên lá vàng khô) mà những chú cừu non bị sói đói vồ hụt.
Dư âm của trận bom hôm qua còn rền vang bên tai tôi, chấn động lòng đất, lồng ngực và không gian.
Tôi cứ nhìn vào khoảng không mà tưởng chừng như không khí đang vỡ ra từng mảng to và không thể gắn liền lại được.
Còn mùi thuốc đạn thì đang truyền đi khắp nơi. Gió và mưa chưa xóa tan nó được.
Có những anh, hai ba hôm sau mới tìm về đơn vị. Có những kẻ không biết bị vùi lấp dưới đất hay chạy lạc đi đường nào.
Mạnh Rùa cố giữ vững tinh thần những người còn may mắn được ngồi ở đây nghe anh ta phun ngải bùa mà chính anh ta là kẻ ngậm bùa ngải trong mồm nhưng lại mất hết tin tưởng ở nó.
Anh ta nó i:
– Anh em ta cố gắng giúp đỡ lẩn nhau. Thiệt hại do địch gây nên cho chúng ta không to mấy, (trong thực tế thì đơn vị chỉ còn non nửa).
Buổi đầu chúng ta không có kinh nghiệm chống B52 (Mô Phật ! B52 mà chống được ư ? Bằng cách nào ?
Tôi nghĩ thầm trong lúc Mạnh nới tới đó.
Chống bằng cách hô các vị lãnh tụ muôn năm như những anh hùng xuất chúng, hay bằng cách gồng mình lên) .
Lần sau chắc chắn chúng ta sẽ không bị thiệt hại nữa .(Vậy ra, theo Mạnh nói thì đây chưa phải là chấm dứt cái sự chịu đựng B52 và Mạnh đã rút được những kinh nghiệm gì ở trận này?)
Mạnh Rùa vừa nói đến đó thì ba chiếc phản lực vèo vèo bayqua dầu chúng tôi với độ cao biểu lộ sự khinh thường sự có mặt của một đám lính "quân đội nhân dân ” Bắc Kỳ trong lõm rừng này.
Như những cái máy, tất cả đều cúi mọp xuống hoặc lao mình nằm xuống đất hoặc nép vào những gốc cây gần đó.
Chiếc phản lực chỉ bay một vòng rồi trở lại trút bom xuống ngay.
Không phải một chiếc mà là ba chiếc. Tôi biết như vậy là vì không phải chỉ có một đợt bom mà ra ba đợt rơi liên tục xuống những nơi khác nhau.
Cả lũ tôi đi theo đơn vị như một lũ người không ra người, ngợm không ra ngợm .
Cứ thỉnh thoảng lại dáo dác nhìn lên trời một đứa quát:
– Ê coi chừng B52 !
– Coi chừng B52 !
Vẫn nghe tới những tiếng đó, mọi người cứ rã ra chạy tuôn bất kể sống chết vào những bụi rậm, nấp vào những gốc cây hoặc những gò mối, chờ cho bom rơi trên lưng mình.
Còn những kẻ mất trí vì trận B52 thật sự thì cứ lâu lâu lại chạy vọt đi không cần ai la hét.
Đồng đội của họ phải đi kiếm lôi về và đưa họ đi vào trong hàng một cách thật khổ ải.
Rồi sau cùng một sáng kiến được thực hiện :
- Người ta giữ họ lại bằng những sợi dây mây bứt ngay bên ven đường, một đầu buộc vào lưng hoặc vào tay họ, còn một đầu do một người tỉnh trí giữ.
Bác sĩ Năm Cà Dỏm thấy tội nghiệp thằng Mạnh Rùa quá nên thôi không giữ cái ý định chửi nó nữa.
Còn Hoàng Việt có lẽ đã nguội lạnh đi cái tình cảm bực tức lúc nãy nhưng lâu lâu lại thốt ra vài câu:
– Thiệt là hết chỗ nói ! Đem những ông bần cố hỉ như thế đi đánh với thằng sừng sỏ nhất thế giới !
Hoặc, mỉa mai hơn :
– Coi chừng chớ còn vài ba vị còn lận cái máy đó trong lưng để dành chơi đấy.
Nhưng sự bi đát nhất vẫn là cái chuyện sau đây :
Số là trong lúc tẩn liệm các xác chết người ta thu thấy trong túi áo và trong ba-lô của hai xác chết những tấm giấy thông hành của quân đội đồng minh !
Đó là vấn đề lập trường !
Cho nên Mạnh Rùa và Tuất phải họp cán bộ để giải quyết vấn đề đó.
Đúng ra là ban đầu Tuất muốn nhẹm luôn chuyện đó đi, nếu để nó lan ra thì làm công tác chánh trị nội bộ (nghĩa là bịp lẫn nhau) sao nổi, nhưng vì đã có người trông thấy chuyện đó rồi.
Cái giấy thông hành màu vàng có nhiều lá cờ và nhiều thứ tiếng in ở một mặt, còn mặt kia thì có in hình một người lính đội mũ sắt trỏ tay chỉ đường cho một người mặc áo bốn túi đầu đội nón nan bao vải.
Họ lục thấy một tấm trong áo người chết, còn một tấm trong ba-lô của một người khác. Như vậy làm sao giấu cho được.
Tuất và Mạnh Rùa bàn cãi vấn đề nghiêm trọng này với các cán bộ rất lâu.
Có người hỏi :
– Như vậy là có nghĩa gì ?
Tuất nói toẹc ra:
– Còn nghĩa gì nữa ? Nghĩa là trong đám anh em mình, có nhiều đứa muốn đánh bài chuồn rồi . Phải chặn đứng lại ngay.
Mạnh hỏi đám cán bộ:
– Các anh có thấy những giấy tờ đó ở đâu không ?
Một cậu đáp:
– Giấy đó thì nhiều lắm. Rải rác khắp trong từng. Đi lâu lâu lại gặp một tấm. Có tấm dính trên cành cây, có tấm nằm dưới đất.
– Nhưng ban chỉ huy đã có lệnh cấm đọc truyền đơn địch mà !
– Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi không thể kiểm soát được vì truyền đơn nhiều quá, nhiều loại quá, có loại in cả thơ lục bát gợi tình cảm nhớ nhà. Có tấm in cả lời kêu gọi của cán bộ mình.
– Nghĩa là sao ? Mạnh gắt hỏi.
Anh cán bộ kia ngập ngừng một giây, rồi nói:
– Tôi có đọc một tờ, thấy truyền đơn của một cán bộ trung đoàn của mình chạy về bên kia và viết lời kêu gọi chúng ta.
Tuất nói :
– Nghĩa là nó chạy qua hàng ngũ địch và quay trở lại kêu gọi chúng ta đi theo chứ sao !
Mạnh Rùa chép miệng, thở dài :
– Thế thì ngoài bom pháo, máy bay phản lực, B52, chúng ta phải đối phó với cái thứ ma quỷ này nữa !
Tuất tiếp:
– Mà thứ này còn nguy hiểm hơn bom pháo và máy bay !
Cuộc họp bàn lung tung một chập rồi trở lại vấn đề truyền đơn bắt gặp trong túi áo và ba lô của những người chết.
Có hai ý kiến của hai phe rõ rệt.
Ý kiến thứ nhất là nên bỏ qua chuyện đó, làm như không có xảy ra vậy. Để tự nhiên người ta sẽ quên đi, dù ai có biết thì họ cũng sẽ coi đó là vấn đề không quan trọng.
Lượm một “tấm giấy” hay hay bỏ túi chơi vô tình quên khuấy đi không vứt nó đi, cho nên chết còn mang nó trong mình. Thế thôi.
Nhưng nó bị ý kiến thứ hai quyết liệt bác bỏ.
Những người có ý kiến thứ hai cho rằng :
- Đây là vấn đề ý thức hệ và lập trường giai cấp.
Tại sao nhặt một tấm giấy thông hành có những lá cờ đồng minh, có hình ảnh như đã kể trên kia, hơn thế nữa, có cả một câu chiêu hàng rõ rệt như thế này :
- “ Cầm tấm giấy thông hành nầy trên tay, đi đến bất cứ đồn bót nào bạn cũng sẽ được tiếp đón tử tế” mà lại bỏ túi được?
Bỏ túi một tấm giấy như vậy vào túi, dù chỉ một phút, cũng không được rồi. Huống nữa là họ đã giữ nó không biết bao nhiêu ngày và trong đầu họ nảy ra những ý nghĩ gì ?
Phe thứ hai này mạnh hơn áp đảo hẳn đối phương và cuối cùng đa số đã quyết định.
Một là khai trừ đảng tịch của cả hai người chết kia (khốn khổ thay cả hai đều là đảng viên) để làm gương “xấu” cho quần chúng. (Đảng viên đi tiên phong cả trong việc “nghiên cứu” truyền đơn của địch ! )
Không biết những người đảng viên đang nằm dưới đất kia có phản đối cái bản án khiếm diện này hay không ?
Quyết định này được mang ra phổ biến cho những người còn sống sót sau những trận bom gây nên bởi sự tò mò của một người.
Riêng tôi, tôi nghĩ khác :
Từ nay họ sẽ nhặt những truyền đơn nhiều hơn và cất giấu kỹ hơn.
Một hôm đang nằm tôi bỗng nghe một mùi thum thủm. Tôi biết là mùi thịt thối, cho nên tôi ngóc đầu nhìn quanh.
Sau cùng, tôi tìm thấy một cái đầu nai, một cái sừng ghim chặt xuống đất, còn cái sừng kia gãy trụi. Cái đầu nai đang bị dòi đục lúc nhúc.
Tôi tiếc ngơ tiếc ngẩn. Một cái đầu nai, biết bao nhiêu là thịt, nếu tôi gặp nó trước một hai hôm thì hay biết mấy. Tôi cứ đứng ngơ ngẩn nhìn mãi.
Hoàng Việt còn đang tức về cái việc bị lục soát ba lô hôm trước. Giữa lúc đó thì Mạnh Rùa lại đến.
Mạnh Rùa tỏ vẻ nhận lỗi với chúng tôi, nhưng không dám nói mạnh dạn.
Anh ta nói:
– Thật ra chúng tôi cũng biết làm như vậy là không hay.
Năm Cà Dom nói thẳng, không ngại ngùng:
– Không ! Làm như vậy là hay lắm chứ. Trắng đen đã rõ rồi.
– Hóa ra lỗi tại chúng tôi.
Năm Cà Dom nói :
– Thực tình, người của các anh, cả các anh nữa ngớ ngẩn quá. Không có một ý niệm rõ rệt gì về Mỹ và những hoạt động của họ trên đường Trường Sơn này cả.
Ai đời lại bỏ một cái máy như vậy trong ba lô làm cho đơn vị bị bốn trận bom liền tan tác như thế !
– Năm Cà Dom tiếp :
Hôm nọ chính tôi phải giải phẫu cho một anh lính vì trông thấy trái “bom bi ” đẹp quá, nghịch chơi mà bị nổ phèo ruột !
Mạnh Rùa cười ngượng ngập :
– Tôi mong các anh thông cảm cho chúng tôi về cái chuyện hôm nọ.
Hoàng Việt vẫn nằm dài phì phèo điếu thuốc, nói mát mẻ :
– Tôi thông cảm hoàn toàn với các đồng chí mà, cũng như đồng chí Hoàng Văn Hoan (ủy viên Bộ Chính trị Trung ương đảng) thông cảm hoàn toàn với các đồng chí trong đội cải cách ruộng đất đuổi bà mẹ của đồng chí ấy ra làm ăn mày lang thang khắp tỉnh Nghệ An, thế thôi !
Cũng như một đồng chí Xô Viết Nghệ Tỉnh ba mươi tuổi đảng thông cảm với đội cải cách ruộng đất đã đưa linh hồn của đồng chí xuống suối vàng…
Thế thôi !
Mạnh Rùa nói :
– Không phải vậy đâu đồng chí .
– Đúng là không phải như vậy nhưng cũng gần như vậy !
Mạnh Rùa chống đỡ yếu ớt :
– Đồng chí nói sao tôi đành chịu vậy chớ biết sao bây giờ !
Mạnh Rùa ngồi lặng thinh trông tội nghiệp hết sức. Năm Cà Dom nói :
– Thôi chuyện đó bỏ qua đi. Bây giờ tôi hỏi thật, có cho bọn tôi đi theo nữa không ?
Mạnh Rùa như kẻ chết đuối vớ được cọc.
Hắn đáp ngay:
– Đi thì đi chớ. Văn nghệ sĩ mà, chúng tôi quí lắm chớ.
– Được rồi, nhưng nhớ đừng có xét ba-lô chúng tôi nữa nhé !
Mạnh Rùa ngượng ngùng. Một chốc Mạnh Rùa nói:
– Bây giờ chúng tôi nhờ các đồng chí một việc.
– Việc gi đó?
– Không nói dấu gì đồng chi . Chúng tôi đang có một bệnh nhân kỳ cục quá, chúng tôi không rõ hắn ta bệnh gì.
– Anh ta ở đâu hiện giờ?
– Đằng kia, chúng tôi đang trói hắn vào gốc cây.
Năm buột miệng nói ngay:
– Hay là thằng Roánh lại tái diễn cái màn cũ của nó ?
– Không phải đâu, anh này bệnh thiệt.
– Bệnh gì mà phải trói vô gốc cây ? Đâu đưa tôi tới đó xem !
Nói vậy rồi Năm Cà Dom đi theo Mạnh Rùa. Tôi cũng đi.
Quả thật, một người đang bị trói úp ngực vào gốc cây. Thấy chúng tôi đến, hắn cười rũ rượi ra và nói:
– Há há… ta là con của Trời cháu của Phật. Há há…
Hắn cười to lên, lấy hơi bụng lên mà cười không dứt. Tôi nói ngay:
– Sốt ác tính Năm Cà Dom ạ!
– Có thể.
Nói thế rồi Năm Cà Dom bước lại sau lưng hắn đưa tay sờ trán hắn, vầng trán đẫm mồ hôi vì lúc nào hắn ta cũng cựa quậy dãy dụa mong thoát khỏi sự trói buộc.
Năm Cà Dom trở lại chỗ cũ rồi lắc đầu. Mạnh hỏi :
– Sao đồng chí. Nó có nóng lắm không ?
– Không. Năm Cà Dom lắc đầu. Anh này có thể không phải bị sốt ác tính.
Rồi Năm Cà Dom hỏi :
– Hắn đau từ lúc nào ?
– Tôi cũng không rõ đích xác giờ đau của hắn, nhưng khi nghe báo cáo, tôi đến nơi thì thấy hắn ta bị trói như thế này rồi. Tôi được nghe anh em kể lại thì đêm qua lúc ai nấy đang ngủ, hắn ta cũng ngủ, bất thình lình, hắn tung màn ra nhảy xuống đất và kêu lên những tiếng thất thanh, rồi cứ như một thằng mất trí, hắn tuôn rừng lướt bụi chạy mãi, vấp té, lại ngồi dậy, lại chạy.
Anh em đuổi theo bắt, nhưng không tài nào giữ hắn lại được. Mãi cho đến lúc trưa này, họ mới bắt hắn về trói lại và đi báo cáo cho tôi.
Bỗng bệnh nhân cười lên và nói như hát.
– Út út út ! Rầm rầm rầm!
Tôi nhớ lúc sau trận máy bay B52 oanh tạc, đơn vị phải gấp rút di quân, tôi thấy có một người bị đồng đội dắt đi bằng một sợi dây mây. Và một người khác chạy bạt mạng qua những hố bom còn nghi ngút khói.
Tôi rỉ tai Năm Cà Dom, Năm Cà Dom cũng gật đầu đồng ý với tôi. Mạnh Rùa hỏi :
– Bây giờ thế nào đồng chí ?
– Thả hắn ra rồi cho anh em giữ hắn được không ?
– Không được đâu đồng chí ! Ai giữ cho nổi ? Hắn mạnh lắm. Hắn làm náo động cả đơn vị lên !
– Thôi cứ trói hắn như thế !
– Đến chừng nào ?
– Chừng nào tôi bảo mở trói hắn thì hãy mở !
Trên đường trở về, Năm Cà Dom nói :
– Thằng này có cho đi Biên Hòa thì hoặc may có thể trị được.
– Có cách nào chữa cho lành không ? Tôi hỏi :
– Thời gian ! Chỉ có yếu tố thời gian cộng vào đó là tâm lý. Làm thế nào gột sạch sự kinh hãi đột biến trong đầu nó về B52.
– Làm thế nào ?
– Ai biết.
Nằm trên võng suy nghĩ, nhớ lại trận B52 vừa qua mà tôi cứ giật mình từng lúc.
Hôm đó đâu có cảm thấy đầy đủ nỗi hoảng sợ. Ngay sau đó nỗi sợ đến với tôi cũng chưa hoàn toàn, vì đứng giữa cảnh hoang tàn khốc liệt bao quanh mình là những xác chết, mình có cái vui được sống nghĩa là sướng hơn mọi người…chết mà chẳng được toàn thây.
Nhưng về sau, càng nhớ lại càng kinh hoảng, hãi hùng.
Thỉnh thoảng một hình ảnh của trận B52 lại hiện lên trong đầu óc tôi.
Đầu óc tôi lúc đó ví như một cái máy ảnh đã thu nhận hàng trăm bức ảnh trong một lúc vào phim, nhưng dần dần về sau nó mới cho in ra từng đoạn.
Rừng Trường Sơn càng thưa đi thì xương người trên mặt đất càng nhiều, những mẩu xương, những ống xương, những bộ xương, những đống xương.
Để vun bồi “uy tín” (hão) cho một người hoặc một vài người mà trên dãy Trường Sơn này, núi rừng đã phải nhận hằng vạn bộ xương khô hằng vạn nắm mồ không có nấm, không có bia.
Trong không khí Trường Sơn lúc bấy giờ có vô số sự uế tạp :
- Nào mùi thuốc đạn
- Nào mùi thây ma sình thối
- Nào hơi lá mục muôn thuở của rừng hoang, cộng vào đó trời mưa nắng bất thường. Cứ mưa xong lại nắng, đang nắng lại đổ cơn mưa, cho nên bình thương hàn, kiết lỵ rất phổ biến.
Hay có thể nói là gần 70 phần trăm người mắc những chứng bệnh này. Thế là ngoài sốt rét rừng ra, chúng tôi còn có thêm thương hàn và kiết lỵ.
Có người bị một lúc cả hai chứng :
- Thương hàn và kiết ly hoặc kiết lỵ và sốt rét.
Binh tướng nào còn tinh thần chiến dấu. Họa chăng có Gia Cát Lượng tái sinh mới điều khiển nổi đám quân ọc ạch như vậy.
Lại thêm cái nạn biệt kích !
Chắc độc giả còn nhớ cái vụ biệt kích chớp nhoáng vừa mới xảy ra trên kia xảy ra cho hai vợ chồng ở một trạm nọ. Đó là cái anh biệt kích người Thượng.
Còn thêm biệt kích Mỹ nữa. Nói là biệt kích Mỹ nhưng là người Việt. Họ hành động bạo dạn vô cùng.
Thú thật rằng chúng tôi không dám xa cái lều con, thơ thẩn ra bờ suối như trước kia tôi và Thu đã từng làm nữa.
Tôi đã từng nghe một câu chuyện biệt kích đột nhập một đơn vi sau đây :
Lúc đó khoảng 3 giờ chiều.
Anh em trong đơn vị đi lãnh gạo ở một kho cách xa đơn vị tám tiếng đồng hồ lội bộ. Đi từ sáng tới chiều mới vác gạo về tới nơi. Đó là chuyện thường đối với anh em.
Một số anh em yếu sức đi lê thê ở phía sau. Vì gần tới nơi rồi, không sợ gì nữa, cho nên số anh em này cứ đi chậm rãi cho khỏe.
Chẳng ngờ các chàng biệt kích Mỹ nắm chắc các qui luật đi lãnh gạo của các đơn vị. Họ bèn mò theo và bám sát các anh bạn mệt mỏi rơi rớt lại phía sau.
Một toán biệt kích dùng dao găm đâm chết mấy chàng và lập tức vứt xác vào bụi, cởi áo của họ ra mặc vào rồi vác những ruột tượng gạo cứ đi theo đường mòn dẫn tới đơn vị.
Họ trà trộn vào những toán đang còn đi trên đường. Qua câu chuyện của những người kia, những chàng biệt kích hiểu thêm vị trí, bố phòng và sinh hoạt của đơn vị về buổi chiều. Và cuối cùng họ đã đột nhập được vào địa điểm đóng quân của đơn vị này một cách êm ái.
Họ đi tìm văn phòng của Ban chỉ huy. Họ đi lại như những người khác nhờ bộ quần áo và nhờ trời tối, trong rừng không có đèn đóm gì, cho nên không ai nhìn rõ mặt ai. Và sau cùng họ hành động
Họ dùng tiểu liên mà họ giấu trong người, hạ sát gần sạch ban chỉ huy, họ bắn vào những đám đang tụ tập quanh mâm cơm và trở lại phóng hỏa đốt kho gạo.
Cả đơn vị bị tấn công từ trong ruột và quá bất ngờ nên không trở tay kịp.
Xong họ rút vào rừng và chỉ vài phút sau, ba chiếc trực thăng tới xạ kích ác liệt vào đơn vị này . Cả quan lẫn lính chạy hoảng loạn. Không ai bắn trả được một phát.
Rồi sau một chập dọn bãi là một cuộc đổ quân bằng trực thăng…
Vì thế cho nên ở đây lính thường nhắc nhở nhau đề phòng biệt kích :
- ” Coi chừng biệt kích nó lấy mất nồi cơm ! “
Tôi đã từng trông thấy một bộ quần áo da cọp ở vùng này. Đúng là da cọp. Con người mặc quần áo ấy vào có lẽ cũng mang ít nhiều bản chất của chúa sơn lâm.
Bạo dạn, nhanh nhẹn và dũng mãnh. Quả thật, bộ quần áo rằn ri màu da cọp đó làm cho tôi cảm thấy mạng sống mình mong manh thêm nữa, sau những đe dọa chết chóc khác.
