Nhớ 'một câu nhịn chín câu lành', người Việt sẽ không hung dữ
Hơn nhau không phải ở nắm đấm mà là ở khả năng học tập, làm việc, chia sẻ, thương yêu, tử tế với mình, với người trong mối quan hệ với cuộc sống xung quanh!
Hạ cẳng tay, thượng cẳng chân sau khi va chạm giao thông - Ảnh do bạn đọc cung cấp
Cách đây mấy bữa, trên đường đi làm về, tôi thấy một đám đông ở Hàng Xanh (Q.Bình Thạnh, TP.HCM), nghĩ là có kẹt xe. Tới gần mới phát hiện là vừa có vụ va quẹt và hai tài xế đang cãi nhau, người đi đường ngang qua ai cũng lắc đầu.
Chuyện va quẹt trên phố đông như Sài Gòn giờ tan tầm là chuyện cơm bữa, nếu cảm thông và chia sẻ được thì có lẽ người ta sẽ nhẹ nhàng cho qua, tôi nghĩ vậy!
Môi trường nhiều mầm mống bạo lực
Thường người ta sẽ nổi nóng khi gặp một chuyện bất như ý nào đó, như vừa bị sếp la, ra cổng cơ quan bảo vệ đùa một câu, liền sân si. Nỗi buồn, sự bực bội là thứ năng lượng chi phối hành xử khiến người ta không thể kiềm chế được cơn tức dâng lên, lây sang người khác.
Vì vậy, có người dễ nổi nóng đã cảnh báo: "Thấy tôi ‘khó ở’ là tránh xa xa giùm, không ăn mắng ráng chịu". Theo đó, người nóng lâu ngày họ cũng biết tính khí của mình nên có "chống chỉ định" chuyện nói đùa, tiếp xúc lúc họ đang không vui, căng thẳng. Thực ra, khi quá mệt mỏi, phiền muộn trong lòng, ta không còn giữ được mình.
Có người bạn của tôi bình thường hiền queo, ai nói gì cũng cười. Bỗng một ngày, tôi hỏi "sao buồn dữ rứa?" lại bị bạn nạt cho một câu nghe chưng hửng. Trời, bạn mình đây sao? Mới đầu tôi phản ứng vậy, nhưng chợt dừng lại vì nhớ ra, đây không phải là bản chất của bạn. Có thể bạn đang có một nỗi niềm, áp lực từ cuộc sống, gia đình, tình yêu hoặc bản thân đang trải qua bệnh tật, sự cố…
Ai cũng có lúc nóng giận, nếu mình hiểu thì sẽ không khiến ngọn lửa trong họ cháy phừng. Tôi im lặng và không bỏ mặc, cuối cùng cũng nghe được thổ lộ từ bạn. Bạn bị nhiều áp lực trong công việc: sếp chèn ép, đồng nghiệp tìm cách chơi khăm, lương không cao, phải chật vật trang trải cuộc sống…
Tất nhiên, nhiều người khó khăn hơn nhưng họ không nổi nóng. Đó là tính cách và sức chịu đựng của từng người. Sự nóng tính là một thói quen được huấn tập hằng ngày theo nguyên lý:
"Thói quen tạo nên tính cách, tính cách tạo nên số phận".
Vì thế, các chuyên gia tâm lý khi chia sẻ với tôi về thói vũ phu của chồng vẫn thường lưu ý, có thể anh ấy từng bị bạo hành lúc nhỏ, từng sống gần những gia đình lớn tiếng, ồn ào đánh cãi nhau như cơm bữa.
Sự tác động của cuộc sống xung quanh lên tính cách con người theo hướng đó được ông bà xưa đúc kết rằng "gần mực thì đen". Cái đen đó cần có thời gian thanh lọc để dần trắng, nhưng nếu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng trong môi trường đen hơn thì sẽ đen đậm hơn.
Ngày nay các văn hóa phẩm mang tính bạo lực vẫn đầy rẫy trên mạng và tồn tại trong cuộc sống, giải trí của nhiều người: từ game online đến phim ảnh. Thường ngày tiếp xúc với sự đánh đấm, máu me trong các "thức ăn tinh thần" đó khiến não quen với những "mùi vị" của bạo lực, từ đó hành xử theo.
Những kẻ "giang hồ mạng" được ngưỡng mộ và thu tiền trăm triệu cũng chính là một "hình tượng" khiến người ta thay đổi suy nghĩ: cần gì học hành, tử tế, chỉ cần có "số má" là có thể lên đời.
Môi trường bên ngoài đã vậy, trong nhà trường, gia đình cũng đầy mầm mống bạo lực, tránh sao người trẻ không hoang mang và hành xử theo cách tương tự. Đây mới là điều đáng lo, và người lớn muốn thay đổi không khí bạo lực lan tràn thì chính bản thân phải nỗ lực để ứng xử nhẹ nhàng với nhau trước.
Nhẫn để yêu thương
Không thể có kết cục tốt với những người nóng nảy. Nhân vật Trương Phi trong Tam Quốc Chí là hình mẫu của nóng tính dẫn đến hư sự và mang họa sát thân. Ai cũng nóng nảy trong hành xử thì chiến tranh sẽ nổ ra, thương vong là tất yếu.
Một câu nói đùa cũng thành chuyện lớn vì con người ta quá nóng, quá hung dữ; đi nhậu lo hát karaoke cũng bị đánh chết thì… ôi thôi, cuộc sống quá kinh khủng. Pháp luật cần nghiêm minh để trừng trị việc vô cớ đánh, giết người nhưng đó là xử lý phần ngọn, còn cái gốc vẫn là giáo dục.
Làm sao để con người có thể chậm lại để phân tích kỹ hơn từng câu nói, từng biểu hiện của người khác, trong đó có thân nhân, bạn bè mình để không chụp mũ rồi hành xử như người điên, người say?
Sống thiền hay bình tĩnh sống, sống chậm, sống có chánh niệm… là những cách sống theo tinh thần "nhẫn để yêu thương". Đầu tiên là thương mình. Một người chỉ được người khác tin tưởng, nể trọng và giao việc khi có sự chín chắn, điềm tĩnh trong xử lý. Như vậy, người sống có lý trí, điềm tĩnh chính là cách sống lợi lạc tự thân.
Còn cái lợi cho người xung quanh, nhất là người thân - thương thì cũng dễ dàng để thấy. Con cái sẽ học được nhiều điều hay ho từ bố mẹ có cách sống nhẹ nhàng, tình cảm. Đó mới là gia tài quý giá để lại cho con.
Hành xử nóng tính dẫn tới hư việc, hại người thì vòng lao lý chờ mình là chắc chắn. Một khi đã gây ra sự cố mới hối thì đâu còn kịp. Nhiều người bình luận thiếu niên 16 tuổi rút dao đâm chết người nhắc mình chuyện chạy xe chính là "anh hùng rơm", chứng tỏ với bạn gái nhưng rồi được gì sau lần ra tay đó? Tù tội và có thể mất luôn bạn gái.
Ai đợi và ai chấp nhận một người giết người làm người yêu, người chồng, người cha tương lai?
Thực ra, sân si - ai cũng có. Cái chính là cách quản lý năng lương tiêu cực đó để những năng lượng tích cực phát triển. Để làm được điều đó, phải xây dựng lối sống nhân văn từ chính mỗi gia đình, người lớn dạy trẻ nhẫn nhịn để an lành như ông bà mình nhắc "một câu nhịn chín câu lành".
Cuộc thăm viếng vẫn tiếp tục nhưng hình ảnh của Tôn Long Mỹ qua những năm tháng trong tù như một đoạn phim hiện ra trong trí nhớ của tôi:
Mỹ nhỏ hơn tôi 5 tuổi, vóc người tầm thước, khỏe mạnh và xốc vác. Tính tình thuần hậu, phóng khoáng. Anh rất sùng đạo Phật. Tuy nội quy cấm mọi hình thức có tính cách tôn giáo, nhưng Mỹ vẫn cố lén ăn chay vào ngày mồng Một và ngày Rằm âm lịch..
Ban giám thị trại chỉ định đội 3 phụ trách xây dựng chiếc cầu treo bắc qua dòng sông Côn để dân chúng làng Thượng và tù nhân có thể qua lại trong mùa nước lũ. Bên kia sông là cánh đồng rộng chạy dài đến tận chân đèo. Mỗi năm, tù phải sản xuất đủ ba mùa lúa. Mùa mưa thì tháo bớt nước ra, mùa nắng thì thay nhau đêm ngày tát nước lên đồng.
Hai bên bờ sông toàn là đất núi bị nước xoi mòn lâu ngày thành sông. Người ta chọn nơi có hai mô đất nhô ra là nơi hẹp nhất của dòng sông để bắc cây cầu đi qua. Những ngày đầu khởi công, đội làm cầu phải đào đất, đóng kè xây dựng hai môi cầu cho vững chãi để giữ chân bốn thanh đường ray xe lửa làm trụ chịu đựng sức trì kéo của cây cầu treo dài 80 mét.
Mùa lũ, nước chảy xiết đã khoét lõm sâu vào chân dọc hai bên bờ. Ðể nâng giữ khối đất phía trên khỏi bị sụp lở, tù phải xây những lớp đá vào chỗ lõm bên dưới. Ðang trong mùa nắng hạn mực nước sông xuống thấp tận cùng nên hai môi cầu là hai khối đất khổng lồ đứng chênh vênh bên bờ vực. Ðám tù hì hục đưa đá tảng lấp đầy khoảng trống dưới chân môi cầu.
Mỹ là tay thợ xây trong toán cất nhà cửa từ ngày vào tù. Cách làm việc của anh là tận lực, yêu nghề và tinh thần trách nhiệm cao mặc dầu anh chỉ là tù nhân. Mỹ có quan niệm : Bất cứ lãnh vực nào người sỹ quan Miền Nam phải thể hiện tài năng trước bọn cai tù. Ðừng để họ lấy cớ sự sai sót mà mạt sát lăng nhục mình. Chính vì thế mà anh nhận công việc nặng nề nhất là xây bệ đỡ cho khối đất bên dưới môi cầu.
Hàng trăm viên đá chẻ được một đội tù khác cung cấp chất đống trên mô đất dự định xây móng chân cầu. Sức nặng của đống đá cùng với sự hỏng chân của doi đất, khối đất trên đầu Mỹ bất ngờ đổ sụp. Mỹ bị chôn sống dưới khối đất khổng lồ. Bạn tù đã nổ lực đào bới để cứu anh. Nhưng, con người chỉ là sinh vật bằng xương bằng thịt làm sao chịu đựng nổi sức nặng hàng chục tấn của đất đá đè lên. Xác anh cuốn tròn mềm nhũn như con sùng. Nước mắt chúng tôi chảy ràn rụa. Lần đầu tiên người tù không che dấu dòng lệ của mình trước mặt bọn cai tù. Mỹ ra đi để lại nỗi đau đớn tận cùng cho người vợ trẻ và hai đứa con thơ.