Tôi tưởng tượng những toán biệt kích mặc bộ áo quần này đi lẩn trong từng ngày đêm, bước đi mềm như nhung chạy nhanh như gió, và hành động như chớp. Tôi rùng mình.
Một hôm tôi nấu cạn cà mèn cơm, tôi gạt than, đi xuống suối múc nước lên để nấu uống. Khi quay trở lại thì chiếc cà mèn đã biến mất.
Tôi hoảng hốt gọi Năm Cà Dom và Hoàng Việt để hỏi. Cả hai đều đáp là không rõ. Tôi nói :
– Biệt kích nào mà vô đây tài vậy !
– Mất thiệt sao ? Hay là la hoảng ?
– Rõ ràng mà.
– Thì tôi cũng có thấy cái cà mèn treo đó.
Năm Cà Dom ngẫm nghĩ một giây rồi gật gù :
– Thế là ông biệt kích Roánh rồi !
– Nó có đi ngang qua đây sao ?
– Không thấy. Nhưng chắc là nó chớ ai. Chung quanh đây hễ ai mất bất cứ món gì thì cứ lôi thằng Roánh ra mà khảo.
Anh em người ta kể lại với tôi rằng có lần đơn vị đi qua một cái buôn, Mạnh Rùa đổi được con gà, về làm thịt luộc vừa chín quay qua quay lại thì con gà bay mất, chỉ còn lại nồi cháo. Mạnh ức quá bèn cho cả đội trinh sát đi lùng.
Kết quả chỉ tìm được mớ xương gà ở một hốc đá. Biết là thằng Roánh nhưng không có bằng chứng, nên không làm gì được hắn.
Rồi Năm Cà Dom đi tìm ông Thần Roánh.
Năm gặp Roánh tại lều của hắn ta. Hắn ta đang nằm trên võng rên hừ hừ. Năm Cà Dom đập đập võng :
– Roánh ! Roánh !
– Hừ hừ…
– Dậy anh bảo cái này tí !
– Em không có lấy đâu. Em sốt cả ngày nay nằm liệt không cơm cháo chi hết. Các anh mất cái gì cũng nghĩ cho em !
– Thế sao cái cà mèn cơm của người ta mới chín lại bay đi đâu ? Cậu không trả lại, tôi sẽ báo cáo lên đồng chí Mạnh !
Roánh vừa rên vừa đáp:
– Anh báo thì báo chứ em không có lấy thật mà. Anh có thuốc cho em vài viên.
– Cậu trả cà mèn cơm rồi tôi cho thuốc uống.
Vừa nói Năm Cà Dom đưa tay sờ trán cậu bé. Năm giật mình:
– Thằng này sốt kinh quá !
Năm Cà Dom hỏi:
– Cậu không còn thuốc uống à ?
– Hết rồi anh ạ!
– Y tá không cho à ?
– Y tá y tướng gì đâu ! Một miếng thuốc đỏ nó còn không thí cho nữa là thuốc uống. Cả túi thuốc của đại đội bây giờ thành thuốc riêng của hắn. Hắn chỉ đổi chứ không cho.
– Đổi cái gì ?
– Có cái gì đổi cái ấy. Ví dụ như em có cái quai dép dư thì lấy quai dép đó mà đổi lấy vài viên ký-nín…
Em sợ em bị thương hàn quá anh. Thương hàn thì chết.
– Thương hàn ? Tại sao cậu biết ?
– Em nghi nghi như thế.
– Đừng có dại mồm !
– Em biết thằng chả có cả Biomycine, thuốc trị thương hàn hay lắm. Thằng chả có hai lọ bốn mươi viên. Của đơn vị để dành cho anh em mà vừa báo cáo là mất rồi.
Anh biết không? Ở vùng này đồng bào Thượng còn biết danh thuốc Biomycine đó. Một lọ có thể đổi một con heo to. Năm sáu viên được một con nhỏ, hai viên một con gà. Bệnh nặng chỉ cần hai viên là hết tuốt !
Rồi Roánh nói tiếp :
-Em mà bệnh thiệt thì thế nào em sẽ lấy cả hai lọ của hắn ta cho coi. Uống vài viên, còn bao nhiêu thì đem đổi heo.
Năm Cà Dom bật cười :
– Cậu thì lúc nào cũng vậy!
– Anh ghét em anh nói thế. Chứ không phải em muốn ăn cắp làm chi đâu. Em là học sinh lớp mười mà. Em há không biết ăn cắp là tính xấu hay sao ? Nhưng em phải ăn cắp, mặc kệ người ta khinh em.
– Cậu nói vậy nghe sao được ? Năm Cà Dom cười.
Roánh đáp thẳng thắn:
– Tại anh không biết, cho nên anh mới nói thế. Chứ khi anh biết rồi thì sẽ không nói thế.
Anh nên nhớ rằng em không bao giờ đụng tới các bạn đồng đội của em mà luôn luôn em phá ban chỉ huy . Ban chỉ huy toàn ăn sướng.
Thí dụ đi tới gần một cái buôn có thể đổi đồ ăn được thì họ ra lệnh cấm binh sĩ không được rời đơn vị vì “tình hình nghiêm trọng” .
Như vậy là đúng y như rằng họ sẽ lén đi vô đó đổi gà. Em thú thực với anh là có lần họ đi đổi được một con gà về định chè chén với nhau, nhưng luộc con gà vừa chín thì nó bay đi mất !
Roánh nói một cách say mê . Có lẽ câu chuyện làm giảm phần nào cơn sốt của nó. Roánh nói tiếp.:
– Mất miếng mồi quá ngon, nhưng các vị ấy lại không dám kêu lên vì nếu kêu là binh sĩ sẽ hay, sẽ hỏi :
- “ Ban chỉ huy mất cái gì ?”
Nếu họ nói thật mất cái gì, thì binh sĩ sẽ hỏi tiếp :
- “ Cái đó ở đâu mà Ban chỉ huy có ?” Thế thì làm sao mà trả lời cho trôi ? Cho nên các vị ấy hầm hầm cho trinh sát đi lùng.
Hai thằng trinh sát cũng vâng lệnh đi lùng, nhưng gặp em, em ngoắc vào ba đứa cùng xơi phéng con gà luộc vứt xương trong hốc đá rồi hai cậu ta trở về báo cáo là không thấy dấu vết gì cả.
Trời đất ! Mất cả một con gà luộc ở giữa Trường Sơn này anh thử tưởng tượng xem vấn đề to tát biết bao ?
Roánh ngưng một chốc, ho hen rồi lại tiếp.
– Cái thằng thứ hai mà em luôn luôn phá phách là thằng quản lý. Cái thằng quản lý này luôn luôn ăn xén cơm của anh em. Nó vo tròn từng viên một để phát cho anh em, một cách công khai, ai cũng tưởng rằng nó vô tư nhưng sự thực ra nó ăn cắp rất tinh vi .
Năm Cà Dom bị câu chuyện của Roánh cuốn hút vào. Roánh kể tiếp :
– Anh biết không trong đơn vị này ngày nào mà không có những đứa ốm không ăn được cơm, đã xin lãnh gạo để nấu cháo, hoặc những đứa không ăn được cả cơm lẫn cháo.
Đó là chưa kể những đứa đi bệnh xá hoặc những đứa đã chết mẹ nó đi từ ba mươi lăm kiếp rồi, thế nhưng tất cả những thằng không ăn đó lại cứ được quản lý chiếu cố đến chia khẩu phần cho đều đều.
Anh thấy không ? Nó tinh vi quá chớ hả ?
Roánh kể tiếp liên miên:
– Thằng quản lý nào mà không ăn trên đầu cha lính. t Trong lúc mỗi đứa chúng em mỗi tháng chỉ được một nắm cơm to bằng quả trứng thì hắn lại có cả chục nắm.
Đó là em chỉ kể về cái vụ cơm thôi, nó cũng đủ mập rồi.
Năm Cà Dom ngẩn người ra . Roánh kể tiếp :
– Ở trong ba lô của hắn bây giờ có ít ra là một kí lô bột ngọt. Anh không tin để rồi hôm nào em khỏi sốt, em sẽ đánh cắp luôn cái ba lô của nó cho anh xem !
Nhất định em sẽ không tha thằng quản lý mà !
Năm Cà Dom đi tìm cái cà mèn cơm nhưng rốt cuộc không tìm được nó mà lại phát hiện ra một vấn đề quan trọng về tâm lý con người trên Trường Sơn này.
Cho nên Năm Cà Dom về kể lại cho tôi nghe câu chuyện gặp Roánh rất tỉ mỉ. Năm Cà Dom kết luận:
– Toàn những nhân vật có nét cả phải không cậu ? Viết vấn đề này lên thì hay lắm.
– Làm sao viết được ? Tôi cười.
– Cậu không thể viết nổi những nhân vật đã quá rõ nét như thế à !
– Không phải là không viết được, nhưng những sự thực như thế không được đưa lên sách báo, mà phải mô tả họ như những “anh hùng tuyệt vời ! ” Cậu hiểu ý tôi nói chưa ?
Năm Cà Dom gật gù, nói:
– Hèn chi các chả chủ trương cái gì cũng ” khơi” ! Cứ nghe đài phát thanh Hà Nội và đọc báo Nhân Dân mà không khơi làm sao được ?
Ví dụ như con đường mình đang đi, cứ ở Hà Nội nghe đài và đọc báo thì cho nó là đệ nhất thơ mộng !
Một hôm vào buổi chiều, tôi và Hoàng Việt đang ngồi bàn chuyện thế giới năm châu, bỗng Năm Cà Dom đi đâu về, mặt mày tái xanh tái mét, vừa nói vừa thở không ra hơi:
– Bắt được biệt kích mày ạ !
– Ở đâu ?
– Ở trên chỗ Mạnh Rùa.
– Cậu có trông thấy không ?
– Nghe tin nó bảo nhau thế.
– Biệt kích người Kinh hay người Thượng ?
– Đâu có rõ . Ai xem làm gì !
Hoàng Việt nói:
– Sao cậu không thẩm vấn nó xem nó có lấy cái cà mèn cơm của ông nhà văn không ?
Rồi chúng tôi quay sang chuyện khác, rồi mạnh ai về võng nấy nằm.
Chập sau, có hai anh chàng đi ngang qua lều tôi. Họ bàn về cái tên biệt kích kia.
Một anh có vẻ tò mò:
– Gớm, sao lại nó khai nó trước đây cũng ở một đơn vị đi vào Nam nhỉ !
– Nó bảo là nó bị sốt rét, đơn vị nó bỏ nó lại và sau khi khỏi bệnh nó không tìm về đơn vị mà cứ sống lang thang trong rừng để tìm đường về Hà Nội.
– Trông hình thù nó gớm chết !
Bỗng tôi thấy có điều gì xảy đến cho Thu. Tôi gọi giật hai anh kia lại, và hỏi thêm vài câu.
Xong tôi chạy bay tới chỗ tên biệt kích đang bị giam giữ.
Tôi phải nhìn kỹ mới nhận ra đó là thằng Hồng. Vì không có ánh lửa, và cái mớ tóc bù xù của nó rũ xuống che kín cả gương mặt của nó đang sưng lên vì bị đòn. Tôi gọi:
– Hồng ! Hồng!
Thằng bé ngước nhìn tôi, chưa nhận ra tôi, nhưng tôi vẫn hỏi ciếp :
– Sao em ra thế này ?
Hồng trả lời gọn khô:
– Em đi tìm chị em. Mà họ bảo em là biệt kích. Họ đánh em. Họ trói em !
Nếu là một thằng bé thường thì đã khóc, nhưng nó không khóc. Trường Sơn đã rèn luyện nó trước một ngược cảnh phải tìm cách giải quyết có lợi cho bản thân mình. Ít ra nó đã học được bài học đó sau khi bị đồng đội bỏ rơi.
Tôi đến ban chỉ huy tìm Mạnh Rùa và nói ngay:
– Thằng bé kia không phải là biệt kích đâu đồng chí ạ.
– Không phải biệt kích chứ là gì ?
– Nó thuộc một đơn vị võ trang đi vào Nam.
– Nhưng bây giờ nó đã là biệt kích.
– Nó sống một mình mà, biệt kích gì ?
– Thế thì nó là phỉ. Thiếu gì tên phỉ nguồn gốc là lính võ trang.
– Nhưng nó là em tôi.
Mạnh Rùa vẫn có lý để bắt bẻ tôi. Anh ta hỏi:
– Hắn nói tiếng Bắc rõ ràng, còn anh là dân Nam Kỳ mà !
Tôi bắt buộc phải nói rõ hơn.
– Nó là em trai của cô bạn mình đấy.
– Thế hả ? Sao nó không giống cô ấy chút nào hết vậy ?
– Bây giờ nó đã trở thành con ngợm rồi còn giống ai nữa !
Sau một hồi phân trần giải thích và năn nỉ, tôi được nhận thằng bé để dắt nó về cho chị nó.
Mạnh Rùa còn nói với nó :
– Sau đây là phải tìm về đơn vị hả ? Đi lang thang thế này ai nhận mày ? Nếu không gặp người quen thì tao bắn và vứt xác mày trong rừng rồi!
Tôi đưa nó đến lều Thu và nói tỉnh khô với cô nàng lúc đó đang nằm đắp chăn trên võng :
– Thằng Hồng đây Thu.
Trong bóng tối Thu ngước lên nhìn. Hồng không nói gì. Tôi có cảm giác là nó đang cắn môi để khỏi bật khóc. Tôi bảo nó :
– Hồng, chị em đó.
Nó cũng đứng trơ trơ, không nói không rằng cũng không làm một cử chỉ gì tỏ ra rằng nó vui mừng trong một cuộc gặp lại chị nó bất ngờ như thế này.
Trong lúc đó thì Thu cứ sờ soạng mãi không tìm thấy chiếc đèn pin trong ba lô.
Tôi không thể đứng im. Tôi nói :
– Hôm nọ thiếu tá Kim có đến gặp anh và chị em. Ông ta chờ em mãi. Anh với chị em cũng chờ em. Chị em cứ đinh ninh rằng em lọt vào trận B52 hôm đó.
Thằng bé đang câm lặng, bỗng lên tiếng :
– Em bị trận B52 đó thật.
– Thế à ?
– Vâng ! Bác sĩ Cường chết. Thiếu tá Kim chết hụt. Em bị đất vùi may mà ngoi lên được.
Thu bỗng lao tới với hai bàn tay như vệt ánh sáng ôm lấy cổ thằng bé lôi nó lại mình và ghì nó vào lòng. Có lẽ giọng nói của cậu bé cùng những sự việc nó vừa kể xác nhận với Thu rằng đó là em trai của Thu :
- Thằng Hồng khốn nạn !
Cái đèn pin của Thu đã hết điện rồi. Tôi cứ vỗ vỗ vào nó, mong kích động được nó để nó mang thêm dòng sinh lực cuối cùng ra phục vụ cho cuộc gặp gỡ ly kỳ này, nhưng nó vẫn cứ như ánh sáng của con đóm đóm với vòng ánh sáng nhợt nhạt in trên mặt đất. Tôi treo dốc ngược nó trên nóc tăng và quờ quạng đi nhóm bếp.
Cái bếp nấu cơm chiều của Thu vừa dập, hãy còn than dưới tro. Cho nên chỉ trong giây phút là tôi đã thành công trong việc khơi ngọn lửa hồng.
Thu quệt nước mắt, và nhìn Hồng rõ nét hơn, điềm tĩnh hơn :
– Sao em thế này ?
– Người ta đánh.
– Sao người ta lại đánh em ? Bỏ rơi em chưa đủ sao bây giờ còn đánh ?
– Người ta bảo em là biệt kích.
– Nguy hiểm quá em ơi !
– Không có tôi đến kịp thì nguy to rồi.
– Tôi nói :
- Giữa rừng này mà trông thấy em như vầy ai tin em là người lương thiện ? Họ định giết em đó.
Một tay Thu nắm chặt cánh tay của Hồng, một tay nàng đưa lên vén mái tóc của cậu ta và nhìn thẳng vào mặt, nàng nghiến răng:
– Lần này thì em đừng có cãi chị nữa. Em không được rời chị nửa bước, nghe chưa ?
Câu chuyện dần dần trở lại bình thường.
– Sao em không đi với thiếu tá Kim ? Sao ông ta không chờ em để cùng về Hà Nội ?
– Em bị đất vùi. Chắc ông không biết em bị đất vùi. Sau khi B52 dứt dội bom, ông chạy bán sống bán chết còn tưởng nhớ tới ai nữa.
Hồng tiếp :
– Em ngoi lên thì không thấy ai hết . Chỉ còn mấy người thương binh nằm rên la om sòm nghe thảm quá. Em muốn đem họ đi mà không biết làm sao. Ghê quá chị ạ !
Hồng ngồi lặng im. Nhìn vẻ mặt của Hồng, tôi thấy nó hơi lơ láo Trước khi nói, cậu ta phải nghĩ ngợi giây lâu.
– Em có ra chỗ cũ của anh và chị Thu không ? Tôi hỏi.
– Không.
– Em không nhớ rằng em hứa với anh và chị Thu rằng em sẽ trở ra à ?
– Ba hôm sau em mới nhớ. Em ra đó thì không còn ai ở bên bờ suối hết cả.
– Rồi em làm sao ?
– Em cũng không biết làm sao. Em cứ đi lang thang như lâu nay. Mãi đến mấy hôm sau em mới lần lượt nhớ lại mọi chuyện.
Em nhớ rằng trong đời em có một người đã nuôi sống em, người đó là bác sĩ Cường.
Tôi hỏi:
– Hồi nãy em nói bác sĩ Cường đã chết, tại sao em biết ?
Hồng nói:
– Em đi tìm mãi mà không thấy. Những người còn sống cũng không trông thấy anh ấy ở đâu .
Hồng ôm đầu khóc hu hu như khóc dối. Tôi nói với Thu:
– Thằng Hồng có cho em cái nanh heo rừng linh lắm. Nếu em đeo trong người thì em có thể biết trước những việc xảy đến cho em. Lấy mà đeo vào cổ đi.
Thu không đáp. Hồng vẫn khóc. Còn tôi không biết nói gì. Chắc Thu lại nghĩ về Hà Nội. Lâu nay tôi ít nói chuyện với Thu, nên không hiểu nàng suy nghĩ thêm những gì.
Quả thật tôi thấy đó là một chuyện hơi kỳ lạ. Nhưng trong tình cảm, cả hai đều không thấy lý thú khi nói chuyện hoặc gợi chuyện với nhau nữa. “Đồng sàng dị mộng ” là tình trạng giữa tôi và Thu.
Từ sau khi thằng Hồng đi biệt, Thu buồn và thất vọng, cái tia hi vọng mong manh cuối cùng của Thu chỉ có thể thực hiện được với thằng bé phiêu lưu kia :
- “ Về lại Hà Nội. “
Tôi nhận thấy Thu lạnh nhạt đối với tôi, một sự lạnh nhạt cố tình làm ra, hay sự lạnh nhạt tự nhiên cũng thế. Nó không gây một sự phản ứng gì trong tôi. Vả chăng nàng cũng không thân mật với ai khác khi đối xử với tôi như vậy.
Đôi mắt nàng đăm đăm nhìn rừng núi, tia mắt như muốn xuyên qua sự dày đặc hắc ám của núi rừng gửi hơi ấm tâm linh về Hà Nội xa xăm.
Tôi bị buồn lây, cho nên mỗi bước đi “vô” là mỗi bước tôi gần lại được quê hương thêm một ít, đáng lẽ tôi phải vui mừng và tỏ nỗi vui mừng đó với những người chung quanh, trong đó nàng là người thân thiết nhất, nhưng tôi đành giấu bặt cái tình cảm đó đi đối với nàng.
Và tôi cũng không dám nói chuyện đó nhiều với hai ông bạn kia nữa. Tôi biết nàng như con tàu đang lao về trước nhưng trái tim nó quay ngược về sau.
Còn một lý do nữa khiến chúng tôi không còn đầm ấm nồng cháy với nhau như trước nữa, mà có lẽ là lý do chính, là sức khỏe.
Tôi biết tôi yếu hơn trước nhiều. Tôi ngồi đâu thì muốn ngồi luôn đó và khi đứng dậy phải chống tay lên gối đứng lên bằng hai “thì” và chậm chạp.
Lúc nào cần đi xuống suối thì phải tính toán thật kỹ, để đi xuống đó giặt giũ, rửa mình, xách nước lên nấu uống v.v… sao cho không phải đi lên đi xuống nhiều lần.
Sức khỏe được tính từng bước đi, từng cử động một.
Còn Thu thì gầy trông thấy, từ sau khi nàng có kinh mà phải ngâm minh dưới suối, nàng có vẻ đau đớn liên miên. Tôi không tiện hỏi, nhưng tôi đoán biết như vậy.
Hôm nay, đùng một cái thằng Hồng xuất hiện. Thực như cơn gió nhẹ giữa trưa hè oi bức.
Hai chị em ngồi nói chuyện với nhau không ngớt. Thu cứ sụt sịt mãi, thằng Hồng gần như không nói gì, chỉ trả lời theo câu hỏi của chị nó. Thu hỏi:
– Sao em biết chị ở đây mà đến ?
– Em đi tìm. Ba hôm sau đầu óc em mới tỉnh ra và em sực nhớ rằng em có hứa vơí chị…
– Hứa gì em nhớ không ?
– Nhớ chớ ! Nếu không nhớ thì sao em đi tìm chị ?
– Em đi như thế này thì làm sao có thức ăn?
– Có chớ. Em không bị đói bao giờ. Hôm nọ em vô đây, em trông thấy cái cà mèn cơm của ai mới vừa chín tới, em không trông thấy ai cả em xách đi luôn.
– Có ngày họ bắt được họ đánh em chết.
– Bắt sao được, em có phép tàng hình mà!
Bỗng Thu nói:
– Bây giờ mà hai chị em mình trở ra Hà Nội, thầy mẹ gặp được thì thầy mẹ mừng biết bao nhiêu. Em nh ỉ?
Hồng gạt ngang :
– Mừng gì. thầy mẹ tưởng em là con vật quái gở.
– Nói nhảm !
– Thật mà. Chị trông thấy em mà chị không gớm ghiếc hay sao ?
Thu hỏi Hồng:
– Bây giờ em về Hà Nội thì em làm việc gì đầu tiên ?
– Việc đầu tiên hỉ ? Em đi ăn kem.
– Rồi kế đó làm gì ?
– Đi coi xi nê.
– Tuồng gì ?
– Tuồng gì cũng được, miễn đừng tuồng Trung Quốc thôi !
Tôi nằm nghe hai chị em trò chuyện với nhau mà thương họ vô cùng.
Bây giờ giá tôi có phép tôi sẽ bất chấp tất cả tôi sẽ đưa họ về ngay Hà Nội. Bây giờ đây họ đã cách xa Hà Nội một ngàn cây số. Tôi nằm tôi tính nhẩm thay cho họ.
Từ Hà Nội vô Vĩnh Linh ở tại đầu cầu Vĩnh Linh là bảy trăm hai mươi tám cây số, từ Vĩnh Linh vô đây đi bộ mất hai tháng trời khoảng đường rừng núi đó nếu căng thẳng ra đâu có dưới ba trăm cây số.
Con đường đó không phải là xa lắm đối với những người có sức khỏe bình thường, nhưng bây giờ đây, hai chị em nàng làm sao đi nổi ?
Đó là chưa tính những trở ngại khác còn quan trọng hơn cả sức khỏe của hai người.
Ý định trở về Hà Nội gần như bị dập tắt sau khi Hồng hẹn đến mà không đến.
Bây giờ với sự có mặt của Hồng, tôi chắc chắn Thu sẽ lại tìm cách để thực hiện ý định đó.
Đường kẹt, không đi được, treo võng nằm, cứ nghĩ vơ nghĩ vẩn. Và nhớ lại những quãng đường qua.
Một buổi trưa tôi đang đi bỗng nghe gọi. Tôi quay lại và sau một thoáng ngớ ngẩn, tôi kêu lên:
– Ơ kìa, Liêm !
– Ai đó, Xuân Vũ ! Cậu cũng về quê à ? Lẫm rẫm mà các cậu cũng khá he !
Tôi đi lên, bắt tay bạn và hai người cùng đi. Tôi hỏi :
– Vẫn ở bộ đội à ?
– Vẫn, nhưng cứ làm “" đại sự ” ở rừng Lào.
– Giờ thì có về “nước” được chưa?
– Chừ. . . ừa ? Còn. . . Tết mới về được ! Nước Nam Kỳ về không được nước Bắc Kỳ cũng không về được. Có nước mà cũng như không !
– Thế sao đi lang thang ở đây ?
– Ồ ! Ở đây là ngã năm ngã bảy mà. Ối thôi ! Nói không xiết đâu ! Lũ mình như thiên lôi, kêu đánh đâu thì đánh đó, mẹ nó !
Liêm ngó quanh quất và rỉ tai :
– Tập kết là một sai lầm ! Cậu có thấy không ?
– Sao lại không. Nhưng cóc thằng nào dám hé môi.
– Tớ thì tớ nói bừa đi chứ. Liêm chép miệng . Chúng mình chỉ đi chung một quãng thôi. Cậu ngồi lại đây, à kìa chúng nó tới rồi, mình sẽ cho cậu một món quà. Cậu đoán xem nào.
Có trời mà biết nổi. Gã tùy tùng của Liêm đến. Liêm bảo hắn :
– Cậu nào giữ mắm ruốc, vít ra một cục gói lại kỹ để tôi tặng ông bạn của tôi đang trên đường về “nước” thay cho tôi đây.
Liêm cầm gói mắm ruốc trao cho tôi và nói:
– Của quý đấy ông bạn. Nay mai rồi cậu sẽ hiểu.
Tôi nhận món quà của bạn, gọn lỏn trong lòng bàn tay mà ứa nước mắt.
Một thằng bạn gần mười năm không gặp mặt, có lẽ đã lên cấp tá rồi thế mà chỉ tặng cho bạn một cục mắm ruốc chưa đầy một lạng.
Liêm nói :
– Thế là mười hai năm chúng mình sống trên Miền Bắc cậu nhỉ ?
– Ừ !
– Ớn quá .
– Ớn thật.
Ớn có nghĩa là thế nào nhỉ ?
Không có thể giải thích nó như người ta tìm nghĩa những chứ khó trong tự điển.
Muốn hiểu chữ đó phải hỏi người Nam sống trên đất Bắc.
Họ sẽ giải thích cho anh bằng những sự kiện, bằng những chuyện lưu truyền trong dân gian, bằng những bức thư và bằng cuộc đời của mỗi người trong đám họ.
– Ở vùng này, người ta đãi khách quí trong bữa cơm với mẩu mắm ruốc bằng ngón tay cái ém chặt trong một cái mẽ chén sành và đặt lên trên đó mấy hòn than. Cậu biết chưa ?
– Chưa !
– Vậy cậu chưa vỡ lòng bài học ở rừng. Chỉ nội chiều hôm nay thôi, là cậu sẽ ở bên kia vĩ tuyến mười bảy. Đêm nay cậu sẽ ngủ ở Miền Nam rồi. Đấy.
Chỉ còn mấy bước nữa thôi mà mình không thể có được cái hạnh phúc của cậu. Ác thiệt !
Liêm lắc đầu. À mà này có ai mách cho cậu mua nữ trang giả không ?
– “Nữ trang giả ” gì ?
– Thế là cậu không biết rồi. Cái thứ mạ kền, mạ vàng nó bày đầy ở bờ Hồ đó. Đem vào đây, qua khỏi giới tuyến mười bảy nó có giá trị của những món đồ thật. Cậu hiểu chưa ?
Tôi lẩm nhẩm rồi nói:
– Thế thì chính mình là món nữ trang ấy đây !
– Riêng cậu thôi. Còn tớ thì vẫn là hàng giả. Mạ kền ? … Liêm bỗng chẩu mồm sang tôi. Mạ kền, mạ vàng. Có thứ nào, có thằng nào thật, tớ hỏi cậu ! Sì . . . Mạ mạ tất ! Luôn cả ông thợ mạ ổng cũng tự mạ rồi. Cậu thấy không ?
Tôi lặng thinh, lòng chua xót. Trong chỉ có mấy phút mà anh bạn nhà lính của tôi đã nói lên một cách tài tình tất cả nỗi lòng của anh, cũng là của tôi, và của hằng vạn người. Tôi hỏi:
– Sao cậu không xin về ?
– Tớ đếch thèm ! Xin à ? Người ta sẽ bảo :
Đảng chưa cần. Bao giờ đảng cần thì đảng sẽ gọi.Thế thì xin làm gì cho mang tiếng xin ?
Đi vào Nam là đi vào máu lửa, đi chết, vô đó đâu phải để ăn giỗ như người ta lầm tưởng, mà mình phải xin ?
Đã không gọi mình thì thôi, việc gì mình phải xin ? Tớ cho cậu biết nhé. Có thằng mang lon trung tá vậy mà khi được gọi, anh chàng trả lời với tổ chức rằng :
- Để anh ta suy nghĩ. Lập tức cái lon đó rơi ngay ! Khà khà !
– Liêm vẫn nói liền mạch- Còn mình, không phải gan góc gì đâu. Bom đạn thì da thịt ai cũng thế thôi.
Nếu ở một nơi nào khác thì mình đã ra lính lâu rồi lo tìm nghề mà mần ăn, gần bốn mươi tuổi đầu, vẫn độc thân.
Cái nghiệp cơm thùng nước chậu gần hai mươi năm nay. Ngấy lắm !
Có mấy người ở phía sau đi tới. Liêm kéo tay tôi dạt qua mé đường và ngưng hẳn câu chuyện. Chờ họ đi khỏi xa, Liêm lại tiếp, với sự hăng hái gia tăng :
– Sở dĩ mình còn nấn ná còn sống cái đời lính là vì mình còn mong có một ngày ơn trên ngó xuống và bảo với mình là “đảng cần anh đi Nam.” Cậu hiểu tớ chứ ? Bọn cùng cấp với tớ đi vô nhiều rồi.
Nhưng còn tớ thích trơ mặt mo ra đó. Tớ nghe tin không chính thức rằng ở ngoài bộ tổng có nghiên cứu lý lịch của tớ và không rõ ai thọc mách màngười ta kết luận rằng tớ có liên quan với vụ ”anh hùng quân đội” Nguyễn Văn Song bỏ sư đoàn 330 trốn về Nam.
Cái thằng vớ vẩn quê ở miền đông mà người ta lại tặng cho danh hiệu ” anh hùng ” số một Nam Bộ đó. Cậu có biết cái vụ đó không nào?
– Có có nhưng mà…
– Ừ, thì hãy cứ biết tới đó. Đấy nó bảo là lúc đó tớ có biết ý định của thằng Song mà tớ đếch thèm báo cáo cho tổ chức.
Hì hì ! Tớ biết thế nào được ? Chỉ có điều là nó sai tớ dẫn đơn vị đi lùng bắt anh chàng về, tớ lùng khắp Thanh Hóa, Nghệ An cả tháng trời mà không gặp. Nó có giỏi sao không đi lùng ?
Liêm rút khăn tay ra lau mồ hôi trên mặt và lại tiếp:
– Còn cái cớ thứ hai là nó bảo tớ có liên quan với một số nhà văn Nam Bộ. Tớ có tư tưởng Nhân Văn Giai Phẩm.
Liêm mấp điếu thuốc còn dài nhưng đã tắt queo :
– Nhưng con người của mình đâu thuộc về mình. Mình không có quyền quyết định một việc gì hết cả, mình như một lũ nhái trong giỏ ông câu . Cứ nhảy lung tung trong giỏ đó coi như được tự do lắm vậy. Chừng nào cá lóc táp thì ông câu thọc tay vào xách giò lôi ra từng chú rồi con thì móc vào đùi đem cắm câu, con thì móc từ họng ra đít đem nhắp cá. Thế thôi.
Liêm ngừng một chốc rồi quay sang tôi:
– Cậu có biết anh em Nam Bộ mình đổ bên xứ Lèo bao nhiêu xương máu không ? Đâu có báo tử báo tiếc gì ?
Ơ ờ. . . Cậu có biết cái thằng cha gì hồi trước trưởng phòng chính trị miền Tây không nhỉ. Cái thằng cha đách chó gì, mình vụt quên khuấy đi. Nó vừa được đưa vào đo.
Vợ nó buôn lậu, thông đồng với tụi Gia Nã Đại và nước ngoài. Chả là chồng mụ ta là chính ủy sân bay mà, nên mụ được chân bán vé tàu bay. Hắn ta vẫn biết mà cố lờ đi.
Hằng nghìn cây Parker, vàng, kim cương cậu à v.v… Cơm gạo tám ăn không hết đổ bừa ra hằng ngày.
Nhưng chưa hết, khi ở trên phát hiện được, bèn cho một tay xuống điều tra. Điều tra riêng tư trong chỗ kín cổng cao tường thế nào không rõ, mà cặp lon rơi mẹ nó vô cái hồ bao của mụ ta.
Thằng chồng mất chức luôn, nhưng mới vừa rồi đây anh ta được đảng “cần” . Đảng cho mang lại cái sự vinh quang lên trán và tống vô Nam cho đỡ cái mặt mo.
Đấy, rồi để rồi cậu xem, nay mai cậu có gặp lại hắn ta, cậu sẽ thấy cái tài của thằng cha thợ mạ và và cái vật đã được qua tay thợ mạ.
Tôi nói:
– Nhưng mà thôi anh ạ. Nói mãi cũng chẳng qua được người ta. Cứ giả đui giả điếc cho người ta phết lên một lớp phấn vàng rồi người ta tống khứ mình về Nam là hay nhất.
-Nhưng mình đâu cần phải mạ. Mình là vàng thật mà. Mạ sao ăn?
– Đôi khi cũng phải ráng mà ăn, phải ăn, phải ngậm, phải nuốt trửng nữa là đằng khác. Tôi dịu giọng.
– Anh biết tôi là thằng hiền như cục đất mà nó không để yên thân. Nhưng nào có phải riêng chúng mình. Tất cả những thằng tập kết, tâm sự không có xe tàu nào mà chở cho hết.
Liêm thở dài:
– Ớn quá cậu à!
– Ừ thì ớn quá đi chứ sao!
– Lắm lúc nhìn quân hàm trên áo tôi, tôi hỏi sao tôi là thằng Nam Bộ mà còn ở đây, còn mang những thứ này ?
– Thì đi với Phật mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy chứ còn sao nữa.
Liêm bỗng ngoặc sang chuyện khác :
– Này, mình cho cậu biết nhé. Cơn đường vào Nam là con đường lót bằng xương và tưới bằng máu, cậu nhé !
Những đốt xương nối lại với nhau sẽ bằng bề dài còn đường này. Không phải như dạo chợ đâu. Những cái thằng ngốc ở các trường đi B dân chánh của các cậu nó chẳng hiểu mẹ gì hết ! Cứ nói ầu ơ cho các cậu phấn khởi ào lên.
Chúng nó chẳng mất gì, mà lại được khen, chúng bịa toàn chuyện hay ho. Vô tới chừng vài trạm thì chỉ có gặp giênh giênh tiếp đón rồi đấy… thôi tạm biệt nhé.
Không ảnh trên một đoạn đường trường sơn
– Bao giờ thì ta lại gặp nhau ?
– Biết bao giờ ? Liêm cười chua chát. Có thể là chẳng bao giờ.
Lại một cuộc chia tay trong lúc vừa gặp mặt. Tôi cứ nắm chặt tay Liêm, không đành buông ra.
– Thôi đi nhé ? Nhắn lời tao thăm tất cả đồng bào và hôn dùm tao một mảnh đất.
Giọng Liêm tắt nghẹn. Liêm quay mặt.
Tôi đứng tần ngần giây lâu, nhìn đôi vai gầy của Liêm. Liêm đứng chống nạnh, ngẩng lên, có lẽ Liêm không muốn nhìn thấy hạnh phúc của kẻ được về quê.
Tôi biết anh chàng đang nuốt nước mắt.
Tôi không nói được, tôi bước đi, vài bước, lại quay lại, mong Liêm quay lại để hai đứa nhìn nhau thêm lần nữa nhưng Liêm vẫn đứng mãi như thế cho đến khi tôi qua khỏi khúc quanh.
Vào những năm đầu, việc vận chuyển hàng chi viện được thực hiện bằng hình thức đi bộ, gùi thồ trên đường Trường Sơn .
– Cây cầu này giống những chiếc cầu khỉ Nam Bộ quá ta !
– Ừ nhỉ, mình đi lâu quá rồi quên cả những nét độc đáo của quê hương.
Những câu nói vui đơn sơ nhưng gợi lại biết bao nhiêu nỗi niềm, cảm xúc.
Cũng sông nước, cũng những nhịp cầu mộc mạc nhưng nó làm cho lòng người lâng lâng như có lẫn ít men rượu.
Vâng đây là Bến Hải, con sông bầm tím xót đau như một vết roi tàn bạo quật ngang lưng Đất Nước eo thắt của miền Trung quằn quại, con sông nhỏ mang niềm thống hận lớn, muôn đời !
Con sông Gianh ở phía sau nó, nhưng ra đời trước nó, cái bóng hình mờ qua hằng mấy thế kỷ và lùi xa hằng trăm dậm giang sơn.
Vâng đây là Bến Hải con sông mà toàn thế giới đều biết đến con sông ranh giới trên địa dư và trong tư tưởng trong tình cảm của dân hai miền Việt Nam.
Trên một thân cây, bờ Bắc tôi trông thấy những thanh gỗ đã mục nhưng còn mang những dòng chữ “Giới Tuyến Tạm Thời” viết bằng hai thứ tiếng Việt Nam và Pháp.
Ở bờ suối bên kia cũng có một gốc cây đóng vai tuồng đó. Nối liền hai tấm bảng là chiếc cầu khỉ.
Chiếc cầu bất cứ ở đâu cũng đều là sự nối liền của đôi bờ nhưng ở đây, chiếc cầu này lại làm nhiệm vụ canh chừng cho sự chia đôi đất nước.
Ở đường quốc lộ, cầu Hiền Lương cũng như thế.
Hai màu sơn chia đôi những nhịp cầu. Ba nhịp rưỡi một màu, ba nhịp rưỡi kia một màu khác.
Tôi không muốn nói là màu gì nhưng tôi nghĩ rằng màu gì thì màu chứ không đồng màu được.
Có lẽ là không bao giờ chiếc cầu ấy được sơn một màu.
Con người đi trên mặt đất, dù vẫn là đất nước của một quốc gia, một Tổ quốc, nhưng từ Bắc vào Nam, hay từ Nam ra Bắc đến đây đều cũng phải dừng lại.
Phải tự bắt mình dừng lại. Không thể vượt qua. Dù năm tháng có làm phai mờ những dòng chứ kia hay làm mục rã những tấm gỗ kia, cái lạch nước này vẫn còn giá trị một ranh giới của hai quốc gia.
Thế mà chúng tôi lại vượt qua.
Cho nên ngoài những tình cảm về quê hương đất nước, tôi lại còn có thêm một tình cảm của một con người đang làm một việc gì không phải đối với luật pháp, một chuyện bất lương.
Biết rằng đó là chuyện bất lương mà vẫn làm.
Tôi phản đối tới cùng việc đưa những đội quân miền Bắc, vượt qua ranh giới đã được qui định bởi công pháp quốc tế này, còn những người miền Nam tập kết nếu họ muốn trở về quê quán thì họ phải được trở về như những Việt Kiều đi xa xứ nay hồi hương, nghĩa là sự hồi hương của họ cũng phải được tổ chức công khai và họ phải được đưa đón hẳn hoi.
Không một người Nam Bộ nào muốn sống trên đất Bắc kể cả những ông ủy viên trung ương đảng hoặc những ông cao cấp khác.
Bước xong tấc cầu cuối cùng sang phía Nam tôi thấy người tôi như đổi khác đi. Cái chất Nam Bộ của tôi dậy lên mãnh hệt hơn bao giờ hết.
Tôi quay lại nhìn phía sau tôi. Chiếc cầu vẩn đứng chênh vênh đó với những đốt xương khẳng khiu với những cái chân gầy gò run rẩy dưới dòng nước đang đổ.
Cái nền xanh của cây lá làm nổi bật hình ảnh chiếc cầu.
Phía sau đó là miền Bắc, nơi tôi đã sống không lâu chứ ít ra cũng đã mười hai năm trời với những tình cảm vui buồn với những ngày mưa nắng, với những ràng buộc riêng tư cửa đời tôi.
Giã từ một miếng đất đầy kỷ niệm, lòng tôi thấy nao nao buồn. Tôi không bao giờ trở lại đó nữa trừ khi tôi bị một phép thuật bất ngờ mà tôi không cưỡng lại được.
Trước mặt tôi là Quê hương xa cách và ước mơ hội ngộ. Nó như tảng đá nam châm vĩ đại, có sức hút vô biên như lòng quả đất đối với vạn vật.
Tôi như ngây, như dại, như vừa uống một ngụm rượu mạnh ngon lành.
Ờ nhỉ, đây là miền Nam rồi đây, cái chỗ mình đang bước đây là đất miền Nam, cái cây đang đứng kia là cái cây của miền Nam, cả những hạt cát, những con bướm đang nhởn nhơ đó nữa, tất cả đều là của miền Nam, cái không khí tôi đang thở đây cũng không phải là cái không khí mình vừa thở cách đây vài phút.
Qua cái cầu con kia rồi thì tất cả đều phải đổi khác đi, phải mới đi, những chuyện không tốt đẹp phải để lại bền kia cầu.
Bất giác tôi nhìn ngoáy lại phía sau rồi dừng hẳn.
Nắng chiều nhuộm bãi cát một màu vàng ánh, trên bãi cát có một người đang đứng. Anh ta hơi gầy nhưng cặp chân rất khỏe. Cái bóng anh ta ngã dài trên bãi cát.
Anh ta cầm cái mũ tai bèo trên tay. Anh cúi rạp người xuống, cái đầu gục gặc như đang nói nhắn lại một kẻ vô hình nào đang đứng bờ bên kia những điều gì.
Rồi anh ta đội mũ lên mang ba lô đi ít bước, lại quay lại xá xá. Những người còn đang đi trên cầu cười to lên.
– Anh làm gì thế?
– Dạ, em vái ạ!
Anh ta đáp rồi vượt lên một cách thản nhiên.
Tôi nghĩ :
- “ Đúng là anh ta vái cả mũ. “
Hồi còn ở Hà Nội, tôi có nghe một câu chuyện tương tự như vậy cứ tưởng là của các ông Nam Bộ bất mãn bịa chuyện nhưng hôm nay tôi mới biết rằng đó không phải là chuyện bịa.
– Này, cha làm kiểu đó nó biết cha bất mãn, nó bắt cha quay lại đa nghẹn ! Cha nội !
– Còn lâu ! Anh bạn sìa môi ra như muốn thử thách.
– Chớ cha không ớn à ?
– Tết ! – rồi lại cả quyết
– Thằng nào giỏi theo đây mà bắt tôi. Tôi nói thiệt ngay bây giờ, tôi gục ngã xuống tôi chết thì cái xác của tôi vẫn lăn về phía Nam chứ không khi nào để cho người ta lôi ra phía Bắc.
Đúng là “vái cả mũ ! “ Vái cả mũ tất cả cái gì ở phía sau lưng tôi )
Ông Nguyễn Văn Túc viếng mộ người con trai hi sinh trên đường Trường Sơn năm 1972, khi 22 tuổi.