- Thưa bác, đây là vị Tiên tri Joseph Smith được Chúa mặc khải viết ra Giáo Lý và Giao Ước. Cũng là vị Chủ tịch đầu tiên của Giáo Hội bầu ra tại một buổi họp của Hội Ðồng Thượng Phẩm trong ngày 24 tháng Chín năm 1834 tại Kirtland, Ohio.
Lời giới thiệu của Thuật làm tôi bừng tỉnh. Trước mặt tôi là bức tượng bán thân bằng đồng đỏ mà mắt tôi chỉ nhìn thấy thân thể của Mỹ đầy máu. Tất cả xương trong người anh từ đầu đến chân hầu như nát vụn. Thi hài anh khi được khiêng lên nó oằn xuống thoạt trông như một chiếc bao tời đựng thịt. Ðầu và mặt anh hoàn toàn bị biến dạng . Ðến đây, tôi không còn tinh thần và hứng thú để đi xem hết các công trình nghệ thuật trong viện bảo tàng nữa nên cáo từ Thuật ra về.
Sáng ngày hôm sau, tôi nhận được cú phôn của Thuật thật sớm mời tôi đến nhà hàng Mỹ Tiên vào lúc 12 giờ trưa, nhân tiện me của cậu xin phép được gặp mặt.
Tôi vừa đến cửa nhà hàng, Thuật đã vội vàng ra đón. Một phụ nữ mặc áo dài màu khói hương đứng dậy cúi đầu:
- Kính chào ông anh.
Tôi thật sự xúc động, khi Thuật giới thiệu đây là me của cậu. Khuôn mặt người đàn bà thanh tú, phúc hậu nhưng trong ánh mắt vương vất nỗi buồn. Tôi cúi đầu chào đáp lễ, rồi ngồi vào chiếc ghế đối diện mà Thuật vừa mới kéo ra mời.
- Thưa ông anh, giọng Huế nhè nhẹ, trầm buồn, người đàn bà tự giới thiệu:
- Em tên là Trương Thị Ngọc nghe cháu Thuật nói gặp được ông anh, người ở cùng chung trại tù An Ðiềm với ba nó. Em mừng lắm. Mặc dầu anh Mỹ mất đã gần 25 năm mà lòng em cứ phân vân, thắc mắc mãi khi nhận được giấy báo của trại tù rằng chồng em chết vì bệnh nhiễm trùng gan cấp tính. Trong khi đó đã hai lần em được anh ấy về báo mộng với khuôn mặt đầy máu me nhìn em trong đau đớn. Hình ảnh đó chưa phai mờ trong trí nhớ của em. Trước khi đi Hoa Kỳ, chúng em có đến trại An Ðiềm để xin dời mộ nhưng Ban Giám Thị trại không xác định được vị trí nơi chôn anh Mỹ, còn tù nhân toàn là lớp hình sự sau này. Cái nghĩa địa tù bị nước trên đỉnh núi cao đổ xuống xói mòn gần hết. Em vô cùng đau khổ, đến lúc ra đi mà chưa lo cho chồng được mồ yên mả đẹp. Hai đứa con em biết rõ niềm trăn trở đó, chúng nó luôn luôn cầu nguyện mong được gặp người biết rõ về cái chết của ba chúng. Cách đây hai đêm, em nằm mộng thấy nhà em về chùa. Trong cơn mơ em mừng quá chạy đến ôm anh ấy nhưng hình hài đó tan biến ngay. Không biết có phải đây là điềm báo của anh Mỹ rằng em sắp gặp được ân nhân. Em hy vọng ông anh biết rõ cái chết của chồng em và còn nhớ địa điểm mộ phần của anh ấy.
Người phụ nữ nói một mạch như trút cả nỗi lòng u ẩn bấy lâu nay. Tôi trân trọng trước lòng trung trinh tiết nghĩa của người vợ sống trọn đời thờ chồng nuôi con. Trước khung cảnh này đây, tôi không muốn khơi lại hình ảnh cái chết khủng khiếp của Mỹ. Tôi không muốn tạo thêm sự khủng hoảng trong lòng mỗi người. Vì thế, buộc lòng tôi phải lặng thinh xem như đồng lõa với sự dối trá của một chế độ luôn luôn che đậy sự thật và chối bỏ trách nhiệm của mình.
- Thưa chị, tôi lên tiếng. Cái chết của anh Mỹ, anh em tù chúng tôi đau lòng lắm. Ðời người chỉ một lần chết, tiếc rằng anh ra đi quá sớm. Phải chăng định mệnh đã an bài. Mong chị và các cháu thôi băn khoăn về nó nữa. Tôi vẫn còn nhớ chỗ chôn anh ấy trong nghĩa địa tù. Hứa với chị khi về lại Cali, tôi sẽ vẽ sơ đồ địa điểm ngôi mộ của anh Mỹ.
Khi tôi ngưng nói, bà lấy khăn thấm giọt lệ còn đọng lại trong khóe mắt, rồi tiếp lời:
- Thưa ông anh, nếu được, xin gởi cho em bản vẽ địa điểm mộ của anh Mỹ càng sớm càng tốt. Cuối năm này, cháu Thuật đi Việt Nam với phái đoàn thuộc "Hội Bạn Người Cùi Việt Nam" trụ sở ở Mỹ kết hợp với nhóm "Vòng Tay Bạn Bè" ở Hà Nội làm công tác thiện nguyện ủy lạo, giúp đỡ và chăm sóc cho những người mắc bệnh cùi. Nhân dịp này em sẽ theo cháu về dời mộ cho ba chúng nó
Thuật đang ngồi yên trong góc bàn chăm chú nghe, tôi liền quay sang hỏi:
- Cậu về Việt Nam công tác bao lâu ?
- Cháu tình nguyện một năm.
- Sao lâu đến thế !
Bà mẹ tiếp :
- Cháu nó theo ngành Y, còn một năm cuối cùng thực tập trong bệnh viện ở tiểu bang này trước khi ra trường. Người yêu của nó là nữ sinh viên Việt Nam qua Mỹ du học. Chúng nó yêu nhau và dự tính sau chuyến đi này trở về sẽ tổ chức đám cưới tại đây. Thằng con em, nó sống cho tha nhân. Sẵn lòng dấn thân giúp đỡ cho người nghèo khổ, hoạn nạn dù bất cứ dân tộc nào. Hai chị em nó có cùng một quan điểm: “Thương người như thể thương thân.”
Tôi ngắt lời :
- Vậy hiện giờ cháu gái ở đâu?
- Cháu có chồng là một Mục Sư Tin Lành người Mỹ hiện ở Colorado. Trận thiên tai, bão lụt nào ở Việt Nam bị thiệt hại nặng nề là vợ chồng nó đều gởi về cả tấn áo quần, chăn mền do Thánh đường quyên góp.
Sau bữa cơm trưa tại nhà hàng, tôi từ biệt mẹ con Thuật ra về. Một tuần lễ sau tôi lên máy bay trở lại tiểu bang Cali. Ðể thực hiện điều mình đã hứa, tôi ôn lại vị trí của nghĩa địa tù An Ðiềm để vẽ cách nào đơn giản nhất mà gia đình của Mỹ có thể tìm được mộ anh dễ dàng. Tôi không tưởng tượng được hiện giờ nghĩa địa ấy bị hoang phế ra sao, nhưng chắc chắn là nước mưa từ trên núi đổ xuống đã san bằng tất cả. Những tấm bia bằng gỗ tạp trải qua trên hai chục năm không thể tồn tại với thời gian. Rất may là ngôi mộ của Mỹ nằm sau gốc một cây đại thụ che chắn. Nước có thể xoi mòn phần trên mặt nhưng xương cốt Mỹ nằm sâu dưới đất không thể trôi theo dòng nước. Trong sơ đồ, tôi ghi rõ trên thân cây đó có bốn nhát búa hình chữ M do anh em tù trong đội thay nhau khắc vào. Ðó là dấu tích mà tôi hy vọng gia đình của Mỹ sẽ tìm ra.
Nhận được bản phác họa chỉ dẫn,Thuật điện thoại sang cảm ơn và tin cho tôi hay tháng tới sẽ lên đường về Việt Nam.
Ba năm sau, tôi trở lại Utah trong mùa Giáng Sinh. Ðồi núi vây quanh thung lũng rộng lớn trở thành những dãy núi tuyết sáng trắng. Tuyết phủ đầy trên mái nhà và tràn ngập hai bên lề đường.
Trong ngày Giáng Sinh, tôi theo đoàn người tiến vào khu Temple Square. Vừa bước chân vào đây là tôi cố ý tìm gặp cậu Tôn Long Trương Thuật để hỏi thăm tin tức về mẹ cậu và việc dời mộ của bố cậu như thế nào. Tôi dạo trong khu Tabernacle nổi tiếng với cây đàn Orchestra khổng lồ gồm 11,000 ống tupe kim loại ghép lại. Có thể nói đây là cây đàn lớn nhất thế giới. Rồi đến khu Conference Center, chứa 21,000 chỗ ngồi và 900 ghế cho ca đoàn. Hội trường được thiết kế với kỹ thuật hiện đại mà âm thanh của hai mảnh giấy cọ vào nhau trên khán đài, người ở cuối phòng cũng nghe được. Sau cùng, tôi tìm tới khu Joseph Smith Memorial Building, nơi đây chung quanh tường có những phù điêu chạm khắc mỹ thuật và tinh xảo nhưng vẫn không thấy Thuật đâu. Tôi ra về mà nghe lòng mình trống trải vô cùng.
Ngày mồng một âm lịch, tôi đến viếng cảnh chùa Tam Bảo. Những bông tuyết rơi đầy trời, phủ trắng cả sân chùa như trải thảm bằng bông. Hàng cây kiểng chạy dài trước sân lung lay những mảnh tuyết vỡ trên cành lá. Tôi đang dạo bước trên lối đi vào chánh điện, chợt một ni cô đến trước mặt tôi vái chào. Tôi sững sờ khi nhận ra người phụ nữ ba năm về trước,Trương Thị Ngọc. Bà cho biết đã quy y mang pháp danh Diệu Ngọc. Chỉ ba năm thôi mà trông bà cằn cỗi, già đi rất nhiều. Ðôi mắt tràn ngập nỗi ưu tư, sầu não. Bà mời tôi vào nhà khách dùng trà. Ni cô lên tiếng:
- A Di Ðà Phật, trước tiên bần ni xin đại diện gia đình bày tỏ lòng tri ân đến ông anh. Nhờ bản vẽ địa điểm ngôi mộ rõ ràng từng chi tiết nên chúng tôi đã tìm được mộ phần của anh Mỹ khá dễ dàng. Hài cốt của anh ấy đã được đem qua đây thờ trong chùa. Những tưởng linh hồn anh Mỹ được thanh thoát... Nói đến đây, chợt những giọt lệ long lanh trong mắt của ni cô trào ra.