Ảnh: Philip Jones Griffiths - Magnumphotos.com
Nằm giữa cái bãi B 52 hoang tàn này mà nghĩ ngược lại ở phía đầu đường thì thấy rằng cái đầu đường đó là cái nấc đầu của một cây thang mà mỗi chặng đường là một cái nấc thang đi xuống.
Càng đi thì càng thấy tinh thần mình đi xuống dốc, ngược với những điều người ta tưởng tượng về chúng tôi.
Cái anh chàng “ vái cả mũ ” kia lại dựng lên sừng sững trong đầu tôi và làm cho tôi bất giác nghĩ rằng đó là Năm Cà Dom.
Tôi gọi Năm Cà Dom, kể lại chuyện đó và hỏi :
– Cái anh chàng dí dỏm đó có phải là cậu không ?
– Sao cậu nghĩ thế ?
– Bởi vì cái tính của cậu nó cũng thế !
– Nó thế, nhưng mà tớ có làm thế bao giờ ?
– Thôi đích là cậu rồi. Hôm đó tớ nhớ anh chàng kia nói là quê anh ta ở Gia Định. Còn cậu ở Hốc Môn, thế là cậu chớ còn cai. .
Năm Cà Dom cười khè khè :
– Người ta thì vái cả mũ chớ còn tớ thì bái cả mũ.
Tôi nói :
– Tớ có nghe những giai thoại vui vui. Rằng có một chàng " hiệp sĩ ” nọ cũng chất chứa một bụng bất mãn mười năm trời khi qua được Bến Hải rồi thì quay lại vái mỉa mai cái kiểu trên đây.
Thế là anh chàng bị lôi ngược về Bắc ngay !
– Láo toét.
– Nó có quyền làm như thế lắm chứ ?
– Nhưng nó biết người ta vái thế nào mà bắt người ta ?
– Nó đoán mò.
– Không thể được ! Chỉ có những thằng Nam Bộ mới hiểu rõ cái sự vái đó mà thôi. Bỏ cha bỏ mẹ bỏ xứ bỏ quê mười mấy năm trời, nay về được, mừng húm, không vái lia sao được.
Tôi cười :
– Mình bị cái câu “ tập kết hai năm rồi trở về ” mà chết cả lũ, cả đám.
– Chẳng biết cái thằng mặt ngang mồm dọc nào lại tung ra cái đó he ? Tìm mãi cũng không ra thằng nào nói câu đó đầu tiên.
– Ai chịu cha ăn cướp !
Tôi bảo Năm Cà Dom đi tìm Mạnh Rùa xem cái vụ kho gạo như thế nào để tham gia kiếm chát.
Năm Cà Dom không phải đi tìm mà Mạnh Rùa trở lại.
Bây giờ tôi trông Mạnh Rùa như cái xơ mướp. Thể xác Mạnh Rùa đã rách. Tâm hồn của hắn cũng tơi bời bi thảm.
Mạnh lại hỏi :
– Các cậu có tham gia không ?
Năm Cà Dom đáp :
– Tôi xin một chưn !
– Được rồi, mấy chưn cũng được.
Rồi Mạnh ngồi phệt xuống một cái rễ cây. Bây giờ thì tôi thấy thương hại Mạnh Rùa.
Chuyện hắn xét ba-lô chúng tôi vừa qua không còn là một thành kiến của chúng tôi đối với hắn nữa. Nếu chúng tôi ở trong hoàn cảnh của hắn, chắc chúng tôi cũng sẽ làm như vậy mà thôi.
Mạnh Rùa thở phào:
– Mẹ nó, làm sao mà đi tới nơi ?
– Ráng mà lết ! Năm Cà Dom nói.
– Các cậu là cửa tiên nhé ! Bây giờ mà tôi được đi độc lập và không có súng ống gì hết thì tôi lủi một cái một là mất tăm !
Năm Cà Dom hỏi :
– Cậu ở tỉnh nào?
– Cần Thơ, quận Ô Môn, xã Long Tuyền .
– Quít cam dữ hả ?
– Nhất xứ Ô Môn mà.
Mạnh Rùa thừ ra. Tôi trông nét mặt thì biết hắn cũng chỉ cỡ tuổi chúng tôi là cùng.
Một nạn nhân của cuộc tập kết hai năm và của chánh sách “giải phóng miền Nam”.
– Bây giờ về đến nơi cậu làm gì nào?
– Chả làm gì cả !
– Lêu têu à ?
– Tớ không muốn làm bất cứ chuyện gì nữa hết ! Chán quá !
– Ít ra cũng nuôi vài chục con gà mái đẻ chớ .
– Cố nhiên.
– Và coi “cái ổ” nào kha khá thì “hốt” một cái chớ.
– Cố nhiên! Tụi mình thì phải “hốt ổ” thôi chớ ma nào còn ưng cho nữa.
Năm Cà Dom cười:
– Tụi Nam Kỳ mình thì chuyên môn “hốt ổ” . Từ Bắc chí Nam đi đâu cũng hốt ổ. Trang bạn mình đều có sự nghiệp, gia đình , còn mình thì gia đình không, sự nghiệp cũng không.
Mạnh Rùa nói :
– Tớ có một người bạn năm nay độ bốn mươi lăm tuổi, dân Bình Xuyên.
– Tên gì ?
– Anh ta cũng thứ Ba. Anh ta là tiểu đoàn phó Bình Xuyên. Ra Bắc vì anh bị xem là thuộc thành phần không cơ bản nên anh được chuyển ngành. Anh ra Hà Nội làm ở Bộ Công Nghiệp nặng. Anh ta lấy một mụ có con, có cả cháu nội cháu ngọai.
Năm Cà Dom kêu lên :
– Đúng là một cái ổ vĩ đại.
– Nhưng anh đâu có được yên thân ! Anh ta bị khai trừ.
Mạnh Rùa kể tiếp về anh bạn Bình Xuyên:
– Anh ta như con cọp già bị bẻ hết nanh móng và vứt cho nằm chung với đàn lợn của hợp tác xã phải ăn phân trâu nấu với bèo hằng ngày (vì theo báo Nhân Dân thì phân trâu bổ hơn rau tấm ! )
Cọp mà đi ăn phân trâu sống làm sao nổi. Nó nhớ suối nhớ rừng nhớ đàn nhớ bạn… Người ta biết như vậy nên có bao giờ họ cho anh ta về !
– Nghĩ lạ thật ! Năm Cà Dom cười nhạt. Đồng bào mình ở tận Tân Đảo mà lại về xứ được, còn bọn Nam Kỳ dưa hấu của mình thì đành bỏ xứ muôn năm !
Tuất đột ngột xuất hiện và nói ngay với Mạnh :
– Kế hoạch xong rồi. Thi hành chưa nào ?
– Để khoan !
– Khoan dùi gì nữa ?
Mạnh Rùa đáp:
– Để tôi giải thích cho mấy ông “văn ngọt” này nghe tại sao mình lại cướp cái kho gạo kia, để mấy ông hiểu lầm rằng mình là thổ phỉ !
– Thì mình cũng gần là thổ phỉ rồi chớ còn gì nữa ? Ăn cướp kho gạo, còn gì nữa ?
– Nhưng đây là ăn cướp vì chánh nghĩa.
– Tại sao ăn cướp mà lại chánh nghĩa. Ông Chín nghểnh cổ nói sang. Mấy đồng chí nói nãy giờ mười chuyện tôi nghe ăn trét cả mười.
Mạnh Rùa giải thích:
– Ăn cướp cũng có ba bảy đường chớ đồng chí ông Chín.
Ở đây có một bọn giữ kho dơ dáy. Chúng lấy gạo bán chác cho đồng bào thiểu số và nuôi heo riêng. Vậy mà chúng mình đến thì chúng nó bảo rằng gạo đã cạn.
Kho gạo ở cách xa một tiếng rưỡi đồng hồ, nhưng chúng tôi tưởng chừng đi cả ngày.
Anh thủ kho là một người béo tốt, nếu không nói là phương phi.
Anh ta lại mặc đồ bà ba lụa đen. Nhất định đó là của một ông cán nào lo lót lem nhem để được anh ta ban cho một cái ân huệ cỏn con nào đó.
Thấy chúng tôi đến, anh ta đứng trên sàn nhà xua tay ngay :
– Trông kia kìa, kho cháy tiêu hết rồi, đã nói chúng tôi phải ăn lá rừng mà ! Không thấy hay sao mà cứ mang tới hoài vậy. Hôm qua tôi đã nói rồi. Hôm nay lại kéo tới , ăn như xáng múc ai chịu cho nổi.
Mạnh Rùa đi sau cùng. Khẩu súng giắt trong lưng rất kín , Mạnh Rùa lấy khăn bịt khấc ngang đầu như cố nén cơn giận đã nuôi sẵn từ lâu.
Một cậu bộ đội nói :
– Chúng tôi có mấy người đau, chỉ xin lãnh một vài lít thôi đồng chí thủ kho.
– Đã bảo là hết rồi ! Kho cháy không còn một hột mà. Đây đâu phải mậu dịch Hà Nội mà hàng chở đến mau được.
Năm Cà Dom bỏ nhỏ :
– Đây không phải là mậu dịch Hà Nội, nên chúng tôi chỉ xin lãnh một ít thôi.
Đồng chí xem đấy, bộ đội bị B52 và sốt rét thân hình ra thế đó làm sao chiến đấu.
– Ô kìa làm sao thì làm chớ ! Đảng Bác giao cho tôi giữ kho gạo thì tôi chỉ giữ kho gạo thôi không biết gì nữa hết.
– Thế ra đồng chí không còn đến vài lít hả l Một anh bộ đội nói.
– Đã bảo là hết. Đồng chí với nhau chẳng lẽ tôi ăn cơm nhìn đồng chí đói mà tôi yên tâm được ?
– Thế đồng chí cho xem nồi cơm của đồng chí đi !
– Người đâu lại vô kỷ luật thế hả ?
– Xem tí thôi, có gì mà vô kỷ luật.
– Này, tôi cho các đồng chí biết kho này thuộc kho của Bộ Tổng Tư Lệnh nghe.
– Tổng gì thì tổng, tôi phải moi cho ra.
Anh thủ kho đóng cửa đánh rầm rồi quay vô, nhưng “đốp đốp đốp” ba phát súng lệnh của Mạnh Rùa đã nổ và cả tiểu đội ào lên.
Chớp nhoáng, đã chiếm lấy kho gạo.
Tất cả đều bươi,móc tìm kiếm văng tục vung đá làm đủ mọi cử chỉ của một đoàn quân căm thù và mất dạy không còn kể đến cái lẽ phải nào hơn gạo.
Chỉ trong giây phút cái kho đã rách nát ra như một cái tấm tã mà cái chú bé con là anh thủ kho đang bị dí súng vào bụng và dồn vào một góc không dám ho he nửa tiếng.
Tìm không được gạo, đám lính đói càng hung hăng. Chúng đập phá, chặt vách đổ xuống và một cậu bật lửa châm lên mái lá.
Lửa bốc lên, nhưng Mạnh xuất hiện quát lũ lính dập tắt ngay.
– Trói nó lại !
Đám lính ùa tới trói gô anh thủ kho vào một gốc cột. Anh ta như cái áo rũ, mắt xanh ra và mồm nói không nền tiếng.
– Gạo ở đâu ? Mạnh Rùa mổ mổ họng súng vào mặt anh thủ kho và hỏi.
– Dạ hết rồi.
– Tại sao mày có gạo đem đổi gà ở trong buôn và có gạo nuôi lợn riêng.
– Dạ em đâu có. ..
– Mày chối tao cho chầu ông vải ngay.
– Dạ Đảng Bác giao cho em giữ kho, em đâu có…
– Mày phát khẩu phần thiếu cho anh em đi đường để làm gì ? Tao biết hết. Tao sẽ báo cáo về Bộ tổng. Mà thôi, tao không cần báo. Tao cho mày tử hình ngay bây giờ.
Rồi Mạnh dõng dạc :
– Trói thật chặt nó vào cột và nổi lửa đốt kho… Mau lên !
– Dạ ! Một tiếng dạ phấn khởi vang lên.
Anh thủ kho bỗng ré lên khóc to như rống. Hẳn nói qua những giọt nước mắt, giọt nào giọt nấy mặn hơn nước biển và to hơn chiếc bi đông.
Tôi vốn là một kẻ sợ bạo động cho nên khi thấy Mạnh Rùa càng quyết liệt thì tôi lại sợ và lùi ra xa trong khi đám binh sĩ háu đói nghe được lệnh là xông vào sẵn sàng thực hiện lệnh của cấp chỉ huy.
Đúng ra không phải bọn họ có tinh thần kỷ luật đến thế, nhưng vì họ chỉ nghĩ tới gạo , mà phương pháp của Mạnh Rùa đề ra là phương pháp duy nhất có thể làm cho gạo lòi ra.
Một anh đánh bật lửa châm ngay vào mái lá. Anh thủ kho quay cổ lại nhìn. Anh dãy dụa, mắt anh trợn lên giữa lúc ngọn lửa bắt vào mái lá gây nên một vừng khói.
Mạnh Rùa vẫn thản nhiên nhìn anh thủ kho. Một anh lính hất hàm hỏi anh thủ kho.
– Gạo đâu khai ra.
– Dạ hết rồi ! Cấp trên chưa tiếp tế.
– Không , mày dấu !
– Nếu các đồng chí tìm thấy thì tôi chịu tội.
– Tao không tìm nhưng sẽ có gạo, chốc nữa thôi ?
– Các đồng chí không tin tôi đã mười tuổi đảng sao ?
– Mày mười tuổi đảng mà mày xén bớt khẩu phần gạo của tụi tao mỗi đứa một lon đi đổi lợn ăn và nuôi lợn, nếu mày hai mươi tuổi đảng chắc mày bán cả chúng ta mà ăn.
Mạnh Rùa khoát tay:
– Thôi không nói nữa. Tất cả ra khỏi nhà.
Anh lính kia còn tiếp:
– Hôm nay nếu không có gạo thì chúng tao sẽ ăn thịt quay, hả ? Biết chưa ? Biết chưa con ? Tất cả lũ mày đem ra chặt đầu ba lần cũng còn nhẹ ?
Tất cả lính đã lủi ra ngoài đứng nhìn vào.
Lửa đã bốc lên dữ dội và gây một sự chuyển động trong không khí.
Và cây lá nổ răng rắc. Đám lính bắt đầu nhớn nhác nhìn xem theo dõi sắc mặt của viên chỉ huy.
Mạnh Rùa lại tỏ ra cương quyết hơn bao giờ hết.
Mạnh Rùa nhìn anh thủ kho bắt đầu bị vài làn khói xông vào mặt làm cho anh ta nhắm mắt lại và ho sặc.
– Tao cho mày đền tội một cách “vinh quang ! “
Lửa đã bò lan ra một phần mái nhà. Anh ta kêu lên, rống lên. Không rõ anh ta muốn nói gì.
Mạnh Rùa quát :
– Tuốt lá cây nhét mồm nó lại. Mau lên !
Anh thủ kho thét lên :
– Để tôi chỉ gạo.
– Không ! Tao không cần gạo của mày. Tao cho mày theo ông theo bà.
– Các đồng chí. . .
– Ai đồng chí với mày, đồ con lợn !
– Các đồng chí đừng đốt nhà. Hầm gạo ở ngay trong nhà.
-À thế hả. Sao mày không “anh dũng” nữa ?
Đám binh sĩ nhảy tưng lên. Mấy chục cặp mắt nhìn xoi mói vào cái nền nhà. Nhưng Mạnh Rùa quát :
– Bỏ nó ở đó với hầm gạo. Bọn ta không cần. Tất cả trở về.
Anh thủ kho khóc rống lên vang cả rừng. Họ đợi cho tàn lửa rơi trên đầu anh thủ kho mới mở trói cho anh ta. Mạnh Rùa hỏi :
– Mấy chục bao ?
– Dạ có hai bao thôi.
– Sao lại hai bao ? Mày có muốn tao quăng mày vào lửa trở lại không ?
Anh thủ kho khóc mếu đi đến góc nhà và giở nắp hầm lên.
Nào gạo nào nếp nào muối nào khô, những cái bao những cái gói những thùng, thứ nào cũng đưa vào mồm được cả.
Vắng lâu quá cái mồm không được cắn vào cái cơm, cái mũi không được ngửi cái mùi cá thịt… Thiệt là một cảnh vui tươi nhộn nhịp.
Họ nấu cơm, nướng khô ngay tại đấy vừa ăn vừa vung vải vừa chửi đổng và dọa giết anh thủ kho.
– Ê mày nuôi được mấy con heo mày ?
– Được có một con thôi.
– To bằng mày không ?
– Năm nay mày sinh hoạt chi bộ mấy lần mậy ?
– Dạ không có sinh hoạt lần nào hết.
– Mày là chúa sơn lâm he !
– Ông xơi xong ông lại trói mày vào cột mà đốt tiếp.
Câu chuyện đang lằng nhằng như thế thì Hồng xuất hiện.
– Các anh ơi ! Kho gạo ở đây này !
– Ở đâu.. ở đâu ?
Chưa biết là ai nói, mà mọi người đã phản ứng ngay khi cái tiếng “ gạo ” dội vào tai họ. Thằng Hồng xuất hiện trước mặt mọi người. Mặt mũi sáng trưng mồ hôi nhễ nhại với hai cái ruột tượng căng rướn vắt chéo qua trước ngực và một túm tròn bằng trái bí rợ đeo lủng lằng bên hông.
– Có kho gạo thật à ? Mạnh hất hàm.
– Có, chắc chắn. Em nói láo em chết ngay bây giờ.
– To không ?
– Ăn một tháng không hết.
Rồi cả đám ùn ùn đi theo Hồng trong lúc cả đống thực phẩm còn bỏ lại miệng hầm đó. Bỗng anh thủ kho khóc rống lên.
– Tôi lạy các anh ? Tôi lạy các anh.
– Ê ! Nhét mồm nó lại tụi bây.
– Quăng mẹ nó vào lửa đi.
Nhưng anh thủ kho bất chấp những lời đe dọa. Anh ta sụp lạy ngay trước mắt Mạnh Rùa. Cái đầu dập xuống cất lên ha lịa như chày đâm tiêu.
– Tôi lạy các đồng chi !
– Mày cút mẹ mày đi !
– Đó là kho gạo chiến lược các đồng chí ơi !
– Chiến cái con khỉ !
-Thiệt mà ! Chỉ có trung ương mới có quyền ra lệnh xuất kho.
– Tao đếch biết. Lính tao đói, có gạo là tao xơi ! Tao thịt cả mày nói mày biết !
– Dạ, đây là gạo dùng để tiếp tế cho chiến dịch nào sắp mở đó.
– Trung ương không cho xuất vì trung ương không bị đói còn tao với lũ lính này đói mê ra nên tao cho xuất tất cả. Xuất sạch rồi tao đốt kho luôn.
Rồi Mạnh Rùa ra lệnh:
– Đi khai kho ra mà khao lính, bay !
Rồi họ rầm rầm kéo đi.
Quả thật một cái kho gạo đứng trốn rất kín trong một đám rừng dày không có ánh sáng mặt trời.
Chung quanh cũng không có dấu chân hoặc vết xe.
Vừa tới đó thì tôi thấy từ trong kho vọt ra một cái bóng. Tôi vừa kêu lên ngay:
– Roánh ! Thằng mắc toi đã mò tới đây rồi.
– Không. Chính nó với em phát hiện ra đó !
Hồng vừa nói vừa gọi:
– Roánh ơi ! Roánh ! Bọn nhà mình đây cậu .
Cặp Hồng Roánh thiệt là xứng đôi.
Chúng mà “hành quân” trong rừng thì nhất định có “chiến lợi phẩm ” mang về.
Từ ngày có Hồng, Roánh bớt hoạt động, bớt phá phách đơn vị có lẽ vì Roánh thấy Hồng cũng là một tay chúa sơn lâm nhưng lại rất ngoan ngoãn nghe theo lời chị.
Roánh có cái tấm gương treo trước mặt đó để soi hằng ngày chăng ?
Tôi cũng không hiểu, nhưng thấy hình như hai cậu trở thành đôi bạn. Chúng thường sánh vai nhau đi và luôn mắc võng gần nhau, tâm sự có khi hàng giờ.
Trên cửa kho Roánh xuất hiện với hai tay vẫy lia :
– Gạo nhiều quá !
Tôi phải ngộp vì trông thấy số gạo chất trong kho.
Có lẽ gạo đã được chuyển tới đây lâu rồi nên dấu xe dấu chân đã bị xóa sạch. Những mớ lá khô dày đặc phủ kín mặt đất.
Anh thủ kho vẫn lẽo đẽo đi sau Mạnh Rùa van xin.
– Tôi cắn rơm cắn cỏ lạy các đồng chí. Đây là gạo chiến lược. Xin các đồng chí đừng đụng tới.
– Tao không biết. Tao đói. Tao cần ăn. Mày nói mãi hả ? Mạnh Rùa dí súng vào giữa trán của anh thủ kho. Mày còn nói nữa thì tao bóp cò.
– Dạ đồng chí có giết tôi thì tôi mát thân chớ cái kho này khai ra thì tôi bị tử hình.
Mạnh Rùa ngay chân. Anh thủ kho lăn kềnh trước mặt Mạnh nhưng anh ta lại lồm cồm bò tới chân Mạnh mà kêu gào :
– Các đồng chí thương dùm tôi. Đây là gạo sẽ dùng trong chiến dịch sắp tới. Người ta tới lãnh gạo không có, tôi làm sao ?
– Thế chúng tao nhịn đói thì mày không làm sao à ?
– Đã có mấy bao kia rồi .
– Không đủ. Mày phải phát bù lại số mày xén mất hiểu chưa ? Tao nhất định rồi ! Chúng mày cứ lấy ! Thắng nào mang nổi bao nhiêu cứ lấy ! Còn lại tao sẽ đốt tất !
Chúng tôi trở về như những chú vịt bầu no phè đi lệt bệt, bước không nổi.
Gạo đó, ai cũng có thể tới lấy và tha hồ lấy. Có những người thích gạo mới nguyên nên khui cả bao ra mà chỉ lấy một ít hoặc họ khui ra để tìm nếp, rồi lại khui bao khác, cũng chỉ để lấy một ít thôi.
Họ cố hết sức khuân vác đem về địa điểm đóng quân, bếp núc luôn luôn mịt mờ khói lửa, không ai nói nổi.
Họ cố nhét càng nhiều gạo vào người càng tốt như con lạc đà cố ăn uống trước khi vượt qua sa mạc.
Năm Cà Dom nói với Mạnh Rùa :
– Cậu nên ra lệnh cho lính chỉ ăn, đừng phá phách như vậy.
– Mình đã ra lệnh rồi. Nhưng bây giờ chúng nó đã trở thành những thằng điếc hết rồi. Chúng nó trả thù.
Có gạo ăn no bụng nhưng đường bị kẹt, không đi tới được. Cứ xục xích mãi như hủ lô cán đường, lết tới lại quay lui. Biết chừng nào đến nơi ?
************
The Following User Says Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
… Một buổi sáng chúng tôi đang vui cơm nước bỗng có tiếng máy bay tới. Tôi có cảm giác là máy bay sẽ bỏ bom xuống đầu mình. Thì quả thật vậy.
Ba chiếc phản lực kiểu gì không rõ rà xuống thật thấp, cánh to bè ra như những tấm phản đen ngòm, ném một lúc năm, sáu quả bom.
Rồi một đợt khác nữa tiếp tục.
Tôi và Năm Cà Dom chỉ ngồi nép vào gốc cây chờ dứt trận bom. Chúng tôi vừa hé mắt nhìn ra thì lại nghe máy bay tới, ù… ù… tiếng động cơ quen thuộc của một chiếc L19.
Rồi tiếng người cất lên từ trên máy bay nghe oang oang. Có lẽ tiếng người khi phát ra bị tốc lực của phi cơ làm cho méo mó đi cho nên ở dưới này nghe không rõ là người đó nói cái gì.
Mặc dù không biết trên đó người ta nói cái gì nhưng tâm linh tôi nghe buốt lạnh. Tôi ngước cổ nhìn lên.
Chiếc L19 lắc lư như con diều giấy chao nhẹ trong gió và những tiếng nói như những tràng đá sỏi rơi xuống đầu tôi.
- “Hỡi anh em cán binh cộng sản. Các anh chịu đựng đóí khát để làm gì. Miền Nam không cần cộng sản giải phóng. Các anh hãy tìm về với chánh nghĩa quốc gia để khỏi phí xương máu !”
A C-47 "Gooney Bird" aircraft from the 5th Air CommandoSquadron drops thousands of propaganda leaflets over South Vietnam
Photo courtesy of Bob Cutts, Stars and Stripes, April 1968
Chao ôi ! Tôi bỗng thấy cả người mọc ốc lên sần sượng. Cái giọng nói của ai nghe chừng quen quen.
Tiếng nói kia lại tiếp tục rắc xuống đầu lũ người ở dưới này.
- “ Tôi là thủ kho bị các anh xử tử đây.
Các anh đã hành động mù quáng vì quá đói khát.
Thử hỏi các anh luôn luôn húp cháo loãng, uống nước suối vì đâu.
Kho gạo sẵn đó nhưng tôi không được lệnh phát cho các anh.
Cấp lãnh đạo để dành số gạo dự trử để mở chiến dịch ở xứ Lào. Vì gạo đó là gạo nếp lấy ở Lào.”
Tôi bàng hoàng tưởng như mình đang sống một cảnh không thực, nhưng đây là sự thực giữa ban ngày.
Cái giọng nói ấy chính là cái “giọng gào thét” dưới mái nhà bừng bừng khói lửa và giữa cơn giận sôi lên của hàng trăm người.
Trói anh thủ kho vào cột để thiêu sống anh ta. Có lẽ vì thế mà xảy ra việc này.
Chiếc máy bay lấp loáng ánh bạc cứ bay lượn. Anh thủ kho đang ngồi trên chiếc máy bay đó.
- Có lẽ anh ta dòm xuống thấy đám ma đói này lúc nhúc nấu cơm khói lên xanh um từng cụm.
- Có lẽ anh ta muốn khạc cho vài phát đạn lửa để trả thù, nhưng anh ta lại thấy thương lũ ma đói này chăng.
“Chiêu hồi hoặc tử thần ! Hãy hồi chánh ngay ! Chiêu hồi hoặc tử thần!”
Tôi càng rùng mình khi nghe tiếng gọi sắc gọn như một nhát dao chém vào tâm tư tôi. Tôi nói với Năm Cà Dom đang đứng bên cạnh cũng nghểnh cổ lên nhìn máy bay :
– Này, cậu có nghe rõ không ?
– Có điếc mới không nghe.
– Có đúng thằng giữ kho không ?
– Chớ còn ai vô về đó. Nó tự giới thiệu rõ ràng mà.
– Nhưng tại sao nó làm thế nhỉ ?
– Giết nó thì nó phải tìm đường sống chớ sao !
Năm Cà Dom nhìn tôi và liếc sang ông Chín. Ông Chín ra miệng ngay:
– Này các chú đứng nép vô !
Tôi nhìn mãi mà không thấy ông Chín đứng ở đâu.
Chỉ nghe tiếng nói ông phát ra từ một bụi cây thì biết là ông ta đang đứng trong đó.
Khi máy bay phát hiện ra địa điểm đóng quân và tuyên truyền bằng loa phóng thanh như vậy thì phải dời đi.
Đi đâu bây giờ ? Toàn vùng này chỗ nào thằng thủ kho không biết ? Tuy vậy cũng phải dời cho sớm.
Chúng tôi thấy chiếc máy bay vừa biến dạng thì có một đoàn máy bay phóng pháo tới. Không đánh chúng tôi mà ném bom và bắn đạn lửa xuống kho gạo.
Lửa bốc lên mù mịt đen kịt một khu rừng. Gạo ở đó còn nhiều quá. Có những bao nếp. Đứa nào cũng định để đó, chừng nào hết gạo thì vô đó xúc bươi tìm cả nếp ăn chơi, chẳng ngờ nó tới ném bom hủy diệt ngay.
Thế là hỏng hết rồi. Mạt kiếp lại hoàn mạt kiếp. Của phi nghĩa quả không lâu bền.
Chúng tôi lại đi, nhưng không đến đâu cả, cứ lẩn lút trong rừng và lúc nào cũng nơm nớp sợ máy bay theo ném bom.
Tiếng máy bay đối với chúng tôi là tử thần.
Cái tiếng gọi của anh thủ kho ban đầu nghe tưởng như nước đổ lá môn, nhưng sự thực thì tác động quá mạnh.
Cứ nằm im lại nghe thấy nó vang lên trong tâm não mình. Lại nghe nó nhói lên như một mũi dao dưới võng mình nằm. Chiêu hồi hoặc tử thần.
Chỉ có mấy tiếng, nhưng là một loạt súng bắn thẳng vào tường lũy vốn đã lung lay của chúng tôi.
Chúng tôi treo võng bên bờ suối. Thói thường giao liên không cho ai ăn ở như vậy vì sợ máy bay phát hiện.
Nhưng vì ở phía trên không có chỗ tốt, vả lại nếu đóng ở trên thì phải đi lên đi xuống múc nước mệt cái thân ốm o gầy mòn, mà sức khỏe lúc này thì có thể tính bằng từng ly một. Đâu có dám xa xí nó như mọi lần. Ngay cả tiếng cười tiếng nói cũng làm cho chúng tôi nhọc xác.
Tôi và Năm đều im lặng, vì bên cạnh chúng tôi cũng có hai người ở một đoàn khác đang kể chuyện quê hương.
Mới biết là những người đi trên con đường quái gở này đều mang một tâm tư nặng nề về quê hương.
Quê hương, quê hương ! Đầu đội vai mang, thấm sâu trong máu.
Một người nói, giọng hơi ồ ề nhưng rất ấm áp:
– Nhà mình ở gần đình làng. Ông nội mình làm Hương Cả trong làng cho nên mỗi lần có hát Kỳ Yên trong làng thì mình được ngồi ghế thượng hạng xem hát bội. Vì thế tuồng tích nào mình cũng thuộc. Mãi cho tới bây giờ vẫn còn nhớ.
- Nào Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu Thành
- Nào Phàn Lê Huê phá Hồng Thủy trận v.v. . .
Chao ôi ! Hồi đó, mình còn con nít mà thấy Phàn Lê Huê ra tuồng mình biết mê. Cái miệng nhỏ xíu, cái càm núng có duyên hết sức.
Anh bạn kia cười.
– Đồ con nít quỉ he !
– Thiệt mà ! Nhiều cậu thanh niên mê mệt vì Phàn Lê Huê, đêm nào cũng đi xem cho đến vãn hát mới thôi.
– Có cậu nào bỏ nhà đi theo không ?
– Cái sự bỏ nhà có xảy ra nhưng lần đó là một gánh hát Thổ tới hát ba đêm…
Tôi không ngờ một trong hai người đó là bạn đồng hương quê ngoại của tôi. Tôi tìm đến anh.
Những kỷ niệm ấy rất vô tư nó không đượm một thứ màu sắc chính trị lem nhem nào cả, nó không thiên vị ai cả, mà nó rất con người.
Tôi hối tiếc vì tôi đã đi xa quê hương tôi để không có ngày trở lại. Bài học khôn của tôi rút được trên con đường đi kỳ này:
-“ Dù quê hương mình có thế nào đi nữa cũng không nên xa rời nó. Từ nay tới chết tôi sẽ không đi khỏi xứ Nam Kỳ! ”
Lạy Chúa, con là dân Nam Kỳ, xin Chúa hãy ban cho con cái ân huệ nhỏ bé nhất là cho con được trở về sống trên xứ sở của con. Không phải xứ của con đẹp hơn tất cả giang sơn khác nhưng đối với con, nó là tất cả, nó đẹp hơn tất cả.
Tôi còn mong gì hơn ? Tôi muốn về, về tới ngay. Cứ mỗi một ngày qua, tình cảm giữa tôi và anh bạn đồng hương càng phong phú và thắm thiết, đôi khi bằng một mẩu chuyện vui, nhiều lúc chỉ vài câu đơn sơ để xác định một tên người, một địa danh… nhưng bao giờ cũng gây thêm mối thông cảm giữa hai đứa và cả hai đều cảm thấy quê hương gần lại mình hơn.
Bỗng chiều hôm đó, tôi nhận thấy anh bạn tôi không còn hào hứng trong câu chuyện đồ lại những chuyện quê hương.
Tại sao anh ta lại mất hứng ngang như vậy. Tôi cố động viên tình cảm anh ta, nhưng không có kết quả.
Anh ta nằm dàu dàu, tay gác lên trán, thở dài từng chập tỏ vẻ chán ngán cực độ…
Tôi buông một câu thăm dò :
– Nếu mình cứ đi bình thường thì đúng sáu mươi ngày nữa có lẽ chúng mình tới đất Nam Kỳ.
– Ông bạn thì tới, còn chúng tôi thì chẳng bao giờ !
– Ô kìa ! Tại sao bi quan vậy nhà quân sự ?
– Tôi đang nghe phong thanh là bộ tư lệnh khu sáu đang xin bộ Tổng giữ chúng tôi lại khu sáu để ráp vào một sư đoàn mới thành lập.
Tôi ngồi bật dậy :
– Hả, hả, cậu nói gì tớ không nghe rõ ?
– Ở khu sáu vừa thành lập một sư đoàn mới nhưng chưa có cán bộ, cho nên tiện dịp bọn mình đi qua đây, Bộ tư lệnh xin bắt lại hết. . . Anh ta nghẹn ngào. Nghĩa là bọn này phải nằm lại đây cả, chẳng có thằng nào được về Nam Bộ cả !
Rồi anh ta bật lên tiếng khóc hu hu. Tiếng khóc nức nở hận đời.
Sao thế nhỉ ? Tôi tự hỏi. Sao cho về tới đây rồi chặn lại. Về cái nơi người ta muốn thì không cho, còn cái nơi người ta không có lấy một chút tình cảm thì lại ép.
Tôi thở dài như để chia xẻ nỗi buồn như trời giáng xuống anh bạn đồng hương. Một chập tôi hỏi:
– Có chắc không ? Hay đó chỉ là tin đồn nhảm ?
– Chắc quá rồi chứ.
– Ngoài Trung ương cho các cậu đi thì cứ đi thẳng một lèo, chứ ai cản được ? Có chứng minh thư trong mình mà.
– Thì phải rồi, nhưng Bộ tư lệnh khu sáu nó điện ra Trung ương nó xin đích danh cái đoàn này mà.
– Chịp ! Thế chết còn sướng hơn.
– Chúng tớ sẽ không ở lại thử xem họ có giữ lại được không ?
– Ừ thì làm đi ! Tụi tớ cũng xin giơ một chân đồng ý.
Số là đoàn của anh ta là một đoàn gồm toàn các bộ từ cấp úy trở lên thiếu tá.
Tất cả tổ chức thành hai tiểu đoàn dưới sự lãnh đạo của một ban chỉ huy thống nhất trên đường vào Nam. Tất cả đều là người Nam Bộ. Ai nấy đều phấn khởi như rồng gặp mây. Họ đinh ninh phen này sẽ về tới quê hương của họ.
Nhưng bây giờ đùng một cái họ bị nắm tóc xoay ngược lại, thế là họ bất mãn và quay lại chống đối ngay.
Chúng tôi đang trao đổi tâm sự với nhau thì vị trưởng đoàn xuất hiện. Và cả đoàn vây quanh anh ta ngay để hỏi tin tức.
Anh ta vốn đã gầy ốm, bị đói khát càng gầy tọp đi và cái khuôn mặt rậm bi rậm bít râu ria, làm cho anh ta giống một con dã nhơn.
Anh ta giữ sắc mặt lạnh như tiền trong lúc hằng chục câu hỏi câu nói nôn nóng, gay gắt, bực tức ném ra chung quanh anh ta.
– Chắc bỏ mạng tại khu sáu rồi hả đồng chí ?
– Ai ở lại ở, tớ cứ đi !
Anh chàng trưởng đoàn tìm một gốc cây ngồi phệt xuống vừa đưa tay áo quệt qua vầng trán bủn xỉn đầy những nếp nhăn chứa ứ mồ hôi, rồi mới chậm rãi cất giọng:
– Vấn đề đặt ra bây giờ là tuân lệnh cấp trên.
– Tuân lệnh, đồng ý rồi, nhưng đồng chí cứ cho chúng tôi biết lệnh cấp trên như thế nào đã…
Anh trưởng đoàn trợn mắt nhìn mọi người và nói:
– Tất nhiên tôi phải cho biết , nhưng các đồng chí ta phải nghĩ :
- Dù cái lệnh đó có như thề nào đi nữa, chúng ta là cấp dưới, chúng ta cũng vẫn phải thi hành, không được do dự.
Một người vọt miệng nói ngay :
– Thì đúng rồi. Lũ chốt trên bàn cờ chưa qua sông thì đem nướng lúc nào chẳng được.
– Đồng chí nói vậy sao phải. Anh tưởng đoàn bình tĩnh đáp.
– Nhưng đồng chí đã nhận được lệnh của Bộ tư lệnh khu sáu giữ chúng ta lại đây chưa ?
Anh trưởng đoàn ngơ ngác:
– Ai nói chuyện đó ? Lệnh gì đâu ?
– Đồng chí cứ giấu mãi, không tốt đâu. Cứ nói thẳng ra. Chúng tôi không phải con nít.
Tuy chưa có lệnh dứt khoát nhưng sự bàn tán càng xôn xao. Tư tưởng và tình cảm của mọi người chia ra làm ba khối.
- Khối thứ nhất là rên rẩm, bất mãn, kêu trời kêu đất, nhưng không nói năng thái quá.
Khối thứ hai thì bất mãn nhưng đành phải nghe theo lệnh cấp trên tới đâu thì tới.
Khối thứ ba thì ra mặt chống đối và tuyên bố nhất đinh sẽ phản kháng tới cùng vì nếu có một quyết định như họ sợ xảy ra cho họ, thì đó là một quyết định vô nhân đạo.
Anh bạn đồng hương của tôi càng ủ dột héo xào. Anh ta thuộc khối thứ nhất.
Cho nên anh ta cứ rên rẩm, bực tức và xem tất cả mọi sự đối xử của Trung ương đối với anh ta đều bất công.
Anh ta tâm sự dằng dặc với tôi:
– Ông bạn mình nghĩ coi. Mình kháng chiến chống Pháp chín năm không được cái gì hết ngoài mấy vết sẹo trên người chắc ông bạn mình rõ chớ !
– Rõ… chớ sao không !
– Chúng mình là những hòn đất vô tri, ai muốn ném đâu cũng được .
Hôm sau thì có lệnh của Bộ tổng đánh vào. Bảo rằng :
- " Đã đồng ý cho cái đoàn cán bộ này ở lại khu sáu. "
Cái tin đó làm tất cả mọi người khóc rầm lên như cha chết mẹ chết.
Dù là người gốc ở Nam Bộ hay Bắc Kỳ thì khu sáu đối với họ cũng không phải là mảnh đất dung thân.
Đó là cái khu chết đói, bệnh tật và là một mảnh đất vô danh xưa nay không có ai làm nên cơm nên cháo gì.
Nhìn những sĩ quan khóc mùi mẫn, tôi đau xót, cảm thấy như một mảnh tim của mình cắt để lại đây cùng với những người bất hạnh.
Con không đẻ không thương, người có quê hương không biết thương xót người xa xứ. Con của họ, đứa đi Tây, đứa đi Tàu…
Vị trưởng đoàn như một cái xác không hồn, anh ta nói những lời không phải của anh ta, nhưng bắt buộc phải nói ra:
– Các đồng chí thân mến ! Tôi xin phổ biến cho toàn đoàn nghe một cái lịnh mới.
Xin các đồng chí hãy bình tĩnh nghe với tư thế kẻ chiến thắng, và với thái độ của một đảng viên tiền phong của giai cấp vô sản.
Anh ta cứ nói vòng quanh mãi mà không chịu vào đề, làm cho ai nấy đều bực dọc. Có người nói ngay:
– Thì cái việc ở lại khu sáu chứ gì mà đồng chí cứ rào đón mãi. Ai ở lại thì xin vái cả mũ. Chúng ta không phải là khỉ hát xiệc của gánh Tạ Duy Hiển mà lúc nào muốn đem chúng ta làm trò chỉ cần cho ta một vắt cơm thì đem ra.
Tôi thấy ông Tạ Duy Hiển tuy chỉ là người chuyên môn giáo dục thú vật để làm trò vui cho thiên hạ nhưng tôi tiếp xúc với ông ta, tôi thấy ông ta rất thận trọng trong việc luyện tập và sử dụng từng loại thú một.
Ông ta nói với tôi về tâm lý của từng con thú một, rất xác đáng chứng tỏ ông ta là một nhà tâm lý sành sõi.
Ví dụ như :
- Loại khỉ là loại lóc chóc , rất thông minh nhưng lại rất chóng quên, và hay bắt chước, muốn giáo dục nó phải vừa dỗ ngọt vừa dùng roi vọt .
- Con gấu là con vật lầm lì, hung dữ và táo bạo, muốn dùng nó không nên bao giờ dùng roi vọt với nó.
Đại khái, ông ta kể lại rằng có một lần nọ một chú gấu sút chuồng…
Anh bạn nói có vẻ thao thao bất tuyệt những điều chất chứa trong lòng lâu nay chưa có dịp xổ tung ra.
Mọi người ngồi im, vừa bực bội vừa chua xót. Có người muốn phản đối nhưng đành im, vì cái ông bạn kia tuy nói ác khẩu thật nhưng lại rất chí lý.
Còn vị đoàn trưởng muốn lãnh đạo cái đoàn của mình. Anh ta ấp úng mãi mới tìm ra câu trả lời, anh ta nói rất gượng gạo:
– Đây là lệnh. Chúng ta là cấp dưới, chúng ta phải thi hành.
Lập tức cả đoàn lại nhao nhao lên. Một người nói :
– Đồng ý là lệnh Ai không biết phàm con nhà lính là phải coi lệnh cấp trên như chính là bộ óc của mình, còn mình chỉ là tay chân. Nhưng muốn được vậy cấp trên phải sáng suốt, mỗi cái lệnh ban ra phải cho hợp với nhân tâm, phải hợp với hoàn cảnh, lệnh ban ra cấp dưới đều thi hành dù có chết cũng vui.
Đó mới là lệnh của cấp trên.
Vị đoàn trưởng nói ngay:
– Chúng ta là chiến sĩ cách mạng, chúng ta hy sinh vô điều kiện cho sự nghiệp cách mạng như các đồng chí trung ương đã dạy chúng ta.
Đòi hỏi cách mạng phải theo nguyện vọng của chúng ta tức là chúng ta hy sinh có điều kiện.
Anh bạn vừa ngồi xuống lại đứng lên ngay:
– Con c… Con c… tao đây, chẳng có thằng đếch nào hy sinh cho cách mạng vô điều kiện cả. Đồ láo toét. Đồ bịp người.
Tôi chỉ thấy những thằng nói hy sinh vô điều kiện thôi, nhưng thực ra thì họ đều hy sinh có điều kiện cả, nhà lầu, ô-tô, cơm gà cá gỏi, vợ con phủ phê. Còn muốn gì nữa ?
Năm mươi tuổi lấy con gái mười tám uống sâm Triều Tiên như nước vối, nay tiệc mai tiệc, còn muốn gì nữa ?
Tôi mà được như thế tôi “hy sinh cho cách mạng suốt đời và tôi sẽ bắt con tôi hy sinh suốt đời nó luôn ! ”
Bà Bảy Vân - "người vợ miền Nam" của cố TBT Lê Duẩn
Tôi hỏi các đồng chí bà vợ nhỏ của đồng chí D. là bà N. trước kia là mèo của ông T. Tư lệnh miền Tây, bà ta làm chức gì mà được đi tàu lặn vô Nam ? Và vô trong Nam bà ta làm chức gì ? Có phải để trốn ghen ?