Tôi ngạc nhiên, vội hỏi:
- Ðã có chuyện gì xảy ra?
Ni cô cúi đầu để dấu đi những giọt lệ mà một sa di cần phải đè nén. Hồi lâu bà mới ngẩng mặt lên:
- Sau một năm chăm sóc những nạn nhân bệnh cùi ở Việt Nam, cháu Thuật trở lại Hoa Kỳ. Ban đầu, Thuật trốn tránh người yêu của nó và cuối cùng quyết định dứt khoát không còn liên lạc với nhau. Một thời gian sau, trên mặt cháu xuất hiện những mụn sưng đỏ. Tôi hỏi, nó lảng tránh, không trả lời. Dần dần cháu nó ít về nhà hơn. Cách đây một năm, cháu về Việt Nam ở lâu dài. Vừa rồi tôi nhận được thơ của nó.
Bà ngưng kể, lấy trong túi áo trao cho tôi một lá thư đã nhàu, nội dung khá ngắn gọn: “Có lẽ ý muốn của Chúa dành cho con một đời phải hy sinh phục vụ cho nhân sinh đang gánh chịu nỗi thống khổ của căn bệnh hiểm nghèo. Con rất thỏa lòng khi chính bàn tay mình thoa dịu được nỗi cô đơn của bao người bất hạnh. Tuần này ở trại cùi Quy Hòa thuộc tỉnh Bình Ðịnh. Tuần sau có thể ở làng phong cùi Ðồng Lệnh tận tỉnh Tuyên Quang để chăm sóc cho các bệnh nhân. Mong me xem con như được Chúa đón đi từ lúc mới lọt lòng.”
Chờ tôi đọc xong bức thư, bà tiếp :
- Khi hiểu ra thằng con đã mắc bệnh phong cùi, tôi đã khóc suốt đêm trường. Mỗi lần nghĩ đến nó là lòng tôi quặn thắt như đứt từng đoạn ruột, tê dại cả tâm hồn.
- Thưa bà, tôi lên tiếng an ủi : Có phải chăng đây là sự sắp đặt củaThượng Ðế? Theo tôi được biết bệnh phong cùi không dễ truyền nhiễm cho người chăm sóc khi đã ngăn ngừa đầy đủ, vả lại đã có thuốc điều trị tổng hợp từ thập niên 70 – 80. Thuốc tiêu diệt được vi khuẩn, giảm thiểu lây lan.
- Nhưng, thưa ông anh, bà mẹ của Thuật nhìn tôi không còn là ánh mắt một ni cô mà trở về với ánh mắt chuyên môn của một y tá viên điều dưỡng, nghề nghiệp của bà ngày xưa:
- Thuốc có thể chữa lành bệnh với đa hóa trị liệu nầy, nhưng không phục hồi được tổn thương của dây thần kinh làm biến dạng mặt, biến dạng bàn tay bàn chân. Ðó là những dấu tích mà con tôi phải chịu đau lòng, mang mặc cảm tủi nhục suốt đời của người mắc bệnh phong cùi !
Nói đến đây, bất chợt ni cô Diệu Ngọc ôm ngực chạy về hướng tịnh thất.
Tôi thật sự xót xa trước nỗi đau của người mẹ như đã nhận lãnh cơn đau của con trai mình. Riêng về Thuật, tôi cảm nhận được đức tin cao cả của chàng. Ðức tin đã vượt lên trên những ước vọng tầm thường mà người phàm đeo đuổi. Tôi tin rằng Chúa sẽ dẫn dắt cậu ấy đi trọn vẹn cuộc đời hạnh phúc sống vì tha nhân.
Chỉ biết ngậm ngùi, tôi đẩy cửa bước ra ngoài. Gió mỗi lúc mỗi mạnh thổi nghiêng ngả hàng cây trụi lá đứng chơ vơ hai bên đường. Cái băng giá ngoài trời làm tăng thêm nỗi u hoài trong tôi. Lê đôi chân nặng trĩu, tôi bước đi dưới bầu trời đang cơn bão tuyết. Từng mảnh tuyết hắt vào mặt tôi như những mảnh vỡ thủy tinh thay nhau cứa vào da thịt tôi rát buốt. Tôi vuốt mặt, tuyết tan ra nhơn nhớt trên đôi tay. Bất giác, tôi có cảm tưởng như máu và đất trộn lẫn nhầy nhụa trên tay tôi ngày nào đã vuốt mắt cho Mỹ khi xác anh nằm bất động trên bờ sông Côn. Tôi lau nhanh những giọt lệ đọng bờ mi trước khi bước lên chiếc xe bus cửa mở sẵn đợi chờ.
Bức ảnh hàng nghìn người đứng chờ sao Hàn đang gây sốt cộng đồng mạng
Ngày 10 tháng 9 vừa qua, 1 anh diễn viên Hàn quốc tên là Ji Chang Wook, đến Việt Nam để tham dự 1 sự kiện của cô ca sĩ Diệp Lâm Anh nào đó ở Sài Gòn. Wook đuợc đón chào với vài ngàn thanh niên ở sân bay. Sau đó, hàng hàng nghìn người hâm mộ đã có mặt vây kín khu vực diễn ra sự kiện tạo thành khung cảnh hỗn loạn, nhốn nháo. Đến nỗi anh diễn viên Hàn phải bỏ về vì lo sợ.
Nhìn sang Hong Kong ta thấy những người tuổi trẻ dám mang trên mình vận mệnh của đất nước, dân tộc, dù họ biết rằng cái giá phải trả là sinh mạng. Tuổi trẻ Hong Kong có mê nhạc, mê phim ảnh không? Chắc chắn là CÓ. Nhưng trên tất cả là lý tưởng phụng sự tổ quốc, dân tộc, nhất là khi tổ quốc lâm nguy.
Tuổi trẻ Việt Nam ngày nay không có lý tưởng. Vì không lý tưởng nên bơ vơ. Tuổi 20 của người Hong Kong là sứ mạng lịch sử, tuổi 20 của Việt Nam chỉ biết đắm mình vào các lạc thú tầm thường ăn, ngủ, game shows, làm tình…v.v… Họ không còn 1 ai để tin yêu, nên chọn thần tượng với những cái tên lạ hoắc để tôn thờ. Họ có thể khóc lóc vui buồn với những nhân vật này, nhưng hoàn toàn làm ngơ khi giặc tàu đang xâm lấn bờ cõi, thờ ơ với cả những bất công nặng nề đang ngày ngày diễn ra khắp nơi trên đất nước.
***
Không phải là tuổi trẻ VN thua kém HK về bản chất, mà chính là thể chế chính trị độc tài hà khắc VN đã biến họ thành những con người như thế. Hơn 40 năm qua, các nhà lãnh đạo VN đã thành công hèn hoá 1 dân tộc. Tuổi trẻ VN được dạy không nên quan tâm chính trị, chính trị là xấu, là nguy hiểm. Kèm theo là lực luợng công an, nhà tù sẳn sàng đè bẹp mọi manh nha phản kháng.
Tuổi trẻ VN không hề tệ, đã từng có 1 Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha dám lên tiếng chống tàu, và chấp nhận ngồi tù. Gần đây có sinh viên Trần Hoàng Phúc của miền nam, và Phan Kim Khánh ở miền bắc. Họ rất trẻ, có lý tưởng và hoài bão về một Việt Nam dân chủ, thịnh vượng. Họ không thua gì Hoàng Chí Phong của Hong Kong. Tiếc là trong 1 thể chế toàn trị, họ phải trả giá bằng những án tù rất nặng, khát vọng cống hiến cho đất nước đã bị dập tắt từ trong trứng nước.
Hôm nay, tuổi trẻ Hong Kong hơn Việt Nam mọi mặt, từ trí tuệ đến tâm hồn và cả nhận thức. Mình không chê trách tuổi trẻ Việt Nam. Đó là 1 kết cục không thể khác, 1 mối quan hệ NHÂN – QUẢ rất rõ ràng. Hoàng Chí Phong mà ở Việt Nam sẽ chỉ là một thanh niên tầm thường, chắc là đang có mặt trong đám đông ồn ào chào đón diễn viên Wook 2 hôm trước.
***
Nhưng một đất nước mà tuổi trẻ thờ ơ với chính trị là 1 đất nước không có tương lai, một đất nước tội nghiệp. Thể chế chính trị là nền tảng tối quan trọng, quyết định sự thành bại của một đất nước. Cùng 1 dải đất, cùng dân tộc, tiếng nói, màu da, nhưng Nam Hàn phát triển vượt bực, trở thành 1 quốc gia đáng ngưỡng mộ, còn Bắc Hàn như địa ngục trần gian.
Lãnh đạo VN chỉ là những kẻ nguỵ yêu nước. Họ không hề ưu tư đến vận mệnh quốc gia, không biết xấu hổ khi nhìn ra thế giới. Họ chỉ yêu tiền và quyền, và đã rất thành công nhào nặn ra 1 thế hệ tuổi trẻ bơ vơ không định huớng.
✔️ Yêu nước gì mà dành độc quyền cai trị, mặc cho đất nước tan hoang về cả phần vật chất lẫn phần hồn.
✔️ Yêu nước gì mà cán bộ thì sắm biệt phủ đền đài, còn dân đen lầm than khắp chốn.
✔️ Yêu nước chỗ nào, khi không cho dân tham gia phản biện, không đuợc tự do báo chí, biểu tình thì bị bắt bớ đánh đập. Ngoài biển khơi, giặc tàu đang nghênh ngang xâm phạm lãnh hải, khống chế tài nguyên ở bãi Tư Chính, nhiều năm qua ngư dân miền trung bị bắn giết xua đuổi mà không hề dám can thiệp.
***
Nhìn Hong Kong hôm nay không phải để chê trách tuổi trẻ Việt Nam, bởi nguyên nhân chính là cái thể chế chính trị hủ lậu, chỉ phục vụ cho 1 nhóm người nhân danh nhân dân, đất nước.
Chỉ muốn nhắn với các ngài rằng, triều đại nào rồi cũng phải suy tàn, nhưng lịch sử sẽ đời đời nguyền rủa những kẻ ăn tàn phá hại, độc ác với nhân dân, biến Việt Nam thành 1 đất nước tội nghiệp.
Phần lớn những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh những chiếc ghế. Lúc đầu, ghế tượng trưng cho chức vụ, chức năng. Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền, chức tước.Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình. Người Pharisêu thích ngồi ghế danh dự trong hội đường. Giacôbê và Gioan thích ngồi hai bên tả hữu Thầy Giêsu. Philatô cho đóng đinh Ðức Giêsu vô tội, vì ông sợ mất ghế.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy các khách dự tiệc cứ chọn ghế nhất mà ngồi. Con người vẫn bị ám ảnh bởi những chiếc ghế. Chiếu trên, chiếu dưới chẳng phải là chuyện xưa ở đình làng. Ngày nay vẫn có những bạn trẻ cố kiếm được mảnh bằng và chỗ làm lương cao để ung dung hưởng thụ một chỗ đứng trong xã hội.
"Ai tôn mình lên, dù lộ liễu hay kín đáo, sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống. Ai thực tâm hạ mình xuống qua việc phục vụ, sẽ được Thiên Chúa tôn lên." Ðức Giêsu mời ta vượt qua thói háo danh, để sống khiêm tốn.
Khiêm tốn không phải là giả vờ tự hạ để được nâng lên.
Khiêm tốn không phải là coi thường mình hay sợ người khác.
Khiêm tốn không phải là rụt rè, không dám nhận trách nhiệm.
Khiêm tốn là biết mình đã nhận tất cả từ Chúa, và lớn lên mỗi ngày nhờ tha nhân.
Người khiêm tốn không sợ chức vụ cao hay ghế nhất.
Chiếc ghế không phải là mục đích họ cần chiếm được, nhưng là phương tiện để phục vụ mọi người.
Chức vụ cho họ cơ hội cúi xuống thật gần với nỗi đau của nhân loại đang chờ họ giúp đỡ.
Người khiêm tốn không tự tìm vinh quang cho mình, họ hồn nhiên vô tư để Thiên Chúa tự do định liệu. Chúng ta dễ đánh giá người khác dựa trên ghế của họ. Nhưng một người quét đường có lương tâm còn giá trị hơn một giám đốc tham ô lãng phí.
Ðức Giêsu nói đến việc chọn khách để mời ăn. Ngài khuyên nên mời những kẻ nghèo khó, tật nguyền, hơn là mời những người ruột thịt, thân quen, giàu có. Ngài đưa chúng ta vượt qua óc tính toán vụ lợi, để đi vào thế giới của những người bất hạnh. Chúng ta thường thích giao du với người có thế giá, có học thức, có của cải, để dễ nhờ vả khi cần. Chính vì thế xã hội vẫn còn nhiều người bị bỏ rơi, vì nghèo túng, kém cỏi về mọi mặt. Hãy ra khỏi thế giới quen thuộc của mình, để đến với những người cần chúng ta hơn. Bao trẻ em ở vùng xa cần giáo viên. Bao bệnh viện ở các huyện cần bác sĩ. Ước gì chúng ta hạnh phúc khi cho không tính toán vì thấy mình đã nhận được gấp trăm điều mình cho.
Nhà hắn nằm sau lưng nhà tôi. Hắn là thằng lai Tây, hơn tôi đâu ba tuổi. Hắn sinh năm 1947 thì phải. Hắn có bố đàng hoàng chứ không phải là thằng con lai hoang. Hắn từng khoe giấy khai sinh làm từ lúc hắn mới sinh, bố hắn là quan ba Pháp, là Capitaine quân đội Pháp. Cũng là thứ dữ chứ chắng phải thường đâu. Sinh ở Hà Nội di cư vào Nam 1954. Mẹ hắn là một phụ nữ đẹp, da bà trắng, mũi cao thon như người Nhật với đôi mắt ướt. Bà lại thường mặc yếm và cái váy đụp như người đàn bà nông dân Bắc bộ nhưng không che hết nhan sắc của bà. Hắn kế thừa nước da trắng, mũi lõ mắt xanh và thân hình to lớn của giống Tây, lại hưởng chút nhan sắc của mẹ nên hắn là thằng đàn ông rất đẹp trai. Cả xóm gọi hắn là thằng Lai. Hắn đẹp không thua gì tài tử Alain Delon, một diễn viên điện ảnh nổi như cồn thời ấy nên tôi gọi hắn là Alain Delai. Hắn cũng khoái được gọi thế với một niềm hãnh diện. Hắn bảo bố hắn bị bắt làm tù binh của Việt minh trong chiến dịch Điện Biên Phủ, sau đó được về cố quốc, bỏ mẹ con hắn lại đi tàu há mồm vào Nam.
Hắn sống cùng mẹ với một ông bố dượng trong căn nhà khá rộng nhưng lúc nào cũng tối om om. Mẹ hắn làm nghề đúc đậu khuôn. Những miếng đậu của bà lúc nào cũng chắc, beo béo. Nhất là những khuôn đậu chiên, vàng dòn ở bên ngoài, mềm mại ở bên trong. Những miếng đậu nóng hổi vừa mới rời chảo mà chấm với chén nước tương đầy ớt trái thì ngon rụng rời. Ký ức tuổi nhỏ của tôi ở xóm bến xe Chợ Cồn đầy những bánh đậu khuôn dòn béo ấy.
Bố dượng hắn đúng phong cách công tử Hà thành, ông chẳng làm ăn gì, lại nghiện thuốc phiện. Tôi không quên được cái phong thái vừa lịch lãm vừa phớt đời của ông. Ông cao lắm, chắc phải mét tám, nhưng gầy, vai so ngang của người nghiện thuốc lâu năm. Tôi nhớ mãi ông vì ông giống y chang hình nhà văn Vũ Trọng Phụng trong cuốn sách gì đó mà lâu quá tôi quên mất. Mà tôi thì khoái đọc mấy cái phóng sự rất đời của nhà văn này hồi mới vào lớp nhất dù ba tôi cấm triệt, bắt gặp tôi đọc loại sách ấy là đánh đòn nặng tay với những chiếc roi mây.
Đó là hình ảnh của một người đàn ông với khuôn mặt gầy xương, má hóp, cổ quấn chiếc khăn kẻ ca rô. Khuôn mặt ông bố dượng hắn đấy. Ra ngõ ông đội thêm cái mũ phớt nỉ hoặc chống cây baton lên nước bóng. Hắn có vẻ sợ bố dượng, nhưng trong ánh mắt xanh xanh của hắn có thoáng chút thù hận không nói ra.
Hắn là thằng nghịch phá nhất xóm, hình như đứa con lai nào cũng thế. Hắn lớn con, liều lĩnh, chẳng biết sợ ai nên đám trai trẻ quanh vùng đều tránh không dám gây sự với hắn. Xóm tôi ở là xóm bến xe Chợ Cồn, dân du đãng tứ xứ tụ về, dân tài xế, lơ xe toàn là dân giang hồ, thế mà ai cũng sợ hắn. Hắn liều lĩnh, bất chấp, trong mọi cuộc đấm đá, hắn là thằng đi đầu, xông vào trước, luôn hỗ trợ cho mấy thằng yếu thế hơn. Hắn liều, nhưng chơi đẹp, không bao giờ ăn hiếp kẻ thế cô, không bao giờ đánh tán mạng kẻ thù. Đánh gục đối thủ, hắn thường xốc nách chúng lên, cho ngổi dựa vào tường, lấy nước, mang bia cho uống, lấy khăn ướt lau mặt cho.
Bởi thế, những tay hảo hớn bến xe đã từng đụng độ với hắn một lần thì đâm ra phục hắn, xem hắn như đại ca. Nhưng hắn không muốn làm đại ca, hắn chỉ ra tay khi thấy chuyện bất bình. Đám cảnh sát ở ngã tư Chợ Cồn cũng ngán hắn. Có lần tay cảnh sát ức hiếp bà già bán rau ở lề đường, hắn bay từ xa đá vào ngực tay cảnh sát làm y bồ ngửa, hắn bảo không được ức hiếp người nghèo, có giỏi thì chơi tay đôi với hắn. Xong nó kéo tay tên cảnh sát vào quán bún bò bà Hưng ngay nơi ngã tư, kêu bún bò xí quách và bia nhậu. Thế là xong.
Khi tôi vào tuổi mới lớn, khoảng mười ba, mười bốn thì hắn đã là một thanh niên vạm vỡ. Hắn rất thích chơi với tôi, hắn bảo hắn khoái cái kiểu sống của gia đình tôi. Tuy là một thằng rất ba trợn, nhưng hắn lại là một thằng rất tình cảm. Hồi đấy, tôi đang tập đàn mandoline, cũng chỉ biết lỏm bỏm thôi, nhưng tối tối không có chuyện đi đâu hắn lại rủ tôi ra đầu ngõ, dưới tàng cây trứng cá, đàn cho hắn nghe. Hắn chỉ thích độc một bài của nhạc sĩ Đặng Thế Phong, bài Giọt mưa thu. Thế mới lạ.
Tôi đàn, hắn hát theo, tôi không ngờ hắn có giọng hát hay thế. Một giọng Bắc chuẩn thật chuẩn, luyến láy đúng điệu, nhịp phách không sai chút nào. Hắn làm tôi khá bất ngờ, bởi tôi biết hắn có chút kiến thức âm nhạc nào đâu.
Giọng hắn thê thiết, buồn, trẩm, có hồn vía ghê lắm. Hắn chỉ hát có một bài đó. Buồn vui chi cũng Giọt mưa thu. Đám cưới, đám ma, sinh nhật, nhậu nhẹt mà có hát là hát Giọt mưa thu. Tò mò, tôi hỏi hắn thì mới biết là ngày xưa ở Hà Nội, lúc tuổi mới lớn, mẹ hắn là láng giềng và cũng là người yêu của nhạc sĩ Đặng Thế Phong. Người nhạc sĩ tài hoa yểu mệnh, mẹ hắn vì thời cuộc cũng long đong. Khi sinh ra hắn, suốt quãng đời trong nôi, mẹ hắn chỉ ru hắn bằng một bài Giọt mưa thu. Bài hát thấm trong máu hắn, nằm mãi trong ký ức hắn và đối với hắn, âm nhạc chỉ có mình bài đó thôi.
Hắn rất thương mẹ, mẹ hắn ít nói, nhiều khi chỉ một ánh mắt nhìn, hắn đã líu ríu làm theo những gì mẹ hắn muốn. Ra khỏi nhà, hắn là thằng du côn, nhưng ở nhà, hắn là đứa con ngoan. Hắn phụ mẹ hắn xay đậu, ép khuôn, gánh hàng ra chợ. Nhìn hắn quấn quýt bên mẹ, thương lắm. Hắn bảo đời mẹ hắn có lắm nỗi buồn, hắn không muốn làm cho mẹ hắn thêm buồn nữa.
Hắn nói thế mà mười tám tuổi, hắn bỏ nhà đi lính sau một trận cãi nhau bốc lửa với ông bố dượng. Mẹ hắn buồn ghê lắm, nhưng cũng đành, bên chồng, bên con, biết làm sao?