Anh đoàn trưởng đi vô Bộ tư lệnh suốt buổi chiều hôm đó. Đến sáng hôm sau mới trở về.
Đi cùng với anh ta có một ông vẻ mặt quan trọng và một anh cần vụ quảy một cái bòng sữa hộp và đường cát (để làm công tác chánh trị chắc) .
Tôi đã từng đọc một dòng chữ như những vết sẹo trên da một cây cổ thụ :
- “Thà chết không quay lại cuộc đời đất Bắc bạc bẽo.”
Thế mới biết người Nam Bộ vượt Trường Sơn trở về miền Nam với vô số ý nghĩ phức tạp nhất là ý nghĩ oán hận chớ không phải “đi giải phóng Miền Nam” như những kẻ lãnh đạo nhầm tưởng.
Đứng ở đây tôi nhìn thấy cuối dãy Trường Sơn thu nhỏ lại như một hòn non bộ trước tư dinh của ông Phó vương Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải nơi mà tôi đã giam thân học lấy học để những bài học của Trung ương đảng ban ra để làm vũ khí chống lại Nhân Văn Giai Phẩm năm xưa.
Đó, xương đồng chí của các ông đó, hãy chịu khó đi nhặt lấy để mà bán cho các viện giải phẫu với giá hời, các ông sẽ được lãi to trong canh bạc “giải phóng” miền Nam này ! Đó là điều chắc chắn !
Hãy đi nhặt những ống xương ấy về kết làm ghế ngồi, làm bàn buya-rô, và khắc chạm thành những chiếc ống điếu đùng để các ông hút thuốc giải khuây !
Vâng ! Xương trên Trường Sơn nhiều quá . Xương lộ thiên như những vỉ than ở Hồng Gai đã làm giàu cho miền Bắc.
Vậy mà các vị cứ ở ngoài Hà Nội chạm cốc với nhau chúc mừng chiến thắng. Và có lẽ nhà thơ “vĩ đại” nhất của Hà Nội cũng sẽ lại có thêm cơ hội để mà viết một câu thơ tương tự như sau.
Ít hôm sau Thu đau. Theo sự chẩn đoán của ông bác sĩ Cà Dom thì Thu bị thương hàn. Theo lời khuyên của Năm Cà Dom thì nên đưa Thu vào một cái bệnh xá ở gần đó.
Hồng và Năm Cà Dom thì khiêng Thu còn tôi quảy tất cả bốn cái ba lô đi sau hộ tống . Đến bệnh xá xong, Năm Cà Dom quay trở ra ngay. Còn tôi ở lại với Hồng.
Thu mê man suốt đêm. Còn Hồng thì nói chuyện qua loa với tôi một chập rồi biến mất.
Sáng hôm sau, Thu vẫn còn sốt vùi. Tôi nói với Hồng :
– Em ở lại với chị nhé, anh trở lại trạm.
Tôi đắp chăn kỹ lưỡng cho Thu rồi quay đi.
Hồng lặng thinh không buồn không vui. Cậu ta đưa tôi đi một quãng. Khi sắp quay lại thì cậu ta dúi vào tay tôi một hộp sữa.
Chao ôi ! Cái vật kỳ lạ này bỗng nhiên lại xuất hiện ở giữa rừng này, một kỳ quan có lẽ !
– Ở đâu cậu có vậy ?
– Ở đâu em có thì thôi. Em biếu anh đấy.
– Thôi cậu để lại cho Thu đi. Tôi không cần.
– Em còn nhiều mà !
– Trời đất… Em…
– Thôi anh cất đi . Không cần biết ở đâu em có.
Rồi Hồng quay ngoắc trở lại.
Tôi cầm hộp sữa trong tay. Sữa hộp “ Nestlé ” bên ngoài có hình cái tổ chim mà tôi quen thuộc từ thuở bé !
Trời đất ! Ở đâu mà có cái hộp sữa này, mà tôi lại là chủ ? Tôi biết chắc chắn Hồng đã giở ngón sở trường của cậu ta rồi.
Có lẽ tất cả cái kho của bệnh xá này bị anh ta moi ruột.
Tôi để Thu nằm lại với đứa em trai, nghĩ cũng tàn nhẫn và ích kỷ quá, nhưng ai đứng trong hoàn cảnh của tôi thì chắc cũng xử thế như tôi mà thôi !
Tôi lủi thủi đi trên đường về trạm, tâm sự ngổn ngang.
Trong lúc Thu mê man tôi đi mà không nói được lời từ giã. Tôi cảm thấy mình hèn hèn thế nào ấy, thấy mình không được hài lòng về mình.
Tuy thế tôi vẫn cứ mạnh bước, tôi biết trước rằng nếu tôi quay trở lại ở săn sóc Thu thì khi Thu khỏi bệnh, chúng tôi cũng chia tay, chừng đó tôi sẽ ân hận.
May mắn cho tôi vô cùng, khi tôi về tới nơi tất cả đều có ở nguyên vị, không vắng ai. Năm Cà Dom, Hoàng Việt…
Chúng tôi nằm thoi thóp trên võng, không muốn đi đâu không muốn làm gì. Có lẽ cái chết, duy nhất có thể giúp chúng tôi giải quyết tất cả
Một buổi trưa, chúng tôi nằm im.
Năm Cà Dom thì thở dài thườn thượt, còn Hoàng Việt thì cứ chốc chốc lại kêu lên “cách mạng cái gì kỳ cục vậy he ? ” và đưa những ngón tay lên quàu trên mái tóc trắng xóa như để bới tìm phương cách giải quyết khó khăn.
Nhưng đâu có cách gì ngoài gạo ?
Chung quanh đây đâu còn cái kho nào nữa để mà ăn cướp ?
Các đồng chí trung ương đã xua chúng tôi vào đây như xua một đàn vịt mạnh con nào con ấy rút rỉa, đói no sống chết cũng mặc.
Bỗng Roánh xuất hiện. Roánh nắm một mớ lá trong tay, vừa đi vừa rứt tung mớ bỏ vào mồm nhai có vẻ thú vi lắm. Tôi hỏi ngay:
– Gì đấy?
– Lá cây.
– Lá cây gì mới được chứ?
– Lá bép.
– Đâu đưa đây coi
Roánh tạt vào lều chúng tôi, đưa mớ lá cho chúng tôi xem.
Những chiếc lá láng mướt như thoa mỡ hình bầu dục và nhỏ như lá
ô-môi. Roánh nói:
– Ở vùng này có một tiểu đoàn ăn lá bép sáu tháng.
– Ai nói đó ? Năm Cà Dom hỏi.
– Nghe người ta nói chớ ai.
– Nói dóc! Người ta chớ phải trâu bò đâu mà ăn lá sống được.
– Đây các anh ăn thử xem. Béo lắm.
Năm Cà Dom bứt mấy chiếc cho vào mồm và nhai thử. Năm Cà Dom phun ra và lắc đầu:
– Không ăn được đâu.
– Các anh rồi phải ăn như tôi. Đói quá mà.
Hoàng Việt phát cáu:
– Ai mà ăn kỳ cục vậy!
Roánh biến vụt đi với mớ lá trong tay.
Tôi đã nhận diện cái giống lá đó và bắt đầu đi tìm.
Tôi đi bẻ được ngay một mớ nhưng lòng buồn nản vô cùng, không thiết gì đến việc nấu nó mà ăn.
Một hôm tôi đi quanh quẩn trong khu vực đóng quân tôi gặp Ngân. Té ra nàng vẫn đi gần bên tôi và Thu mà chúng tôi không hay.
Trông nàng cũng không khác trước là mấy. Cô kỹ sư nông lâm có vẻ bình thường trước vấn đề gạo. Hơn thế nữa Ngân đang nấu cháo. Lúc này mà có gạo để nấu cháo là một việc vô lý hoặc là một việc làm mà người ta phải giấu đi để khỏi phiền phức cho mình.
Thấy tôi đến, Ngân mừng lắm, nhưng nàng cố giữ vẻ bình thản . Tôi hỏi :
– Lâu nay sao không thấy Ngân tới chơi… với Thu ?
– Mệt quá anh ạ . Đâu có lúc nào rỗi rảnh mà đi.
– Nhưng tôi cứ nghĩ là Ngân đã giận tôi .
– Em giận gì anh ?
– Tôi biết mà, giận tôi chi !
Ngân đang ngồi nấu bếp ngẩng lên đối đáp với tôi nhưng khi tôi nói đến câu đó thì Ngân cúi mặt xuống, tay khẽ bẻ những que củi nghe răng rắc, ném vào lửa một cách sững sờ.
Tôi thấy đứng lâu không tiện cho nên tôi vội vã ra về. Ngân nói ngay :
-Anh ở chơi ăn cháo ?
Đàn bà có phép mầu nhiệm. Mỗi khi họ mời mọc thì khó chối từ. Tôi đành phải ở lại.
– Ngân mời tôi ăn cháo, tôi lấy gì mà đáp lại.
Tôi vừa nói vừa nhìn hai hàn tay của Ngân. Chúng vẫn như xưa hai bàn tay ấy, với nước da trắng nõn và những ngón tay thon như búp cây rừng, những ngón tay đã từng giữ nhánh tre khi đi ngang qua một lạch suối, và những ngón tay đã giở những trang sách của tôi ở dãy rừng núi này.
Trước đây Ngân rất hồn nhiên với tôi khi bên cạnh Ngân có cả Thu . Hay ít ra Ngân cũng đã tạo ra được sự hồn nhiên đó, còn bây giờ Ngân hơi luống cuống.
Tôi cũng lấy làm lạ rằng sự luống cuống đó lại tác động vào tâm hồn tôi một cách sâu xa. Cái nhánh tre xanh tươi bên ven suối trở nên mát mẻ trong lòng tôi lạ thường. Tôi cảm thấy hình như những ngón tay của Ngân vẫn còn giữ nó để cho khỏi quất vào mặt người phía sau đang đi tới, vì thế mà, anh ta nhìn thấy và yêu những ngón tay đó.
– Anh ở đâu ? Ngân đột nhiên hỏi tôi.
-Ở đây bên em. Tôi đáp.
– Không em muốn hỏi bây giờ anh đang ở gần đây không ?
Tôi vui vẻ :
– Thì ở đây ngay bên em. Em không thấy điều đó hay sao ?
Ngân dẫy nẩy phụng phịu:
– Anh kỳ quá. Em muốn hỏi chỗ đóng quân của anh.
– Anh cũng lấy làm lạ quá ! Anh đang đóng quân ở đây, hay nói rõ hơn là đang đóng đô trong lòng…
Tôi vui vẻ pha trò để đề phòng sự phản ứng của Ngân. Nhưng Ngân để lộ nét vui trên gương mặt.
Ngân hơi ửng đôi má. Rồi để cố dấu cái hiện tượng bừng lên trong lòng Ngân lấy nắp cà men múc cháo ra đưa cho tôi.
Cháo ngon lành thật. Nó hồi sinh trong tôi những tế bào héo hon sắp bị thải ra ngoài.
Tôi từ giã Ngân trở về lều.
Năm Cà Dom nằm võng nghe radio. Cái radio đang dùng mấy cục pin cũ phát ra những tiếng è è.
Ông Chín nằm tóp ve trên võng như tàu lá. Lâu nay thì cục lập trường của ông Chín đã trở thành “ mảnh da lừa ” teo dần theo những nguy nan hằng ngày.
Tội nghiệp ông Chín hết sức. Ông trối dài. Ông không giấu giếm sự bi quan trong lòng ông nữa . Ông cho rằng ông đi không đến nơi. Và ai cũng công nhận như thế. Một con người chỉ còn xương bọc trong da mà phải leo núi hai tháng nữa với những cơn đói bất ngờ luôn luôn xảy ra thì làm sao mà đi nổi.
Tôi chú ý thấy gần đây ông Chín ngụy trang nhẹ nhàng hơn trước, vì sức khỏe kém hơn là vì khinh địch.
Roánh mang đến cho tôi một mớ lá bép trong cái nắp cà mèn. Roánh bảo:
– Anh ăn thử đi, khá lắm. Giống như có pha mỡ lợn.
– Có chết dại không ?
– Em ăn rồi mà. Cả đơn vị đùng đùng đi hái về ăn đấy.
– Có nhiều không ?
Tôi chỉ nếm vài miếng rồi trả lại cho Roánh.
– Cám ơn cậu. Tôi sẽ đi tìm.
Roánh cứ lân la bên tôi, không chịu đi. Mãi lúc sau Roánh mới e ngại nói:
– Em và thằng Hồng rất thân nhau.
– Thế hả ? Tôi hỏi lơ là.
Roánh nói tiếp:
– Nó bảo với em rằng anh có cái máy ảnh.
– Nhưng để làm gì ?
– Em xin anh một “ pô ”.
– Cậu sắp trở thành “anh hùng” hả ?
– Không ? Chính là em sắp chết .
– Hả ? Cậu nói cái gì ? Cậu mê sảng trong cơn sốt ác tính à ?
– Không, em vẫn bình tĩnh. Để em kể cho anh nghe.
Roánh nói tiếp:
– Em sắp đi trinh sát.
– Sắp đánh à ?
– Sắp mở đường máu anh ạ.
-Thế à !
– Nếu không mở đường máu thì nằm đây cũng chết vừa chết đói vừa chết bom. Vi chỗ này lộ quá rồi. Anh cũng biết thừa rằng sau vụ cướp kho gạo, máy bay do thám hằng ngày. Ở đây cả đơn vị lớn thế này thì làm sao tránh khỏi B52 ?
Cho nên các cha cán bộ khung bị khu sáu bắt lại đã chuồn đi hết rồi để lại cho mình hưởng nguyên cái “gia tài” vĩ đại đó.
Vì thế cho nên cấp chỉ huy của em, ông Mạnh Rùa và ông Tuất định tổ chức một cuộc tấn công mở đường máu. Cuộc tấn công này sẽ có hai cái lợi.
Thứ nhất nếu thắng lợi thì cả đơn vị mở đường đi vào sẽ có tiếp tế gạo. Còn nếu không thắng thiếc gì cả thì sẽ có một số toi mạng. Do đó sẽ nhẹ lo vấn đề gạo cho các ông.
Tôi gạt ngang:
– Cậu nói bậy, chỉ huy mà ai lại đi tổ chức một trận đánh như vậy ?
– Em bảo đảm với anh đó là sự thực .
– Thánh thần cũng không biết nổi.
– Em nghe lén mà. Họ bàn luận với nhau chẳng ngờ em ngồi gần đó. Em nghe rõ không sót một câu nào. Các ông Mạnh Rùa và Tuất Chó đồng chủ trương nhờ kẻ địch giết chết em. Để em trong đơn vị hai ông ấy khó chỉ huy.
– Kỳ cục vậy ! Tôi kêu lên.
– Nhưng đó là sự thực.
– Đồng chí với nhau không mà.
– Đồng chí gì ! Các ổng nhớ cái lần các ổng lén mua gà trong buôn về chưa kịp ăn bị em đớp mất không dám la, nên bây giờ các ổng trả thù.
Roánh nói tiếp:
– Nhưng trước khi họ cho chúng em ra trận, họ còn cho chúng em chút ít ân huệ.
Tôi hỏi:
– Ân huệ gì ?
– Họ kết nạp chúng em.
– Cậu và ai?
– Một thằng nữa, tên thằng Đính, cũng ngổ ngược như em.
– Kết nạp vào đoàn hay vào đảng ?
– Em thì vào đoàn, còn thằng Đính thì vào đảng. Vì thằng Đính đang ở trong đoàn rồi. Họ động viên em bằng cách đó. Anh xem có ” thiêng liêng ” không ? Ghê quá !
– Thế ra các cậu cũng “vinh quang” tột đỉnh rồi.
– Vâng, nay mai đơn vị sẽ mặc niệm em và truy tặng em là “anh hùng quân đội” trong lúc đó thì bố mẹ em ở nhà khóc sưng con mắt và chỉ muốn em sống để trở về nhà thôi.
Em dự đoán thế là vừa, nếu may mắn mà em sống thì còn nói gì nữa, còn nếu em chết thì anh gởi bức ảnh về cho bố em.
Tôi bỗng nhiên xúc động vì tâm sự và điều yêu cầu cỏn con của thằng bé. Tôi lâu nay cứ đánh giá nó như một thằng lính láu cá chuyên ăn cắp vặt. Chẳng ngờ nó lại ưu tư đến thế !
Tôi đắn đo, không biết có nên lừa gạt cậu thanh niên này không ? Rốt cuộc, tôi nhận lời. [size=4]Vì đó là yêu cầu của kẻ biết mình sắp phải chết.[/size Anh ta đâu biết máy tôi không phim. Cứ nhận cho anh ta yên lòng. Thế cũng chẳng tội tình chi.
Tôi nói:
– Cậu bi quan quá ! Nhưng tôi sẵn sàng chụp cho, cậu muốn mấy pô tớ chụp cho mấy pô. Sáng mai nắng lên tôi chụp.
Roánh nhảy cỡn lên. Anh chàng không ngờ tôi tốt bụng đến thế.
Hôm sau thì hai cậu thanh niên được kết nạp, y như Roánh đã nói với tôi, Roánh thì vào đoàn viên thanh niên lao động , còn Đính thì vốn là đoàn viên, thì vô đảng.
Tôi không có dự hai cái buổi lễ kết nạp đó, nhưng tôi cũng hình dung ra nó diễn ra như thế nào.
Đại khái là đồng chí Bí thư chi bộ tuyên bố lý do rằng thì là ngày hôm nay chi bộ ta quyết định kết nạp đồng chí nọ đồng chí kia vào chi bộ.
Kể từ nay hàng ngũ ta có thêm chiến sĩ giai cấp vô sản, v.v . . . (nghĩa là không có cả gạo nấu… cháo) .
Rồi người được kết nạp giơ tay thề hi sinh chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, và đặt quyền lợi đảng (hay cho một nhóm tham quyền cố vị độc tài ? ) lên trên hết (cả quyền lợi của tổ quốc).
(Từ đó trở về sau, tôi không gặp lại hai cậu thanh niên này nữa. Tôi cũng không rõ hai cậu đó chết, hay đã sống cuộc sống sau khi đã rời đơn vị.)
************
The Following User Says Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
Hôm sau thì đơn vị xuất phát. Không hiểu ban chỉ huy của Mạnh Rùa và Tuất đã nắm tình hình địch như thế nào mà dám mang cả đơn vị lao vào.
Tôi có dịp nhìn lại tiểu đoàn của Tuất từ sau trận B52 . Thật thảm hại. Không còn được một trăm quân lính. Cậu nào cậu nấy đứng không vững, mặt mũi thì không còn văn vẻ nào tả cho xiết.
Vừa đen tối vừa xanh xanh, tóc tai rậm rạp và cặp mắt thì có lẽ chứa đựng những ý nghĩ kỳ lạ, mỗi người mỗi khác nhau.
Họ kéo quân đi, không quên để lại một toán hậu bị. Tôi và Năm Cà Dom, ông Chín, Hoàng Việt, Ngân và một đám ma trơi tìm chỗ lui về phía sau để được an toàn hơn.
Ngày hôm sau thì tôi thấy một anh lính lùi về. Anh ta chửi văng tục hằng tràng, không rõ chửi đích danh kẻ nào, nhưng có vẻ hằn học và nổi loạn đến cực độ.
– Chúng nó bảo tụi Mỹ là lính gà tồ, công tử bột. Thế nhưng mới vừa nổ mấy phát AK chưa biết có rụng cái lông nào của nó hay không mà nó đã nã pháo như mưa không ngóc đầu dậy được.
Đánh thế chó nào như thế mà xua con người ta vào đánh. Không nắm được địch tình, không nắm được địa hình địa vật chi cả thế mà cứ nhắm mắt lủi vào.
Mẹ kiếp rồi còn máy bay nữa chứ. Máy bay gì mà như con nòng nọc nó cứ bâu đen trên đầu, bắn vuốt mặt không kịp. Ối giào phen này vô số thằng nằm ngay cán cuốc ra đó. Thối cả rừng, cả suối, tai hại cho mà xem !
Tôi thấy anh chàng chỉ còn có khẩu súng dính trên vai, còn bao đạn ngang lưng thì rơi đâu mất, và cái ba lô cũng không còn ngồi xổm trên chiếc lưng gầy của anh ta nữa.
Anh ta cứ chửi toáng lên như để gây sự chú ý đối với chúng tôi, nhưng cả lũ chúng tôi cứ nằm im làm cho anh ta hơi ngượng.
Anh ta cởi áo vứt trên cành cây, ném súng xuống đất lót ngồi và lại chửi đổng một cách hăng hái.
Và cuối cùng biết chắc rằng không thể lôi hút được sự chú ý của chúng tôi anh chàng bèn đi vào lều của tôi.
Anh ta quệt mồ hôi trán và nói nhỏ nhẹ :
– Anh có nước không cho em ngụm.
– Có đây, nhưng chưa nấu.
– Mặc kệ, em cháy cổ họng mất.
Tôi đưa cái bi đông nước suối cho anh ta. Anh tu một hơi và dốc hẳn chiếc bi đông lên. Xong anh ta đánh rơi chiếc bi đông và ngả lăn ra trên đống lá khô không cựa quậy.
Độ một tiếng đồng hồ sau thì anh ta mới tỉnh dậy và ngơ ngác nhìn tôi. Tôi hỏi ngay:
– Trận đánh thế nào cậu ?
– Đánh đá gì anh ơi. Chết cả nút.
– Tình hình ra sao?
– Chả ra sao cả.
– Nghĩa là thế nào cậu nói tử tế nghe coi.
– Em đã bảo là nó không ra sao cả mà. Nghĩa là đi đánh địch nhưng có thấy địch đâu mà đánh ? Đi mò mẫm cả ngày, chưa đụng nó, nó đã nổ súng trước minh rồi.
Kế đó là máy bay tới đen như ruồi. Lo mà chạy. Rồi lại pháo nã tiếp theo đưa chân cho mình chạy mau lên.
Anh lính tiếp:
– Thế đó ! Chỉ huy ngu như bò, coi sinh mạng lính như rác.
Tôi hỏi :
– Mạnh Rùa và Tuất ở đâu ?
– Đâu có biết ở đâu là đâu. Đâu có ai chỉ huy được ai đâu. Mạnh ai nấy chạy tán loạn trong rừng.
Bỗng anh lính kêu lên:
– Ố giời ! Em mất mẹ đôi dép rồi.
-Thế à ?
– Mất dép khác nào chân bị chặt ! Em làm sao mà đi!
Hai người nữa lại về. Một người nằm trên lưng người kia. Máu chảy ròng ròng. Người bị thương rên hừ hừ. Vết thương không được băng bó, máu khô đen quánh lại trên vải.
Tôi cảm thương Mạnh Rùa và Tuất vô cùng. Hai gã đâu còn chút uy tín gì để phán lệnh xuống cho binh sĩ.
Mạnh Rùa rũ xuống như cái áo tả tơi. Hắn đến lều tôi ngồi phệt dưới đất và có lẽ định tìm cơ hội để phân trần cho nên hắn cứ ngồi hoài không chịu đi. Tôi an ủi hắn, nhưng hắn gạt phăng đi:
– Thôi đi cha non ! Mạnh Rùa xua tay ngán ngẩm. Đánh giặc thì có thắng có bại, đồng ý rồi, nhưng ở đây cứ toàn bại. Bại trận và bại hoại tinh thần.
Tôi hỏi:
– Sao đơn vị còn thưa quá vậy ?
– Thì còn sao nữa ? Chẳng lẽ đánh giặc lại sống cả à ?
– Trận này thế nào ?
– Gặp sứa lửa rồi ! Mới nổ một phát nó đã quặp mình lia lịa . Mẹ kiếp, cái kiểu này vừa chết, vừa đói, tụi lính nó làm thịt tôi mất.
– Gì mà bi quan thế cậu?
– Đù mẹ, tớ về được Hà Nội, tớ lột hết lon trả lại chúng nó ngay. Người ta đưa mình vào bước đường chó chết, mà cứ giục mình lập công. Tớ chưa từng gặp một tình cảnh nào như vầy. Cậu thấy không ? Thương binh như thế, lấy gì băng ?
– Tốt hơn đừng đánh.
– Đừng đánh cứ nằm đây, lấy gì ăn ? Đánh cũng chết, đói cũng chết. Nên chọn cái nào ?
Máy bay đã lượn trên đầu chúng tôi. Rồi chỉ trong giây phút chúng tôi đã nằm trọn vẹn trong cái vòng vây của chúng. Hãi hùng quá !
Cố nhiên là những trận mưa bom xảy tới. Có lẽ đàn máy bay thích lắm. Lâu nay chúng tìm mà không thấy dấu vết nhưng nay thì bỗng nhiên các vị lại nổ súng chẳng khác kêu lên “lạy ông con ở bụi này”.
Những người chết và những người sống sót mất tinh thần. Thì cũng giống như những trận bom khác, thế thôi.
Chỉ có một điều may mắn duy nhất từ khi chúng tôi rời Hà Nội đến nay, là bỗng nhiên lính Mỹ rút đi. Thiệt là phước đức trời cho.
Chiều hôm đó, một vấn đề đặt ra rất khó xử cho tôi là cái hộp sữa của Hồng cho tôi lúc tôi từ giã cậu ta mà rời bệnh xá.
Làm sao ăn nó ?
Nghĩa là làm sao uống sữa giữa lúc thiên hạ đói meo và máu me đầy người.
Cố nhiên là phải thủ tiêu cái hộp sữa kia một cách vô cùng bí mật và phải rủ những người nào tối cần thiết. Năm Cà Dom và Hoàng Việt, tất nhiên rồi !
Nhưng còn địa điểm thì bí mật hoàn toàn. Đây là sự sang trọng cực chẳng đã. Uống sữa trong lúc không có gạo nấu cháo.
Đợi cho ai nấy ngủ hết, tôi mới sang rỉ tai Hoàng Việt và Năm Cà Dom. Hai vị này cứ tưởng tiên trên trời mới ban xuống. Tôi bèn ấn cái hộp sữa vào ngực vào tay họ để cho họ tin chắc.
Thế là chúng tôi uống sữa. Có trời mới biết được xuất xứ của hộp sữa này.
Nói đúng ra là uống nước sôi có pha tí sữa. Thiếu chút nữa Năm Cà Dom lấy ống tiêm tiêm vào mạch máu chúng tôi, như tiêm thuốc trường xuân bất lão.
Chúng tôi không quên để dành cho ông Chín một cốc. Hoàng Việt nói:
– Ông Chín yếu quá rồi !
Quả thật, ông Chín đã kiệt sức. Ông không còn nói năng hoạt động bảo vệ lập trường như trước kia nữa.
Tôi nghĩ, bây giờ có lẽ trong thâm tâm, ông Chín đã tự nhận rằng chuyện vô kỷ luật, mất lập trường thậm chí phản động là những chuyện tất nhiên, của bộ đội trên con đường này.
Sáng rồi.
Tôi sợ buổi sáng vô cùng, nhất là cái buổi sáng hôm nay, mà chúng tôi biết được rằng nó đến với tất cả sự bất lợi.
Tôi không dám nhìn hai nhà quân sự Mạnh Rùa và Tuất. Họ đang làm những việc ngoài khả năng của họ để dựng dậy đám lính không còn hồn.[/i
Mạnh Rùa huýt còi liên tục.
Còi báo động khẩn cấp nhưng không có ai đi hoặc bò lết tới cả. Mạnh Rùa và Tuất phải đi dựng từng người dậy và lôi họ đến chỗ tập họp.
Mạnh Rùa nói:
– Bây giờ tôi không còn thì giờ để nói nhiều hơn nữa, tất cả hãy sẵn sàng và rút ngay khỏi nơi này.
Tất cả binh sĩ rã hàng trở về lều, bước đi nặng chịch, mắt nhìn xuống đất.
Tôi và Năm Cà Dom tuy không nằm trong quân số của Mạnh Rùa nhưng chúng tôi đã ba lô lên vai và sẵn sàng tiếp tục làm chùm gởi bám vào đơn vị của anh ta.
Trông ông Chín, ông già Noël và Hoàng Việt chống gậy đứng gục xuống dưới sức nặng của chiếc ba lô như quả núi đè trên lưng. Tôi hết muốn nói gì.
Ba người này nếu dự vào một cuộc chạy đua thì chưa biết ai sẽ về nhất. Mạnh Rùa quát luôn mồm :
– Mau lên ! Nó đến rồi ! Đồ ăn hại, cứ lờ đờ thế kia !
Còn Tuất thì có vẻ chính trị viên hơn :
– Ráng lên các đồng chí. Vào đến trạm trong tôi sẽ kiếm bò đãi các đồng chíí. Tha hồ tẩm bổ !
Một binh sĩ mỉa mai:
– Bò gì ? Bò lết chắc.
Họ còn tiếp tục mỉa mai cấp chỉ huy của họ, gần như công khai. Một người nói :
– Phen này thì các người mất chức hết. Ba tháng hành quân làm cho đơn vị này từ ba trăm người nay còn lại nấu không ngọt bát xáo.
– Im im! Hung thần đến ! Sa tăng ! Sa tăng, suỵt !
– Hung thần à ? Tớ cũng đếch sợ . Hắn cũng bỏ trận địa chạy vắt giò lên cổ như chúng mình thôi. Từ rày đụng trận, tớ chạy. Kẻo chết bỏ vợ bỏ con… ông đấm… ông đấm… ông đếch sợ sa tăng.
– Chà ghê nhỉ. Có dậy hành quân không ? Đồ ôn binh.
Cả đám im phắc và nhảy nhổm cả lên, Mạnh Rùa đã đến đúng lúc . Hắn quát:
– Này liệu cái hồn. Có dậy không ?
Cả đám chạy tản ra. Chỉ còn một cậu nằm nín lại. Mạnh Rùa tới ngay. Hắn lại quát vào cái võng im lìm:
– Sao nằm đây. Sao nằm đây ?
Mạnh quát hai ba lượt mới có tiếng đáp:
– Em đau dạ dày.
– Tại sao lại đau dạ dày ?
– Dạ… em em…
– Không đi đánh trận vừa qua à ? Anh lại là trung đội trưởng nữa !
– Dạ em đau.
– Tại sao vào đây lại đau dạ dày ?
– Dạ em đau từ Hà Nội, nhưng bác sĩ vẫn cứ lấy em đi như thường.
– Láo, đồ láo ! Thằng bác sĩ nào lại vô lương như thế.
– Dạ sự thật thế ạ . Em đau quá. Không ăn được gì cả.
– Cũng may là ở đây không có cái gì để anh ăn. Nhưng anh vẫn phải hành quân nghe chưa . Đứng dậy, đi ngay !
-Dạ em không đi được ạ.
– Anh nói với ai vậy? Anh có nhớ anh là trung đội trưởng không ? Tôi hạ lệnh cho anh đứng dậy, điều động trung đội ngay.
Mạnh Rùa đi lướt qua một lượt. Hắn dừng lại không biết mấy lần để hò hét gầm gừ.
Đến người cuối cùng ngay bên cạnh tôi, hắn không nói nhiều nữa. Hắn đưa chân đá vào chiếc vông no tròn.
Mãi chiếc võng kia mới ngọ nguậy.
– Dậy ngay .
-Dạ em sốt ạ.Tiếng nói vang ra từ bên trong chiếc màn xanh rũ xuống võng.
-Tại sao sốt ?
– Dạ tại em lên cơn.
-Tại sao lên cơn ?
– Dạ em ăn lá bép bị kiết lỵ nữa.
– Tôi không biết. Lệnh là lệnh. Dậy ngay !
Mạnh Rùa lại sút vào chiếc võng như đá bóng.
Hẳn lầu bầu :
– Ở đây không có bệnh với tật gì cả. Bom đạn không vị tình. Người ta đi… Không phải bằng cái chân, mà bằng cái đầu, hiểu chưa hiểu chưa ?
Rồi Mạnh Rùa tốc màn ra. Hắn nhìn thấy bàn chân của bệnh nhân. Hắn reo lên ngay như bất chợt gặp một sự thú vị.
– À đây rồi. Đây là cái thằng đã bắn vào chân phải không ? Và nhảy tàu ở Hàm Rồng phải không ?
Hay nhỉ, vào đến đây lại giơ cái sốt rét và kiết lỵ ra để không hành quân. Kỳ này tao bắn dùm cho một viên vào đầu.
Rịch rịch ! Mạnh Rùa lại sút liên miên vào chiếc võng, làm cho nó đưa qua đưa lại.
Mạnh như một cầu thủ điên tiết đá túi bụi không còn kể trúng trật nữa. Và tiện tay hắn ta giật luôn dây võng làm cho bệnh nhân ngã lăn kềnh xuống đất.
Cặp mắt Mạnh Rùa đỏ nọc. Hắn nắm lấy tóc anh chàng quật ngửa anh ta ra. Một tay hắn mò mẩm vào báng súng ngắn đeo bên hông.
– Đồ ăn hại !
Tôi nhắm mắt lại. May quá, không có tiếng súng nổ.
Mạnh Rùa dạng hai chân ra, mồm phùng ra thổi còi với tất cả sức cha sanh mẹ đẻ. Tiếng còi vang lên như bứng tung những gốc cổ thụ.
Hắn cắm đầu xuống mà thổi, hắn nhắm tít mắt lại mà thổi, hằn tuôn tất cả cơn lôi đình vào cái còi bé nhỏ.
Rồi hắn đi.
Hắn quay lại chỗ anh trung đội trưởng đau dạ dày. Anh này tên là Thưởng. Mạnh Rùa vớ lấy một thanh cây cầm trong tay. Mạnh Rùa hất hàm :
– Thế nào đồng chí trung đội trưởng ?
– Dạ dày em đau quá !
– Ở đây không có mỏng và dày, chỉ có hành quân ngay thôi. Đồng chí có đi không ?
– Dạ… dạ…
Vút vút vút Mạnh Rùa quật vào anh trung đội trưởng đau dạ dày. Anh này nằm im không kêu.
Mạnh Rùa đánh đúng ba gậy rồi ném chiếc gậy đứng thở dốc. Hắn đã thấy võ lực trở thành bất lực. Hắn đứng há hốc mồm ra mà thở.
Rồi hắn quát gọi. Một anh nào đó cũng hãy còn biết đến thượng cấp đã chạy đến nghe Mạnh Rùa truyền lệnh.
Mạnh Rùa lạnh lùng bảo :
– Cởi hết quân phục nó ra.
Thấy anh kia không chịu thi hành lệnh của mình, Mạnh Rùa lại quát.
– Cởi mau ! Đồ phản bội !
Trung đội trưởng Thuởng mà ba gậy vừa quật vào người vẫn nằm im như không có, đã ngóc đầu dậy khi bị viên tiểu đoàn trưởng của mình gán cho cái danh từ phản bội.
Thưởng cố nắm mép võng gượng ngồi dậy. Một con người lép kẹp như một cái mái chèo, không còn tim phổi trong lồng ngực. Thưởng trân trối nhìn vào Mạnh Rùa, môi mấp máy không nói ra lời và hai hàng nước mắt chảy ròng ròng xuống má.
Mạnh Rùa quát :
– Tao ra lệnh lột quân phục của mày và tuyên bố kể từ nay mày không còn trong đơn vị tao nữa.
Anh kia từ từ bước lại gần Thưởng đề thi hành cái lệnh của Mạnh Rùa, nhưng Thưởng xua xua tay:
– Được rồi ! Các đồng chí không phải nhọc công. Tôi thấy tôi không còn xứng đáng…
Rồi Thưởng gục mặt vào hai bàn tay nức nở.
Mạnh Rùa bỏ đi. Anh kia cũng bỏ đi theo Mạnh. Thưởng cố đứng dậy cởi hết quần áo mang đi trả cho Mạnh rồi trở về ngã vật trên võng.
Thưởng khóc, Thưởng than thở một mình :
– Tôi đã làm gì nên đảng đuổi tôi ? Hay tôi đã không làm được gì nên đảng đuổi tôi ?
Cuộc hành quân cấp tốc vẫn bắt đầu. Nói đúng ra là một trận chạy bán mạng, chạy không cần kiểm điểm kẻ còn người mất miễn sao thoát khỏi cái khu rừng đi bị máy bay trinh sát khoanh tròn.
Chúng tôi chạy theo anh giao liên muốn đứt ruột, bụng đói meo, dạ dày lép như trấu, hai đầu gối khua nghe lọc cọc, hai màng tai muốn vỡ tung ra.
Không cần biết anh giao liên dắt mình đi đâu vì cái chết đang trùm xuống đầu tôi với đôi cánh sắt kia rồi.
Khi chúng tôi được lệnh dừng lại thì không đứa nào đứng vững được nữa. Tất cả đều ngã quy xuống như những cây cỏ bị phạt ngang gốc.
Tôi tưởng như hai lá phổi của tôi đã dán vào lồng ngực và dòn như bánh tráng.
Chập sau, anh giao liên lân la đến nói chuyện với tôi. Tôi moi trong ba-lô tìm một điếu thuốc để mua chuộc anh ta.
Thuốc chẳng thay cơm được nhưng nó làm cho người ta tươi lên.
Tôi hỏi :
– Nghe nói đây là Plei-me phải không anh ?
– Đúng ! Đây là Plei-me.
Anh ta ngồi hút đến quá nửa điếu thuốc mới nói tiếp :
– Nếu chúng ta nhìn nhận sự thực thì chúng ta thua to nhất ở trận Plei-me.
Chắc có lẽ các anh ngạc nhiên khi nghe tôi nói như thế. Nhưng vì tôi là người đã tham dự trận này cho nên tôi dám nói như vậy.
Đánh với một đối phương mà mình chỉ biết trên khái niệm, mà lại khái niệm sai trăm phần trăm thì làm sao ?
Anh giao liên chậm rãi kể tiếp:
– Vừa chạm súng là chúng tôi mất tin tưởng ngay.
Chúng tôi không biết đã đội bao nhiêu bom pháo .
Không biết đối phương ở đâu và không biết cả cấp chỉ huy ở đâu. Bom nổ và lửa cháy thành biển. Và tôi chạy…
Ba ngày sau tôi mới thoát khỏi cái trận đồ quái ác đó.
Tôi là người thứ nhì của đại đội còn sống sót.
Người thứ nhất còn nguyên vẹn thân thể nhưng đã phát điên, còn tôi chưa điên, nhưng đã lãnh một cái “mề đay” vào bả vai bây giờ vẫn chưa gỡ ra được.
Sau trận đánh ba tháng, người ta vẫn chưa dám dùng nước suối ở vùng này. Xác người nằm lang thang khắp nơi.
Người ta nói cọp ở các rừng khác đánh hơi biết, kéo tới đây tha hồ phá cỗ.
Vì thế cho nên cọp vùng này rất thích thịt người, và cũng vì thể, người ta nói cọp Plei-me dữ hơn cọp ở các rừng khác.
Tôi thấy Mạnh Rùa hầm hầm đi tới. Anh giao liên lên tiếng :
– Em đây ạ !
– Lại đây bảo ! Mạnh Rùa chống nạnh và hất hàm. Cậu thấy tạm trú ở đây đêm nay được không ?
– Dạ đư… ợc ạ ! ..
– Có bảo đảm không ?
– Dạ được nhưng không bảo đảm. . . vì. . . đây là bãi chiến trường Plei-me ạ. Máy bay Mỹ đi ngang qua đây là cứ bắn không cần biết mục tiêu và kết quả ra sao hết.
Mạnh Rùa ngạc nhiên khi nghe nói đây là Plei-me.
– Đây là Plei-me à ?
– Vâng ! Đây là Plei-me, bãi xương trắng của hằng ngàn người… Đồng chí có muốn xem…
Cậu giao liên ôm mặt tiu nghỉu lùi ra. Thấy Mạnh Rùa nổi cáu tôi cũng không biết làm sao. Còn Năm Cà Dom thì rỉ tai Mạnh Rùa :
– Cậu giao liên là người có dự trận Plei-me đấy ông bạn. Cậu ta biết rất rõ. Cậu ta thấy cậu là nhà quân sự cho nên cậu ta kể sự thực cho cậu liệu bề mà điều quân.
Mạnh Rùa lặng thinh. Có lẽ y thấy mình vô lý. Y nói chữa ngượng:
– Thế ra mình không thể dừng ở đây được à ?
– Đúng ! Mình phải vượt qua cái tử điểm này chớ !
Mạnh Rùa bỏ đi một nước.
Anh giao liên đợi cho Mạnh Rùa đi khuất, bèn nói với chúng tôi :
– Cán bộ tiểu đoàn đấy. Sáng suốt nhỉ !
Tôi vuốt giận anh ta :
– Thôi cậu. Anh ta vừa thua một trận, nền anh ta cáu.
– Sao anh ta có quyền đánh cấp dưới.
– Có chứ ! Có thừa nữa chứ ! Anh ta đập cả bằng gậy !
Anh giao liên gạt phăng :
– Thôi được ! Các anh chuẩn bị, tôi đi đây !
Tôi biết là bỏ mạng sa tràng rồi. Ở đây nhất trạm nhì trời. Sao Mạnh không chịu hiểu !
Thế là cuộc hành quân bắt đầu. Anh giao liên đứng trước mặt Mạnh Rùa dập gót chào hẳn hoi.
– Tôi xin dắt đường tiếp tục.
– Cho khéo nghe. Lạc đường tao bắn bỏ. Đồ ăn hại !
– Vâng ạ ! Nhưng em xin báo cáo là bãi pháo ở trước mặt. Đơn vị phải vượt nhanh thật nhanh.
Chúng tôi xốc ông Chín dậy, nhưng ông còn sức đâu nữa mà dậy.
Lão già ngoại ngũ tuần đã mài mòn hết cái khối con sức khỏe trên đá Trường Sơn, bây giờ ngồi dậy không nổi, còn sức đâu mà vượt qua bãi pháo ?
Ông Chín lấy sâm Triều Tiên ra ngậm cầm hơi. Ông cố lắm mới mở mắt ra được. Người ông như cái áo giấy mắc mưa.
Ông Chín gượng đứng dậy với sự giúp sức của tôi và Năm Cà Dom.
Vấn đề lương tri, lương tâm, lương gì gì nữa đều được đặt ra ở đây tại chỗ này, nơi hai bàn chân của ông già lập trường đang run run đứng.
Dìu ông ta đi hay bỏ ông ta ở lại đây, nơi mà cọp đang thèm thịt người ?
Dìu ông ta đi là đúng, đúng quá đi chớ.
Ai không biết vậy, nhưng lấy gì để mà dìu ông Chín ?
Trong bụng mỗi người chúng tôi đều chỉ có nước lã, dìu ông Chín đi thì ông sẽ đi được mấy bước, còn khiêng ông trên vai, thì là chuyện không thể làm đối với bất cứ ai ở đây.
Ông Chín tuy mệt mỏi thể xác nhưng tinh thần rất minh mẫn. Ông nói với tôi một thôi dài không dứt đoạn :
– Cám ơn các đồng chí. Các đồng chí muốn cho tôi đi tới gần quê hương hơn nhưng tôi biết sức tôi đã kiệt cạn rồi. Tôi đành nằm lại đây thôi. Nhưng tôi cũng đã toại nguyện lắm rồi. Dù sao tôi cũng gần quê tôi hơn khi tôi ở ngoài kia. Ở đây là miền Nam rồi. Các đồng chí cứ yên lòng bước tới, tôi mở mắt to ra mà nhìn các đồng chí đi mỗi bước gần quê hương thêm một bước.