Hắn đi lính nhảy dù. Ngày gặp lại hắn với bộ đồ rằn ri, cái mũ bê rê đội lệch, tôi thấy hắn đẹp quá. Bộ đồ lính ấy trong thân hình thước tám hai, với mấy chiếc lựu đạn mini bên hông, đôi bốt đờ sô dềnh dàng trông nó oai hùng quá. Nhìn hắn chẳng khác chi tay lính Mỹ. Tôi chào hắn như mọi khi: Chào Alain Delai, hắn cũng chào lại như mọi lần gặp nhau: Chào thằng em bô giai.
Hai thằng ôm nhau. Từ đó, sau những đợt hành quân, về hậu cứ là hắn dẫn tôi đi ăn chơi. Tôi vừa mới tuổi mười lăm, cao mét sau lăm, mới đứng ngang nách hắn. Hắn dẫn tôi đi mấy cái bar ở ngã năm. Đó là những nơi tôi chưa từng vào và cũng chưa từng biết. Hắn giúp tôi khám phá thế giới ấy. Thế giới của rượu, bia, thuốc lá và gái. Hăn đi đến đâu, mấy em cave theo đến đấy. Hắn đẹp quá mà. Người đàn bà nào lại không thích trai đẹp, kể cả những người đàn bà làm đĩ. Tôi đi với hắn, ngoan ngoãn như đứa em hưởng sái của thằng anh. Đi đến đâu hắn cũng được các em bao, rượu tràn trề, khói thuốc mờ mịt. Cũng có lần vì ganh tức mấy em, đám lính không quân gây sự, hắn đánh đấm một trận ra trò phải vào bệnh viện còn tôi thì trốn nhủi trong cầu tiêu. Ba tôi biết chuyện, cấm triệt, không cho tôi đi chơi với hắn. Nhưng đôi lúc ngồi đàn cho hắn hát Giọt mưa thu, ba tôi cũng chẳng nói gì, có lần khen hắn hát hay. Hắn cũng rất kính Ba tôi, mỗi lần gặp đều khoanh tay thưa ông Đốc rất đàng hoàng.
Năm 1966, lính vùng một của tướng Nguyễn Chánh Thi liên minh với Phật giáo miền Trung ly khai. Tướng Kỳ đem quân ra dẹp. Lực lượng nhảy dù làm nòng cốt dẹp loạn. Khu vực xóm tôi là trung tâm của cuộc giao tranh. Lính ông Kỳ từ ngã tư Chợ Cồn đánh thẳng đường Ông Ích Khiêm tiến tới chùa Tỉnh hội, trung tâm đầu não của cuộc đấu tranh. Súng nồ ì xèo. Lần đầu tiên tôi biết mùi của đạn bom, của chiến tranh. Hai quả M79 rớt ngay sân nhà tôi, tường lủng tứ tung. Cả nhà sợ quá dắt díu nhau chạy vô bàu Thạc Gián. Đêm tá túc nhà người quen, không dám ngủ, nhìn ra trời thấy đạn bay líu ríu, chỉ mong trời mau sáng. Đến sáng thì êm,khoảng trưa thì nghe tin hắn bị thương, một viên đạn M79 quét ngang chần hắn, hai chân nát bét phải cưa đến đầu gối, đang nằm ở Tồng y viện Duy Tân, chỗ làm việc của Ba tôi. Mẹ hắn qua gặp Ba tôi, nhờ giúp.
Tôi vào gặp hắn, hắn xanh xao vì mất nhiều máu, hai chân băng trắng xoá. Tôi chào: Chào Alain Delai. Hắn cầm tay tôi thều thào với nụ cười méo xệch: Chào thằng em bô giai. Hắn bảo hắn không sao, nhưng chỉ thương mẹ hắn, chắc mẹ buồn lắm. Mẹ hắn chỉ biết khóc. Đi chiến đấu bao lần không sao, cuối cùng lại bị thương vì đạn của phe mình. Hắn chửi đụ mẹ mấy thằng rách việc, bày đặt đấu tranh khiến hắn mất cặp giò. Thà ngoài chiến trường nó không tức. Đây lại tàn phế vì đồng đội, có khốn nạn không?
Từ đó, hắn trở thành kẻ cụt chân, di chuyển bằng đôi nạng, hắn vẫn đẹp, nhưng vẻ đẹp của kẻ thiếu đôi chân. Hắn vẫn là thằng giang hồ, đấm đá với đôi nạng, tuy không còn sức mạnh như xưa nhưng hắn vẫn là ông trùm của khu bến xe Chợ Cồn. Tôi chuẩn bị thi Tú tài, nên cũng ít gặp hắn, thỉnh thoảng lại đàn cho hắn hát Giọt mưa thu, giọng hắn lại buồn hơn.
Năm 1968, Mậu Thân, tôi đậu Tú tài hai, đi học xa nhà, đi ta bà thế giới, chẳng có dịp về lại cái xóm bến xe của một thời nên cũng không gặp hắn suốt cả mấy chục năm trời. Thời thế nhiều đổi thay, đời tôi cũng trải nhiều biến cố. Sau 1975, ba mẹ và các em tôi vào hết Sài Gòn, rồi lần lượt phân tán khắp nơi. Tôi chẳng còn ai ở Đà Nẵng nên cũng chẳng hẹn về nên chẳng biết tin tức gì về hắn.
Năm 1985, trong một dịp công tác, tôi trở về xóm cũ. Thay đổi nhiều, người cũ còn lơ thơ, toàn người mới đến. Hỏi thăm mới biết hắn đã đi Pháp theo diện con lai từ năm 1980. Mẹ hắn tự tử chết sau ngày hắn lên phi cơ đến Pháp. Bà tự tử bằng sái thuốc phiện với giấm thanh lấy ra từ cái bàn đèn lưu niên của ông bố dượng hắn. Tôi lại nhớ những miếng đậu khuôn dòn tan của bà, tôi lại nhớ cái nhan sắc rất Bắc của bà, một nhan sắc lầm lũi. Tôi nhớ đến lần đầu tiên tôi thấy bà mặc chiếc áo dài nhung đen với chuỗi hạt ngọc xanh nơi cổ và chiếc khăn quàng hững hờ trong một dịp Tết năm nào đó. Một hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam của một thời đã đi qua. Một hình ảnh rất đẹp đọng mãi trong đầu tôi. Đã nhiều lần tôi muốn vẽ một bức tranh như thế mà vẫn chưa vẽ được vì cái hồn cốt của nhân vật cũng chưa tìm lại được. Bây giờ bà đi xa rồi. Cầu mong bà yên nghỉ. Cũng xong một đời người.
Tôi cũng cầu xin bạn tôi, Alain Delai của tôi sẽ có một cuộc sống bình yên nơi quê nội, chắc là chúng ta sẽ chẳng có dịp để gặp nhau nữa rồi.
Năm 2010, tôi trở lại nước Pháp để hoàn tất một số giấy tờ cho bản thân và gia đình. Chuyến đi dự trù ba tuần lễ, vì tôi nghĩ thủ tục hành chánh rất khó khăn, nhưng không ngờ chỉ trong một tuần lễ, mọi việc hoàn tất suông sẻ. Rảnh thì giờ, tôi đi lang thang.
Tôi đến lại những chốn xưa của một thời long đong và cô đơn ở xứ người. Có nhiều nơi chẳng chút đổi thay dù mấy chục năm đã trôi qua. Tôi đứng trên đồi Montmartre, một khu phố của Paris, quả đồi lớn thuộc Quận 18. Nơi đó là nơi tập trung của nhiều họa sĩ nổi tiếng, cộng với nhà thờ nhà thờ Sacré-Cœur, các con phố nhỏ, quán cà phê, nhà hàng... để nhớ những ngày lang thang vẽ chân dung cho du khách kiếm sống dưới những cánh tuyết mùa đông ẩm ướt.
Tôi tìm về khu Quartier Latin Quận 5 thành phố Paris. Nằm ở tả ngạn sông Seine, khu có nhiều trường đại học nồi tiếng thế giới. Ở đây còn có Điện Panthéon, cung điện Luxembourg trong vườn Luxembourg, Sorbonne, Bảo tàng Trung Cổ...
Nơi đây đầy khách du lịch bốn phương tụ về. Tôi đi bộ trên phố Huchette nằm cạnh sông Seine, hai bên đầu đại lộ Saint-Michel với các con phố nhỏ, lát đá.. khu này có rất nhiều nhà hàng, quán cà phê, cùng các quán bar và nhiều gallery nghệ thuật. Ngày xưa nghèo, đi ngang mà chẳng dám vô. Bây giờ có đủ tiền để làm thực khách thì đi một mình, cảm thấy buồn nên cũng chẳng muốn vào.
Lang thang mãi cũng chán, tôi đi khám phá các metro ở Paris. Métro Paris là một trong những biểu tượng của thủ đô nước Pháp, đặc trưng bởi mạng lưới các tuyến dày đặc, mật độ sử dụng cao và các bến tàu điện ngầm được trang trí theo phong cách Art nouveau. Tôi làm nghề mỹ thuật nên rất ham tham khảo và chiêm ngưỡng những công trình độc đáo này.
Các bến Métro Paris trang trí theo phong cách Art nouveau, được lựa chọn từ năm 1900. Ngay cả trong những lần tu sửa và mở rộng sau này phong cách đó vẫn được tôn trọng. Các vách và trần bến thông thường được lát bằng các viên gạch sành hình vuông hoặc chữ nhật nhỏ màu trắng. Một số bến được trang trí cầu kì hoặc có phong cách rất khác biệt.
Tôi ghé Bến Louvre-Rivoli tuyến 1 mang tên phố Rivoli và Bảo tàng Louvre vào buổi sáng, trời chưa có nắng. Bến được trang trí bằng những bản sao các tác phẩm nổi tiếng của Bảo tàng Louvre, trưng bày trong các hốc tường được chiếu sáng rất đẹp. Chán, tôi lại về Bến Arts et Métiers tuyến 11, vốn mang tên của Bảo tàng Kỹ nghệ Paris (Musée des arts et métiers), khu này toàn phú bằng những rãnh đồng chạy suốt.
Lại định ghé qua Bến Pont Neuf tuyến 7 đặt theo tên cây cầu Pont Neuf. Nằm gần La Monnaie de Paris, chỗ in tiền, nhưng không đến, ngồi nghỉ nhìn đám bồ câu bay.
Loanh quanh toàn thấy quảng cáo. Các tờ quảng cáo được dán trong các ô có viền trang trí và ký hiệu hãng khai thác.
Đang mỏi chân định nghỉ, nhưng rồi lại kêu taxi chạy lăng quăng. Trôi dạt về Gare du Nord. Rổi qua metro Crimée lúc nào không hay.
Không biết sao mình lại giạt về đây, bởi khu này lộn xộn lắm, dễ bị móc túi, người đi lại nhiều lại lắm ăn xin. Nhưng rồi lại tự nhủ, biết muôn mặt của metro Paris cũng là điều thú vị nên dù chân đã mỏi cũng gắng thêm một vòng. Người nườm nượp, ồn ào. Con đường dẫn xuống hầm chật chội. Hai bên có mấy người ăn xin, người đàn, kẻ hát, tiếng trống bập bùng. Một không khí lạ lùng và cũng độc đáo. Trời về chiều, sương xuống sớm, không khí hơi lành lạnh. Đã cuối đông rồi.