Khi tôi còn ở Hà Nội tôi có nghe một câu chuyện đã trở thành giai thoại như sau :
Có một lão già Nam Bộ vượt Trường Sơn. Khi về tới gần ranh Nam Bộ thì ngã bệnh nặng. Biết lão không thể sống được anh em trong đoàn bèn khiêng lão về tới đất Nam Bộ.
Lão già cố sống cho đến lúc anh em nói cho lão biết đây là đất miền Nam. Có lẽ lão chỉ mong chờ cái giây phút đó thôi, cho nên khi lão nghe anh em nói thế thì lão thòng chân xuống chấm đất thì tắt thở.
Câu chuyện đó không biết có xảy ra hay không. Mà bây giờ tôi lại thấy một chuyện thực trước mắt đây.
Tôi và Năm Cà Dom mỗi đứa một bên xốc nách ông Chín, lê ông già đi tới.
Anh giao liên dắt cả lũ vừa quân vừa dân chánh lủi trong rừng, đi theo một con đường mới hoàn toàn, dưới chân không có quãng mòn nào cả.
Một cuộc chạy băng rừng nối tiếp theo một cuộc chạy băng rừng, bụng ọc ạch nước suối, đầu nóng rực như than lửa.
Anh giao liên cứ dừng lại và quát:
– Chỗ này máy bay bay qua thường lắm. Đi cho kỹ.
– Đây là bãi pháo. Chạy nhanh lên !
Đây là sự trả thù. Cái tát tay của Mạnh Rùa mang lại kết quả này. Tôi biết mà tôi không sao ngăn được.
Cái khổ của tôi là phải chia một nửa trọng lượng của một lão già với Năm Cà Dom. Hết leo lên lại tuột xuống, không có một bước nào bằng phẳng.
Hơi thở của ông Chín phụt ra nóng như lửa đốt mặt tôi. Thỉnh thoảng ông lại ngã hằn đầu vào vai tôi. Bộ râu khó coi của ông quệt qua quệt lại trên mặt tôi. Còn cặp mắt ông thì nhắm híp lại.
Chân tôi đã rụng rời. Tôi thở hết ra hơi. Tôi vẫy anh giao liên lại và nói:
– Thôi đồng chí… cho… tôi xin đi !
Dường như anh giao liên biết rằng tôi hiểu ý định của anh nên anh xổ ra ngay một tràng dài như đại liên:
– Bố chúng nó chớ. Gặp ông chơi thì có mà hộc máu mồm rụng cả chân. Bảo cho chúng nó biết chúng nó bỏ cái thói đó đi. Chưa hết đâu, ông còn cho tiếp một màn nữa.
Mặt trời đã xuống thấp hơn ngọn cây rừng khi chúng tôi được lệnh hạ trại của anh giao liên.
Thiệt là may phước.
Tôi và Năm Cà Dom cố treo võng căng tăng thật nhanh cho ông Chín, rồi hai đứa ngã lăn ra đất như lần trước.
Anh giao liên đến bên tôi, với giọng thân thiết :
– Xin lỗi nhé ! Nếu không có các anh tôi cho cái đám thổ phỉ này lội rừng sáng đêm nay.
Anh ta lôi tôi ra rỉ tai :
– Ngày mai vừa hừng sáng là tôi hô biệt kích tới nhé. Các anh cứ nằm ngủ như thường, để tôi cho chúng nó “ tập thể dục ” một trận nữa.
Mạnh Rùa cũng không phải là tên chỉ huy gà mờ. Cho nên tôi vừa chợp mắt là hắn đã hầm hầm tới. Hắn quát :
– Thằng giao liên đâu rồi ?
Anh giao liên đang nằm trên võng ngay bên cạnh tôi. Anh ta liệu bề không thoát được nên vội lên tiếng:
– Dạ… em đây ạ !
– Tiên sư mày, mày là thằng phản động phá hoại quân đội, tao bắn mày bỏ đây cho cọp Plei-me ăn xác mày nghe chưa ?
Mạnh Rùa vừa nói vừa nghiến răng, rồi hắn quát lính trói anh giao liên lại.
Tuy là tàn quân nhưng đơn vị của Mạnh còn đủ sức trói một thằng người vào gốc cây.
Mạnh Rùa móc súng ra bước tới, lên đạn. Tiếng cơ bẩm lùi ra rồi chạy tới đưa đạn rền nòng nghe rõ quá, làm tôi ngồi bật dậy.
– Anh Mạnh ! Tôi kêu rú lên. Bắn nó ai dắt đường.
Mạnh quay lại tôi, đôi mắt lườm lườm :
– Tao không cần ai dắt cả. Tao vạch lấy đường mà đi !
Mạnh Rùa mổ súng vào trán anh giao liên :
– Mày định giết hết đơn vị tao phải không, mày là thằng gián điệp. Tao bắn mày là bắn một thằng gián điệp !
Anh giao liên cười nhếch mép :
– Thằng nào bắn tao mới là thằng gián điệp. Mày đã giết gần hết binh sĩ của mày rồi. Ai bắt tội mày mà mày bắt tội tao ? Đơn vị này rồi sẽ có thằng tố cáo mày.
Tôi bảo Năm Cà Dom can ngăn Mạnh Rùa. Hắn há không nhớ cái chuyện cướp kho gạo đã đưa đến cái hậu quả nào hay sao ? Bây giờ lại làm cái trò này nữa.
Mạnh Rùa có lẽ đã bị câu nói của anh giao liên đảo lộn tâm thần nên hắn quay đi, và kéo cơ bẩm lẫy viên đạn văng ra lăn lóc dưới đất.
Hắn lẩm bẩm:
– Tôi đi guốc trong bụng chúng nó mà. Làm trời với ai chớ với tôi thì tôi diệt. Nó tưởng tôi không biết cái trò trẻ con đó hả ?
– Thôi đi cậu ! Năm Cà Dom xô Mạnh Rùa ra xa rồi đến mở trói cho anh giao liên.
Trời tối nhanh với cơn mưa đố ập xuống bất ngờ.
Anh giao liên được mở trói, đến ngồi phệt bên tôi cứ nhổ nước bọt xoèn xoẹt, tỏ vẻ bất bình đến cực độ.
Anh ta ngồi im như gỗ, còn tôi không biết nói động tới anh ta bằng cách nào với lời lẽ nào cho khỏi bị anh ta phản đối. Sợ chọc anh ta nổi xung lên thì khốn.
Nhất trạm nhì trời mà !
Nhưng may quá, anh giao liên lại lên tiếng :
– Hắn ta biết cái Plei-me là cái thứ gì mà mới nghe tôi nói thế đã vội nhảy cỡn lên bênh vực chứ ?
Đấy là tôi mới nói sơ sơ thôi chớ chưa nói sự thực thê thảm của quân ta trong trận này đấy.
Nếu tôi nói sự thực ra chắc tôi bị xử bắn chắc.
Tôi hỏi:
– Sự thực bi thảm lắm sao đồng chí ?
– Thua to quá to đứt đuôi đi rồi chớ còn bi thảm bi thiết gì nữa.
Bố nó !
Ở ngoài Hà Nội, mới nhong nhong vô tới đây tưởng mình là ông tướng nhà trời. Đụng với Mỹ, nó giả cho vài trận thì trọc đầu đi đừng có mà lên mặt !
Anh giao liên ngoảnh lại hỏi tôi:
– Một trận đánh như vậy đó mà khi kể lại tôi nói rất dè dặt, thế mà hắn ta tát tai tôi là thế nào ? Các ông ấy thích nghe báo cáo chiến thắng lắm. Chiến thắng thì khó chứ báo cáo chiến thắng thì dễ mà. Thí dụ như trận tập kích của hắn ta ném vào quân Mỹ vừa rồi đó cũng là chiến thắng !
Tôi hỏi anh giao liên:
– Tới trạm có gạo không đồng chí ?
– Cái đó tôi không được biết đồng chí ạ !
– Chớ bình thường các đồng chí ăn gạo ở đâu ?
– Chúng tôi lãnh lúa hoặc bắp.
– Trời đất, rồi làm sao mà ăn ?
– Vịt gà ăn lúa thì sao?
– Đồng chí nói gì kỳ cục vậy?
-Tôi mong có lúa để mà sống, chỉ sợ không có lúa thôi.
– Mỗi khẩu phần là bao nhiêu ?
– Người ta phát bao nhiêu thì lãnh bấy nhiêu.
- Không có qui định gì hết à ?
– Có nhưng giao liên là cơ quan bán quân sự cho nên phải tự túc lấy tám mươi phần trăm, chỉ lãnh được hai mươi phần trăm mà không có đủ để phát cho chúng tôi.
Sáng hôm sau nắng lên đẹp.
Một ngày nắng lên giữa rừng là một hạnh phúc quá to lớn đối với người đi đường. Cho nên khi nắng lên ấm một chốc là đã thấy có người tắm dọc hai bờ suối .
Ôi chao ! Trông thật là vui, và thật là nhộn. Có cả một sự biểu dương xương sống xương sườn. Không phải một cuộc biểu dương sức mạnh mà ngược lại.
Riêng tôi thì tôi nhớ chắc chắn rằng từ ngày đi trên đường này tới nay tôi chỉ tắm có một lần, còn những trận dầm mưa hay ngâm mình dưới suối thì không kể. Vì tắm đối với tôi có nghĩa là sốt.
Tôi thấy mình vừa nhát vừa lười, tôi không còn tin tưởng ở cái gì nữa cả. Đã vậy tôi còn cho lòng tin là một sự ngu xuẩn.
Càng tin thì càng bị lừa và càng thất vọng.
Tôi còn đang chưa biết làm gì thì Năm Cà Dom đến rủ tôi đi đào trùn hổ về ăn, vì Năm đã trông thấy có người đào được loại ký sinh trùng này ở đằng kia.
Tôi miễn cưỡng đi theo Năm Cà Dom nhưng không bao giờ tôi nghĩ rằng mình có thể nuốt trôi được con trùn hổ.
Năm Cà Dom hỏi :
– Cậu đã từng ăn con cóc chưa ?
– Chưa !
– Làm cách mạng giải phóng miền Nam thì phải tập ăn cóc, rắn mối, dế nhũi, mối cánh, v.v… nhưng có con “kiếc” là đừng có xực nghe chưa ? Ăn là chết ngay !
– Con kiếc là con gì ?
– Nó cũng là loại cóc nhưng da nó đỏ, và có gai nhọn.
Có tiếng Mạnh Rùa đang cãi nhau với Tuất làm tôi và Năm Cà Dom dừng lại lắng nghe.
– Tại cậu tất cả ?
– Chứ để cậu bắn chết nó à ?
– Thì đã sao ? Hơn là nó trốn mất rồi.
– Chính là tại cậu. Tại sao lại tát tay nó ? Tớ nói thật. Đây chẳng phải phê bình gì cậu. Tớ thấy cậu đối xử với mọi người như một anh gì chớ không phải cấp chỉ huy.
– Lính tráng như thế ai chỉ huy được ?
Rồi Mạnh Rùa quay ra quát:
– Đi tìm cho được lôi cổ nó về đây.
Vì sự sống chung của đơn vị và cũng là sự sống riêng của từng thằng, đám lính chạy tủa ra.
************
The Following User Says Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
Như vậy là anh giao liên đã trốn rồi. Một trường hợp chưa từng xảy ra từ trước tới nay. Thế là rắn đã mất đầu. Cuộc hành quân đình lại hoàn toàn. Và chưa biết là chuyện gì sắp xảy đến cho chúng tôi ?
Biết đâu lại chẳng có một màn vui vẻ như cái màn tiếp theo vụ cướp kho hôm trước ?
Độ vài giờ sau có lính chạy về vừa thở hồng hộc vừa phi báo cáo với Mạnh Rùa.
– Tôi… đã gặp !
– Gặp cái gì ?
Người lính đứng thở đằng mồm mãi mới nói tiếp được:
– Em gặp một cái võng mắc trên ngọn cây, em gọi mãi nó cũng không đáp lại. Em dọa bắn, nó cũng im luôn. Đích thị hắn rồi. Em cho người giữ chặt. Em chạy về báo cáo.
Mạnh Rùa quát:
– Gọi nó xuống ngay. Không xuống cứ bắn bỏ !
Mấy người lính khác lại chạy đến báo cáo :
– Đồng chí Thưởng đã chết !
Mạnh Rùa quát :
– Thưởng nào ?
– Thưởng Trung đội trưởng trung đội sáu đại đội hai.
Mạnh Rùa như bị ngọn roi bất thần quật vào giữa mặt tối tăm trời đất. Mạnh Rùa nhảy cỡn lên la rối rít :
– Sao nó chết ? Nó chết ở đâu ? Ôi ! Trời đất ơi !
Anh lính báo cáo lại rành mạch đầu đuôi
Từ hôm qua Mạnh Rùa đã đập Thưởng mấy gậy, đã cởi hết quân phục của Thưởng và bỏ Thưởng ở lại phía sau trong lúc Thưởng vừa đau dạ dày vừa sốt rét, cho Mạnh Rùa nghe. Nghe xong Mạnh Rùa hỏi :
– Bây giờ nó ở đâu ?
– Ở đằng kia.
– Đằng kia là đằng nào ?
Rồi Mạnh Rùa chạy theo anh lính.
Thưởng nằm úp mặt trên một cái rễ cây. Mình mặc một cái mai ô. Mạnh Rùa quì sụp xuống, ôm xốc Thưởng lên, ngửa mặt Thưởng lên.
Nét mặt của Thưởng đã xanh ngắt và mũi đầy bụi đất.
Trong mồm Thưởng có mấy cái lá xanh còn thòi cả ra ngoài hai hàm răng. Hai tay Thưởng giơ thẳng ra phía trước như trong lúc ngã xuống Thưởng cố vươn tay lên bám lấy cái gì để nhoài tới, bây giờ đã cứng ngắt không xếp xuống được.
Mạnh Rùa kêu lên:
– Trời ơi, sao mày bò tới đây Thưởng !
Mày giận tao lắm phải không ? Tao là thằng khốn nạn !
Rồi viên chỉ huy gục đầu trên ngực của thằng bạn và là cấp dưới của mình.
Nghe Thưởng chết, tôi và Năm Cà Dom chạy đến. Tôi thấy cái cảnh tượng Mạnh Rùa gục trên ngực thằng đồng đội mà khóc rống lên. Có lẽ Mạnh Rùn hối hận về sự đối xử của mình đối với Thưởng.
Nhưng có lẽ cũng chưa có một viên chỉ huy nào bị dồn vào tình thế bế tắc như Mạnh trong những ngày mà tôi đi trên đường Trường Sơn này.
Những trận bom liên tiếp, những trận đánh thất bại, những cơn đói, không có một phương tiện liên lạc và chỉ huy trong tay… Làm chỉ huy như Mạnh thật cũng khổ.
Tôi thấy Mạnh giải quyết mọi công việc với những quyết định bất thường, như xét ba lô chúng tôi, rồi cướp kho gạo, rồi mở đường máu, và tát tai anh giao liên.
Nhưng tôi hiểu Mạnh, tình thế của đơn vị làm cho Mạnh lên cơn sốt tâm tư. Mạnh muốn hành động ghê gớm để vượt lên mọi gian nan đang dìm đơn vị của Mạnh xuống, nhưng Mạnh bất lực.
Mạnh đã xử sự với Thưởng như một chúa đảng đối với một tên lâu la có tội. Mạnh kéo quân đi, bỏ Thưởng ở lại. Mạnh cũng không còn nhớ tới Thưởng bị bỏ lại.
Bây giờ Thưởng đã bò lê tới đây, quyết đuổi theo kịp đơn vị để chết trước mặt Mạnh. Cái chết đó là một sự trả thù đắt giá nhất đối với Mạnh. Linh hồn Thưởng chắc được thỏa thuê, khi mà thân xác của Thưởng cứ được nước mắt của viên chỉ huy bạo tàn đang hối hận tưới lên.
Những mảnh mặt trời nhảy múa loáng thoáng qua kẽ cây như những mảnh hồn oan hiện về sưởi ấm chúng tôi, như những mảnh xương biết đi, đi tìm người quen cũ.
Tôi không hiểu tôi là ai, là cái gì, chỗ này là chỗ nào nữa, nếu không có tiếng Năm Cà Dom gọi tôi sang lều ông Chín.
– Nhanh lên ! Nguy quá rồi !
Tôi vọt sang. Nguy thật. Ông Chín năm trên võng như một nhà tu sắp liễu đạo. Người ông tóp ve sát với chiếc võng.
Mắt ông Chín vẫn còn thần sắc, ông nói sang sảng từng tiếng một :
– Tôi đi không đến ! Tôi phải nằm lại đây rồi. Các đồng chí hãy tiếp tục đi cho đến nơi.
– Ông Chín ! Ông đừng nói gở !
– Không, tôi biết sức tôi. Tôi không thể nào đi đuợc nữa.
– Không đi thì nằm lại đây.
– Tôi sắp chết ! Tôi biết. Tôi nằm lại đây mãi mãi.
– Chúng tôi sẽ khiêng ông Chín cho tới nơi.
Ông Chín nhếch môi cười.
Đây đâu phải là chuyện vui mà ông Chín lại cười. Ông Chín cười vì chúng tôi bịa ra một câu chuyện và để cho nó mãi mãi là một câu chuyện bịa.
Ông Chín móc trong túi áo trên, chọn trong xấp giấy lấy ra một tấm ảnh bốn sáu của ông, nói :
– Các đồng chí mang dùm ảnh tôi về đến nơi, thì coi như tôi cũng về đến nơi với các đồng chí.
Ông Chín giơ tấm ảnh lên, không cố ý đưa cho ai nhất định. Năm Cà Dom đón lấy. Năm là người Gia Định với ông Chín.
Rồi ông Chín nhắm mắt đi luôn một hơi.
Như người ta đóng kịch. Thật là đơn giản hết sức.
Chúng tôi đâu có cái gì trong tay để đào đất, ngoài con dao găm lục như trành bằm mà chúng tôi đeo trong lưng lâu nay như thanh bửu kiếm.
Đất ở Plei-me cứng. Cho nên tôi và Năm Cà Dom ráng sức bình sanh bươi mãi mà chỉ được cái lỗ cạn như heo ủi.
Chúng tôi có người chết mà đơn vị của Mạnh Rùa không hề giúp đỡ tí gì. Giá phải còn thằng Roánh ở đây thì ít ra nó cũng tiếp chúng tôi một tay.
Còn đằng này thì họ xem như không có chuyện gì xảy ra. Tôi chỉ nghe họ nói với nhau :
– Lão già đi âm ty rồi!
– Thôi chết cho khỏe cái thân già. Về trong đó ổng cũng không sống thêm được mấy ngày.
– Cái ba lô của lão không biết còn gì trong đó.
Ông Chín nằm trên võng, chiếc màn xanh lá cây đã phai màu phủ lên người ông như ông đang ngủ. Năm Cà Dom giở màn đưa tay vuốt mặt ông Chín và nói với giọng bình thường:
– Thôi ông Chín nằm lại đây ngủ cho ngon nhé. Tôi về tới Gia Định tôi sẽ tìm đến gia đình ông.
Chúng tôi soạn ba lô ông Chín. Không còn gì cả. Gạo, muối, đường sữa đều hết sạch, củ sâm cuối cùng ông Chín đã dùng hôm qua. Còn mấy chiếc áo quần và cái chăn bằng vải dù của ông đổi được ở dọc đường, chúng tôi đem cả ra lớp đắp lớp quấn cho ông ấm lòng.
Đấy gia tài của một người cán bộ đi theo đảng hơn hai mươi năm !
Cứ để ông Chín nằm như thế trên võng, tôi và Năm Cà Dom xỏ đòn vào khiêng với sự giúp sức của Hoàng Việt và ông già Noël đưa ông Chín ra phần mộ.
Huyệt mộ cạn và thiếu bề dài. Thiệt là tủi thân cho người mãn phần. Tôi định đào thêm một chập nữa nhưng Năm Cà Dom bảo đặt ông Chín xuống đất và bảo :
– Đừng đào tôi có cách.
– Để ông Chín nằm nghiêng và co lên à ?
Chúng tôi lấp đất lên. Đất không đủ che kín thi hài ông Chín. Chúng tôi bẻ lá đắp thêm. Sau cùng Năm Cà Dom nhặt một hòn đá to đặt nơi dầu mộ làm như dựng bia cho người bạc phận.
Chúng tôi cúi đầu.
Vĩnh biệt ông Chín !
Có lẽ mỗi người đều cảm thấy sinh mạng của mình mong manh quá. Trời ơi ! Thế mà đã xong một đời người. Trên đời này có cái chết nào rẻ hơn không ?
Nhưng kể ra thì ông Chín hãy còn yên ấm hơn những mảnh xương vô thừa nhận phơi nắng phơi mưa trắng cả vùng rừng núi Plei-me này.
Tôi nằm li bì trên võng, cảm thấy mình vừa chôn theo cái xác già cùng kiệt kia tất cả ý chí của mình.
Vâng, tôi giờ đây chỉ còn là một cái xác cử động, chưa biết sẽ vấp ngã mà không đứng dậy nổi lúc nào.
Có lẽ để cho người nằm lại không cô đơn, Mạnh Rùa cho đem chôn Thưởng bên cạnh ông Chín.
Cũng một nấm đất sơ sài, có rào cây tết lá, nhưng trên lưng mộ hình như có những cái gân đất nổi lên như những lằn gậy đập trên thân người Trung đội trưởng.
Cả đoàn tôi và đơn vị của Mạnh Rùa đang mong chờ các toán đi tìm, trở về với anh giao liên bị trói gô với vẻ mặt hằn học, nhưng chuyện đó chưa xảy ra thì có mấy người về báo cáo về cái võng treo trên ngọn cây. Tôi nghe họ nói với Mạnh.
– Tụi em leo lên đến nơi treo cái võng. Một thằng chết.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.