Tôi dừng chân, đốt điếu thuốc, khói thuốc tuôn mờ đục. Bỗng trong mớ âm thanh ồn ã ấy, tôi nghe loáng thoáng một giai điệu của bản nhạc Việt Nam. Thoang thoảng thôi, xa xa gần gần như sương khói. Nhưng chắc chắn là một bài hát Việt.
Tôi đi men theo tiếng hát và bắt gặp nột ông Tây già, râu ria lởm chởm, tóc phủ gáy ngồi trên chiếc xe lăn đưa hai chân cụt đến mỏm gối. Ông nhắm mắt hát say sưa bài Giọt mưa thu, hát đi rồi hát lại. Chiếc mũ trước mặt ông cũng có vài đồng tiền giấy và ít tiền xu. Nghe bài hát tôi hình dung ra hắn và tôi đoan chắc chắn là hắn chứ không ai khác. Chỉ có hắn, Alain Dalai mới hát Giọt mưa thu như thế, với giọng như thế và say sưa như thế. Tôi chạy nhanh đến bên lão và hét lớn Chào Alain Delai. Hắn hé mắt, ngập ngừng, nhìn rất lâu vào khuôn mặt tôi, rồi hắn cũng hét lớn Chào thằng em bô giai. Hai đứa tôi ôm nhau, cả hai đều khóc. Không ngờ còn được gặp nhau, mà lại gặp nhau giữa Paris khi tuồi đã già, thời gian chẳng còn bao nhiêu nữa.
Tôi bảo hắn kiếm gì ăn tối, hắn dẫn tôi vào một quán be bé trong con đường nhỏ lát đá với những hàng cây leo. Quán vắng, kêu mấy món ăn, hai chai bia lạnh, hắn kể một đoạn đời mình.
Hắn qua Pháp trong những đợt đầu tiên của chính phủ Pháp giải quyết con lai còn lại ở Việt Nam. Nhờ hắn có giấy khai sinh và một số giấy tờ chứng minh, hình ảnh khác nên nó nhờ các tổ chức xã hội tìm lại bố ruột một cách dễ dàng. Một năm sau khi đến Pháp, hắn được gặp bố. Bố hắn đã già, nhưng rất thương yêu hắn, đó là những ngày hạnh phúc nhất của đời hắn ở nước Pháp. Gia đình bố hắn ở Marseille. Đó là một thành phố cảng của nước Pháp, là thành phố lớn thứ hai của Pháp, sau Paris, và là vùng đô thị lớn thứ ba của Pháp. Hạnh phúc được hai năm thì bố hắn qua đời. Bố hắn có để lại di chúc, có phần thừa kế của hắn. Nhưng hắn lại không đọc được chữ Pháp, nên các anh chị em cùng cha khác mẹ của hắn bảo sao thì nó nghe vậy. Họ bảo nó không được hưởng thừa kế, không có quyền gì trong tài sản bố hắn để lại. Họ giao cho hắn mười ngàn quan, gọi là trợ cấp cho hắn để hắn ra đi. Thân cô thế cô, chữ nghĩa không biết, thân thể què cụt, hắn ngậm đắng nuốt cay, gạt nước mắt rời khỏi nhà làm kẻ lang thang, sống nhờ trợ cấp. Làm kẻ vagabond trôi giạt từ Marseille về đến Paris. Chờ ngày thành tro bụi giữa thành phố hoa lệ này. Mỗi ngày ngồi ở metro hay mấy quãng trường, hát Giọt mưa thu mấy chục năm rồi, để nhớ về mẹ hắn, để nhớ về Việt Nam, một chốn quê không còn chỗ để về.
Đêm đó, lúc chia tay, dù đã say khướt, bởi tôi có biết uống đâu, hai đứa tôi ôm nhau ở cửa quán ăn, tôi lè nhè Chào Alain Delai. Hắn siết vào vai tôi Chào thằng em bô giai. Tôi thấy vai mình ướt đẫm nước mắt. Tôi đẩy xe lăn của hắn một đoạn đường trong khi chờ taxi. Hai thằng già vừa đi vừa ngêu ngao bài Giọt mưa thu, tiếng hát hoà trong nước mắt. Những giọt mưa thu Việt Nam nhỏ xuống con phố nhỏ giữa khuya của Paris đang cuối đông. Lúc tôi leo vào taxi, hắn ngoái đầu lại, đưa tay lên và nói nhỏ Au revoir mon ami.
Hôm sau tôi trở lại Gare du Nord, không thấy bóng dáng hắn đâu. Tôi qua Gare de l’Est, một khu cũng lộn xộn không kém, cũng không thấy hắn. Hắn biến mất tăm. Những ngày còn lại ở Paris, tôi đi khắp nơi để tìm hắn, nhưng hắn đã biến mất như cây kim rơi vào đống sắt vụn. Biết đâu tìm.
Alain Delai! Với cái chân cụt đấy, bạn sẽ đi về đâu mà tìm không thấy?
Thôi thì cũng bắt chước hắn, tôi đến bên con đường lát đá có hàng dây leo tường vi, ngước nhìn lên trời và nói nhỏ Au revoir mon ami!
Cứ 40 Giây Lại Có Một Người Tự Tử, Nhiều Hơn Số người Chết Do Chiến Tranh
Trên thế giới, cứ 40 giây lại có một người tự tử. Thực tế là, chúng ta có nhiều người chết vì tự tử hơn là do chiến tranh.
Đây là tin tức mới nhất từ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) được thông báo hôm thứ Hai (ngày 9/9). Theo thống kê của WHO, treo cổ, đầu độc và dùng súng là những phương pháp phổ biến nhất mà nhiều người sử dụng để tự tử. Thông cáo viết: “Tự tử là một vấn đề sức khỏe cộng đồng toàn cầu. Mọi lứa tuổi, mọi giới tính và các khu vực trên thế giới đều bị ảnh hưởng”.
Tự tử là nguyên nhân lớn thứ 2 gây tử vong ở giới trẻ trong độ tuổi từ 15 đến 29. Trên thế giới, mỗi năm có khoảng 800.000 người chết vì tự tử – nhiều hơn số nạn nhân chết vì sốt rét hay ung thư vú hoặc chiến tranh.
Cũng theo báo cáo, tại các quốc gia giàu có, số vụ tự tử của nữ giới gần gấp 3 lần nam giới. Trong khi tại các quốc gia có thu nhập thấp, tỷ lệ này gần ngang nhau.
Ảnh: Chabad
Nguyên nhân
Khi nghiên cứu về các tác nhân có nguy cơ cao dẫn đến hành vi tự tử, các nhà tâm lý học đã nhận ra nhiều căn nguyên như sau.
Nhân tố quan trọng nhất và dẫn đến nguy cơ tự tử cao nhất là các chứng bệnh về tâm lý, những rối loạn tinh thần, chẳng hạn: tâm thần phân liệt, trầm cảm nặng, chứng rối loạn lưỡng cực (lúc thì vui đến phát cuồng, lúc thì buồn đến mức suy sụp tinh thần) hoặc sang chấn tâm lý mạnh.
Tiếp theo là những nguyên nhân do các chứng bệnh về sinh lý, như bị mắc phải các chứng bệnh nan y, bị khuyết tật hoặc bị mất khả năng vận động do tai nạn đột ngột gây ra… Não bộ bị thương tổn, hoạt động kém hiệu quả ở một vài chức năng nào đó cũng dễ dẫn đến việc tự tử. Những thương tổn sinh lý này gây ra thiểu năng trong quá trình nhận thức và ảnh hưởng đến các hoạt động sống, các quan hệ xã hội của người bệnh. Chúng tác động ngược trở lại tới xúc cảm, tình cảm, tâm trạng… của người bệnh, khiến nguy cơ tự tử của người bệnh tăng cao.
Và cuối cùng là những tác nhân thuộc về môi trường xã hội. Các nghiên cứu và thống kê cho thấy, có những trường hợp tự tử xảy ra do những tác nhân, sự kiện bên ngoài, chẳng hạn như bị người yêu chối bỏ, bị thầy cô giáo phạt, bị bạn bè trêu chọc, bị quấy rối, bị lạm dụng tình dục, bị cưỡng hiếp, bị cha mẹ trách mắng, bị mất cha hay mẹ, cha mẹ ly hôn, bị mất việc, bị sạt nghiệp, bị vỡ nợ, bị phản bội… Đôi khi, nhiều thanh thiếu niên tự tử vì một nguyên nhân rất lạ đời, như thần tượng của họ chết hoặc tự tử, dẫn đến việc họ quyết định chết theo.
Giải pháp
Theo ông Tedros Adhanom Ghebreyesus, Tổng giám đốc của WHO nói: “Các vụ tự tử có thể ngăn cản được”.
Hiện có nhiều bằng chứng quốc tế cho thấy các quy định cấm sử dụng thuốc trừ sâu có mức độ nguy hiểm cao có thể giúp giảm tỷ lệ tự tử ở các quốc gia. Điển hình là Sri Lanka, quốc gia ban hành một loạt lệnh cấm dẫn đến giảm 70% số vụ tự tử và ước tính 93.000 người được cứu sống trong giai đoạn 1995-2015. Tại Hàn Quốc, nơi mà thuốc diệt cỏ được sử dụng nhiều nhất trong các vụ tự sát trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, lệnh cấm thuốc diệt cỏ vào năm 2011-2012 đã giúp giảm 50% số ca tử vong.
Tuy nhiên, trên đây mới chỉ là biện pháp cứng thay đổi từ bên ngoài. Đa phần các trường hợp tự tử đều do vấn đề tâm lý tiêu cực, tuyệt vọng của nạn nhân trong môi trường sống hiện đại. Vậy nên, để giải quyết vấn đề này cần đi từ gốc, chính là thay đổi lối tư duy, nhân sinh quan của mỗi người.
Thực hành lối sống vừa đủ: Cuộc đời có quá nhiều thứ khiến ta truy cầu; khi cố gắng tranh đấu cả đời mà không được, người ta dễ tuyệt vọng và chán nản. Vậy nên, rèn luyện tư duy vừa đủ giúp người ta không ham muốn quá nhiều mà lại biết cách hưởng thụ cuộc sống hiện tại.
Ảnh: Uyplifestyle
Thực hành thiền định: Từ xa xưa, thiền định đã giúp con người có được sự cân bằng tâm lý và nhận thức đúng đắn, đủ tỉnh táo và nhanh nhạy để giải quyết những vướng mắc trong cuộc sống. Thiền định còn là một liệu pháp thư giãn rất hiệu quả, giúp giải tỏa căng thẳng, không để những cảm xúc tiêu cực tích tụ trong thân tâm gây ra những hệ lụy đáng tiếc.
Hành thiện tích đức và sống chân thành: Khi chúng ta chân thành và luôn đối xử tốt với người khác, cuộc đời sẽ trở nên an yên và đầy ý nghĩa. Cũng nhờ vậy, đau khổ tuyệt vọng tự khắc sẽ rời xa.
Đây là một đề tài tôi muốn viết từ lâu nhưng chần chừ mãi, phần vì lười biếng, phần vì thiếu tự tin không biết viết ra có báo nào chịu đăng bài của mình không, không biết có ai chịu đọc không và vì do dự mãi không biết đặt tựa đề như thế nào cho gọn cho đúng với ý muốn của mình. Nay nhân đọc cuốn "Rừng mắm văn nghệ" của Võ Đình, một họa sĩ kiêm văn sĩ tôi sung sướng tìm được nhan đề bài viết của tôi phỏng theo bài viết của ông Võ Đình nhan đề "Sống ở Mỹ viết tiếng Việt". Tôi xin phép ông Võ Đình được đạo văn, thuổng của ông nguyên con tựa đe,à chỉ sửa lại chữ "viết" thành chữ "nói".
Cách đây một năm tôi lên San Jose dự đám cưới đứa cháu, con cô em họ. Trong câu chuyện hàn huyên sau bữa ăn tối, cô em của tôi thuật lại câu chuyện khá vui, nhân tôi khen thằng cháu qua Mỹ từ lúc còn bé tí mà vẫn nói được tiếng Việt mà lại là tiếng Huế nữa. Cô em tôi kể rằng trong một cuộc phỏng vấn nghề nghiệp (interview Job) người phỏng vấn đại diện cho công ty là một người Việt Nam nên ông ta vui miệng hỏi thằng cháu tôi ở nhà nó nói tiếng Việt hay tiếng Mỹ, thằng cháu đã vui vẻ trả lời rằng nó nói tiếng Việt. Người phỏng vấn lại hỏi:
- Anh nói tiếng Việt vùng nào"
- Tôi nói tiếng Huế mọi.
Người phỏng vấn chào thua vì không biết tiếng Huế mọi là tiếng vùng nào. Số là cháu tôi nói tiếng Huế nhưng âm điệu pha lẫn giọng Huế, giọng Saigon và giọng Mỹ thành một thứ tiếng lơ lớ mà dân Huế chúng tôi thường gọi đùa là "Huế mọi" do các sắc dân vùng thượng du ở Huế nói, vì thế cô em của tôi thường chế nhạo thằng con là:
- Mi nói tiếng Huế mọi.
Tội nghiệp cháu tôi cứ nghĩ là có một thứ tiếng Huế mọi trong ngôn ngữ Việt Nam, do đó nó trả lời người phỏng vấn là nó nói tiếng Huế mọi làm ông này cứ ngẩn tò te chẳng biết thứ tiếng gì và ở vùng nào trên dãi đất Việt Nam.
Người Việt Nam tuy sinh sống ở Mỹ nhưng vẫn dùng tiếng mẹ đẻ để giao thiệp với nhau dù tiếng Mỹ có nhiều người còn thông thạo hơn là tiếng Việt. Đây là trường hợp các thanh thiếu niên sinh trưởng tại Mỹ hoặc qua Mỹ lúc còn bé khi chưa có một vốn liếng tiếng Việt khá. Loại tiếng Việt này khá lý thú! Chúng ta nghe thế hệ này nói tiếng Việt tất phải phì cười. Nhưng đây là một căn bệnh rất dễ chữa. Chỉ cần một thời gian chịu khó trau dồi thì sẽ nói tiếng Việt lưu loát và dùng tiếng Việt trong sáng ngay. Tôi có quen một ông bác sĩ thú y trước đây đã từng giữ chức vụ quan trọng trong Bộ canh nông VNCH nên qua Mỹ ngay từ những ngày sôi động năm 1975. Ông có một vài đứa con sinh trưởng tại Mỹ nên có thể xem chúng như những thằng Mỹ con và tôi đã từng được nghe những đứa bé này nói những câu tiếng Việt thật ngộ nghĩnh như:
- Bố bảo con canh chừng không cho ông nội ngồi ngoài vườn lâu nhưng con nói mà nó không nghe nó cứ ngồi ngoài đó mãi.
Hoặc là khi có người gọi phone vào thì thằng bé bảo với mẹ nó rằng:
- Mẹ ơi có ông nào muốn mẹ nè. Con nói mẹ chưa sẵn sàng nhưng nó nói là nó muốn mẹ liền ngay bây giờ.
Con nhỏ em của thằng bé lại nói tiếng Việt thông thạo hơn anh và lại còn dùng văn phạm một cây xanh dờn như:
- Em muốn anh cầm (hái) cho em trái kia kìa, nó ngồi trên cái cành bên kia kìa.
Chúng ta phải chấp nhận cách nói tiếng Việt này của con cháu chúng ta và cố gắng dạy cho chúng nói năng lưu loát hơn.
Nhưng thật khó chấp nhận thứ tiếng Việt lai căng của một số người Việt chỉ mới sống ở Mỹ một vài năm mà lại ở tại đất Cali trong cộng đồng Việt Nam đông nhất thế giới này. Hàng ngày họ nói tiếng Việt trong gia đình, trong xã hội họ cũng tiếp xúc với đồng hương nhiều hơn với người Mỹ. Lưỡi của họ cũng nếm toàn nước mắm trong bữa ăn thường nhật nên chúng ta khó có thể nghĩ là lưỡi của họ đã bị ríu lại nên không thể nói tiếng Việt lưu loát được nữa. Tôi đã từng nghe họ nói một thứ tiếng Việt 7 phần Việt 3 phần Mỹ hay là tứ lục tức là 6 Việt 4 Mỹ. Trong các câu nói bao giờ họ cũng cố gắng chêm vào một số từ ngữ Mỹ cứ y như là họ đã quên tiếng mẹ đẻ và trong lúc nói chuyện thì tiếng Mỹ đã đến trước trong trí óc đã dày đặc tiếng Mỹ. Họ muốn cho ta nghĩ là họ am hiểu tiếng Mỹ, là họ rất giỏi tiếng Mỹ. Nhưng chẳng lẽ nói chuyện với người Việt mà lại xài toàn tiếng Mỹ mà thực ra họ cũng chưa đạt đến trình độ lưu loát tiếng Mỹ như họ mơ tưởng, nên họ bèn chọn phương thức khoe tài tiếng Mỹ bằng cách nói nửa nạc nửa mỡ tức là nửa Mỹ nửa Việt trộn lại với nhau thành một thứ tiếng lai căng, đầu Ngô mình Sở chả ra cái quái gì. Chúng ta hãy nghe những phát ngôn sau đây để thấy sự kệch cỡm, kênh kiệu và đôi khi lại còn để lòi cái dốt ra nữa.
Đây là một cán sự sở xã hội quận Cam nói chuyện với khách hàng Việt Nam, một người không rành tiếng Mỹ:
- Anh chỉ báo cáo chậm một ngày là tôi do something rồi. Nhưng mà Ok, anyway tôi cho anh một cái chance. OK để anh try, OK cho next time, OK"
Trong một câu ngắn mà cô OK tía lia như lính nhảy dù của chúng ta bắn súng đại liên thì thật hết chỗ chê. Lại một hôm tôi vào một cửa hiệu bán sách, may mắn được nghe một ông chủ tiệm nói tiếng Mỹ vi vút như thế này.
- Hiện nay tôi không thể trả lời anh right now được. But anyway tôi sẽ write down cho anh một cái check. Anh yên chí tôi sẽ mail cho anh ngay today.
Nghe những câu nói chắp vá như những cuộc tình của trai tứ chiếng gái giang hồ, tôi bỗng muốn bắt chước hai nhân vật Hứa Do, Sào Phủ bên Tàu chạy vội về nhà để rửa tai. Tiếng Việt Nam ta mà nói đến trình độ này thì thật "Ấy là bệnh nặng" không còn thuốc chữa được nữa. Thử tưởng tượng ngày nào bạn cũng nghe những câu nói tả pín lù, hú hồn, hằm bà lằng, loạn xà ngầu như thế thì chắc là bạn phải đi khám lỗ tai vì bị viêm màng nhĩ. "Speak tiếng Việt" như vậy thì chẳng khác nào ta ăn bánh mì với mắm ruốc trộn với butter.
Tôi đồng ý là có những từ ngữ Việt Nam dùng không đạt, không tới bằng tiếng Mỹ thì ta có thể dùng tiếng Mỹ để thay thế chẳng hạn như: đi shopping, đi dự party, gọi phone vv… trái lại tôi thấy dị ứng với thứ tiếng Việt lai căng kênh kiệu, như động một tí là Wow! My God! Hay Really hay I see vv…thậm chí có người lại dùng tiếng Mỹ một cách kỳ lạ chẳng hạn họ đã dùng tiếng Việt rồi lại kèm theo tiếng Mỹ diễn tả cùng một ý. Ví dụ "Nhưng dù gì thì anyway..." hoặc là "tôi đã cố gắng try..." hay "Xin quý vị đi follow theo sau tôi".
Các bạn có thể nghe một câu như thế này mà không khó chịu thì tôi xin đầu hàng cả hai tay lẫn hai chân: "Mẹ không có free time để talk cho you nghe. Hẹn you some day me sẽ talk more hơn, OK""
Những gì tôi viết trên đây là muốn trình bày với các bạn một khía cạnh trong đời sống trên đất Mỹ. Xin bạn đọc xem như là một câu chuyện khôi hài. Tôi không có tham vọng dạy đời mà chỉ mong mang đến cho các bạn một niềm vui nho nhỏ trong những lúc trà dư tửu hậu. Nếu quý vị say yes thì tôi thank kiu quý vị còn nếu quý vị say No không đồng ý với tôi thì tôi xin sorry quý vị. See you later nhé quý vị.
10 Sự Thật Phũ Phàng Nhưng Lại Giúp Bạn Sống Khôn Hơn
Nếu chưa biết đến những sự thật phũ phàng này, chứng tỏ bạn chưa đủ trưởng thành.
1. Đôi khi chẳng có ai thèm quan tâm đến bạn, trừ khi bạn rất đẹp, hoặc rất giàu, hoặc rất nổi tiếng.
2. Bất kỳ ai cũng có thể ôm bạn ở đằng trước và nói xấu bạn sau lưng. Đề phòng chưa bao giờ là thừa!
3. Trong cuộc chiến mang tên công bằng, tiền sẽ thắng!
4. Sự giàu có của bạn sẽ quyết định việc bạn nhận được bao nhiêu sự tôn trọng từ những người khác.
5. Dù bạn là ai đi chăng nữa, thì mọi người vẫn chỉ trích bạn mà thôi.
6. Không có gì kéo dài mãi mãi.
7. Một người bạn tốt không có nghĩa vụ là sẽ trở thành bạn tốt mãi mãi.
8. Khi bạn thành công, nhiều người sẽ tìm ra được lí do để tung bạn lên trời cao; còn nếu bạn mắc lỗi, bạn sẽ bị nhấn chìm xuống một cái hố đen không lối thoát.
9. Chúng ta dùng cả đời để kiếm tiền, nhưng đến khi chết, chúng ta trắng tay.
10. Bất cứ ai cũng đều đeo nhiều mặt nạ, bạn, tôi, tất cả mọi người!
Để hạnh phúc, hãy nhớ kỹ những điều này
Đừng so sánh ngoại hình của mình với bất cứ ai. Chỉ cần tự tin và yêu thương bản thân mình, tôn trọng người khác, điều đó đã quá tử tế rồi.
Trong phim hay cổ tích, sau khi trải qua biết bao khó khăn, cuối cùng nhân vật chính cũng tìm được "hạnh phúc mãi về sau" với hoàng tử, công chúa của riêng mình. Thế nhưng, hiện thực lại phũ phàng hơn thế nhiều. Hạnh phúc sẽ tan biến trong giây phút nếu bạn không biết cách gìn giữ.
Một sự thật không thể phủ nhận đó là chúng ta luôn nhớ đến ý kiến tiêu cực hơn lời khen. Một lời khen có thể khiến bạn vui cả ngày, song chỉ cần một lời chê cũng có thể khiến bạn cảm thấy chán nản và tự ti trong một thời gian dài.
Mỗi người có một cách yêu khác nhau, bạn không thể ép người khác yêu bạn như cách bạn yêu họ.
Không có gì là mãi mãi, nếu không để ý, bạn sẽ dễ dàng tuột mất thứ đáng ra phải dành cho mình.
Dù quen biết lâu năm đến thế nào, chúng ta cũng không thể hiểu hết tất cả về người khác. Đôi khi, họ không để lộ cảm xúc thật vì một lý do nào đó.
Đời Người Như Vở Kịch, Trước Khi Sinh Ra Kịch Bản Đã Được Viết Xong Rồi
(Ảnh minh họa)
“Sinh tử hữu mệnh, phú quý tại Thiên”, nếu người xưa tin vào thiên mệnh thì người nay chỉ tin vào khoa học. Nhưng chẳng phải vũ trụ bao la có bao điều huyền bí mà khoa học vẫn chưa thể nhận thức được hay sao?
Thời cổ đại có rất nhiều cao nhân có thể dựa vào toán quái mà dự đoán tương lai, coi tướng mặt mà biết được họa phúc, xem phong thủy mà hiểu cát hung gia trạch. Trong cõi vô hình đều đã có định số, sức vóc con người rất khó thay đổi được.
Sinh tử hữu mệnh
Người xưa nói: Mệnh là do Trời chú định. Diêm Vương muốn canh 3 phải chết thì tuyệt đối không thể kéo dài đến canh 5. Khi ấy, không chỉ thời gian đã được định trước mà ngay cả phương thức cũng được định sẵn rồi.
Sách “Thái Bình Quảng Ký” chép rằng:
Thời nhà Đường có vị quan Thái tử Thông sự Xá nhân tên là Vương Biêu. Ông Vương từng nói: “Những gì gặp phải trong đời đều có liên hệ đến vận mệnh. Vận mệnh và sự nghiệp đều đã định trước rồi, không phải cát thì là hung, khi nào đến cũng đã chú định rồi”.
Vương Biêu nhắc lại câu chuyện Võ Tắc Thiên tàn sát dòng dõi của hoàng đế, lúc ấy thế tử bị đưa đến Đại Lý Tự phán tội chết. Thế tử than rằng: “Nếu ta không tránh được cái chết, vậy cớ gì phải vấy bẩn gươm đao”. Nửa đêm, thế tử dùng cổ áo làm dây treo cổ mà tự vẫn. Nhưng đến khi trời sáng thế tử chợt tỉnh dậy, lại nói lại cười, lại ăn lại uống, giống như lúc còn ở hoàng cung vậy. Thế tử kể lại: “Ta vừa chết thì quan âm phủ tức giận nói với ta rằng: ‘Ngươi cần phải bị giết chết, sao lại dám tự tử? Mau mau trở về chịu hình pháp!’. Ta bèn hỏi nguyên cớ tại sao, quan âm phủ liền lấy sổ sinh tử ra đưa cho ta xem. Thì ra đời trước ta đã sát nhân hại mệnh nên đời này phải báo ứng đền mạng”. Bởi thế tử đã hiểu rõ nhân quả báo ứng, thế nên vào giờ phút hành hình sắc mặt vẫn điềm nhiên bình tĩnh, không hề sợ hãi chút nào.
Con người đến cõi thế gian, khi nào chào đời, khi nào về cát bụi, xem ra đã có định số sẵn rồi. Nhân đời trước tạo quả đời này, hành thiện thì tích đức, làm ác thì tạo nghiệp, không việc gì là không phải hoàn trả.
Phú quý tại Thiên
Sách “Năng Cải Trai Mạn Lục” của Ngô Tăng triều Tống chép rằng: Một lần Tống Nhân Tông giá lâm cung điện nghỉ mát, bỗng nghe thấy hai thị tòng đang tranh luận điều gì đó, nói tới nói lui, vô cùng náo nhiệt. Thì ra hai người đang tranh cãi chuyện sang hèn là do ai định ra. Giáp nói: “Sang hèn là do Trời chú định”. Ất nói: “Sang hèn là do Hoàng đế quyết định”.
Nhân Tông nghe xong trầm ngâm suy nghĩ một lúc lâu. Ông quyết định thử nghiệm một chút xem kết quả ra sao. Thế là, ông lệnh cho hầu cận mang ra hai chiếc hộp vàng nhỏ, rồi bỏ vào đó hai mẩu giấy giống hệt nhau. Trên hai mẩu giấy viết: “Người nào đến chỗ khanh trước sẽ được trẫm ban cho chức quan Cấp sự, khanh hãy thi ân cho người đó”. Nhân Tông cất vào hộp rồi niêm phong lại
Sau đó Tống Nhân Tông lệnh cho Ất (người nói sang hèn của là do hoàng đế quyết định) đem một chiếc hộp đến Nội đông Môn ty (nơi sắp đặt chức quan). Tống Nhân Tông dự tính anh ta đã đi được nửa đường rồi, lúc này mới lệnh cho Giáp (người nói sang hèn là do Trời chú định) đem chiếc hộp còn lại đến Nội đông Môn ty.
Không lâu sau, Nội đông Môn ty dâng tấu cho Giáp làm chức quan Cấp sự mà không dâng tấu cho Ất. Tống Nhân Tông bất ngờ nhất thời không lý giải được. Thì ra Ất đi đến nửa đường thì không may bị ngã, chân bị thương khá nặng. Vì vậy Giáp tuy xuất phát sau nhưng lại đến đích trước. Hoàng đế cảm thán rằng, mệnh là do Trời định vậy, cho dù thiên tử ngôi cao tột bậc cũng không thể nào thay đổi được.
Đời người như vở kịch, trước khi sinh thì kịch bản đã được viết xong rồi
Sách “Thất Tu Loại Cảo” có một đoạn ghi chép kể về thái sư Lưu Kiện thời nhà Minh. Khi Lưu Kiện mới chào đời được hơn một tháng thì có vị tăng nhân hóa duyên đi qua cổng nhà. Vừa trông thấy Lưu Kiện, vị tăng nhân đã tiên đoán rằng: “Đứa bé này 7 lần chết mà không chết, qua 40 tuổi mới hết nạn tai, sau làm quan đến nhất phẩm, thọ trên trăm tuổi”.
Quả nhiên, trước khi 40 tuổi Lưu Kiện liên tiếp gặp kiếp nạn, nhưng lần nào cũng có Thần linh ngầm bảo hộ, bảy lần thập tử nhất sinh, lần nào cũng thoát chết trong gang tấc.
Lần thứ nhất là khi ông đọc sách trong ngôi chùa cổ. Một buổi tối chớp lòe sấm động, mưa gió mịt mù, bức tường ngôi chùa cổ đã nhiều năm không tu sửa đột nhiên đổ sập xuống, vùi Lưu Kiện ở dưới, đến ngày hôm sau mới được cứu ra ngoài.
Lần thứ hai là khi ông vào kinh dự thi, giữa đường gặp cướp. Sau khi đoạt lấy y phục của cải, toán cướp trói ông lại rồi vùi vào trong tuyết, sau đó chúng nghênh ngang bỏ đi. Đúng lúc Lưu Kiện sắp chết vì đói và rét thì được người đi đường cứu thoát.
Lần thứ ba là khi ông tham gia thi hội. Hôm ấy trường thi đột nhiên bốc lửa dữ dội, Lưu Kiện không có đường thoát nên đành liều chết chạy xuyên qua ngọn lửa và may mắn thoát thân.
Lần thứ tư là khi ông dự tiệc ở nhà một người bạn. Gia chủ sợ khách về sớm bèn khóa cổng lại. Sau đó không rõ nguyên do gì mà căn nhà cháy lớn, rất nhiều khách khứa đã mắc kẹt trong biển lửa, duy có Lưu Kiện là giữ được tính mạng.
Lần thứ năm là khi ông mắc bệnh thương hàn nặng, hôn mê 3 ngày 3 đêm rồi bỗng nhiên tỉnh lại.
Lần thứ sáu là khi ông cùng đoàn đi sứ. Giữa đường thuyền bị sóng đánh vỡ, Lưu Kiện ôm một miếng gỗ trôi trên đại dương, mấy ngày sau mới được cứu.
Lần thứ bảy là khi đang ngủ trưa, ông mở mắt thấy có con mèo ngay ở bên thân. Đúng lúc đó sấm chớp chói loà, con mèo bị sét đánh, còn ông thì sợ quá ngất đi, mãi sau mới tỉnh lại.
Bảy kiếp nạn này đều xảy ra trước khi Lưu Kiện 40 tuổi. Sau này khi bắt đầu vững bước mây xanh, ông ngày ngày thăng quan tiến tước, được Hoàng đế Hiếu Tông coi là cánh tay phải của quốc gia, là trọng thần tâm phúc. Sau ông lại lên làm tể tướng, chỉ ở dưới một người mà trên muôn vạn người.
Sau khi hoàng đế Võ Tông kế vị, Lưu Kiện rời chức tể tướng, làm nguyên lão triều trước. Võ Tông ban cho ông chức quan Thái sư. Khi sách “Thất Tu Loại Cảo” hoàn thành, Lưu thái sư vẫn còn mạnh khỏe, khi đó ông đã 107 tuổi rồi.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.