Thật bất ngờ, chiếc kẻng vẫn được nhà trường dùng để báo hiệu hóa ra lại một món bảo vật quư hiếm mà các chuyên gia khảo cổ truy t́m bấy lâu.
Sau khi kết thúc chiến tranh, các bảo tàng trên toàn Trung Quốc bắt đầu công cuộc thu thập các di vật văn hóa quư giá đang lưu lạc trong dân gian. Năm 1955, các chuyên gia khảo cổ thuộc bảo tàng Thẩm Dương đă đến Hải Thành thuộc tỉnh Liêu Ninh để khảo sát.
Khi đi ngang qua một trường tiểu học địa phương, họ vô t́nh trông thấy một giáo viên đang gơ kẻng báo hiệu tới giờ học. Tiếng kẻng này rất đặc biệt, nó khác hẳn thông thường, họ ngay lập tức bị thu hút. Cả nhóm vào trường học để gặp vị giáo viên và đề nghị anh cho xem chiếc kẻng đó. Chiếc kẻng này không chỉ có âm thanh đặc biệt mà h́nh dáng của nó cũng kỳ lạ.
Chiếc kẻng được dùng trong nhà trường phát ra âm thanh rất khác biệt. (Ảnh: Sohu)
Sau khi lau chùi qua, một hàng chữ được khắc ở giữa chiếc kẻng hiện ra là: "Đại kim thiên mệnh quư hợi niên chú ngưu trang thành". Nào ngờ, vừa nh́n thấy ḍng chữ này, một vị chuyên gia nước mắt đầm đ́a, gào lớn: "Đây chính là khối vân bản, tôi đă dành cả cuộc đời t́m kiếm nó, không ngờ hôm nay lại thấy nó ở đây."
Hóa ra, chiếc kẻng đó vốn là một tấm vân bản từ thời Nỗ Nhĩ Cáp Xích. Theo "Hải thành huyện chí" đă được sửa lại vào năm 1924 có ghi chép về tấm vân bản này. Vào năm Thiên mệnh thứ 8 (năm 1623), sau khi đội quân Bát kỳ của Nỗ Nhĩ Cáp Xích chiếm được phía Nam tỉnh Liêu Ninh bao gồm Thạch Thành, Ngưu Trang Thành và Sa Tỉnh.
Nỗ Nhĩ Cáp Xích đă yêu cầu các thợ thủ công người Hán tạo ra nhiều tấm vân bản để báo tin quân sự này cho những nơi khác. Sau này, một trong những tấm vân bản đă được t́m thấy vào năm 1922 và được lưu giữ tại công viên Hải Thành Tha Sơn, khi chiến tranh nổ ra, nó đă bị thất lạc.
Sau khi các chuyên gia kiểm định một cách kỹ cách, họ đă xác nhận rằng tấm vân bản này là một trong những chiếc được đúc năm đó. Cuối cùng, họ đă quyết định mua một chiếc chuông báo hiệu mới cho nhà trường để đổi lấy tấm vân bản kia. Tấm vân bản đă được đem tới trưng bày ở bảo tàng Thẩm Dương và được công nhận là di tích văn hóa cấp quốc gia, đồng thời cũng là một trong mười món bảo vật nổi tiếng của bảo tàng.
Lai lịch bất ngờ của "chiếc kẻng" báo hiệu
Trong lĩnh vực quân sự, thông tin liên lạc đóng vai tṛ rất quan trọng. Thế nhưng, ở thời xưa, công nghệ thông tin chưa phát triển nên người xưa chỉ có thể thử nhiều cách khác nhau để truyền thông tin. Vấn đề đặt ra là t́nh thế trên chiến trường luôn thay đổi, khi hai quân giao chiến, tướng sĩ không có bộ đàm như ngày nay th́ làm sao có thể truyền mệnh lệnh cho binh lính. Và các tướng lĩnh đă nghĩ ra cách giải quyết là sử dụng tiếng trống để điều khiển quân đội tiến và lui thông qua nhịp điệu gơ.
Phương thức truyền lệnh này đă tiếp diễn cho đến thời nhà Tống. Người đă thay đổi phương pháp này chính là Tống Thái Tổ - Triệu Khuông Dận. Ông chính là người là vạch ra kế hoạch Binh biến Trần Kiều đoạt chính quyền nhà Hậu Chu và lập nên hoàng triều Tống.
Ông là hoàng đế Nhà Tống duy nhất có xuất thân vơ tướng nên dù đă trở thành vua nhưng trong ḷng ông vẫn luôn canh cánh về việc huấn luyện binh tướng. Thế nhưng, vào những năm cuối đời, Triệu Khuông Dân lại trở nên sợ hăi khi nghe thấy tiếng trống quân lệnh.
Nỗi sợ hăi ngày càng nghiêm trọng đến nỗi nhà vua chỉ cần nghĩ tới đă trằn trọc không ngủ được. Để giải quyết vấn đề này, nhà vua đă ra lệnh cho các binh tướng sử dụng vân bản để truyền lệnh. Kể từ đó vân bản truyền lệnh đă ra đời.
Vân bản thực chất là một tấm gang hoặc hợp kim lớn và dày được thiết kế với h́nh 2 đám mây ở 2 đầu. Sau thời nhà Tống, nhà Hán cũng sử dụng vân bản để truyền tin trong quân đội. Đồng thời, quân đội nhà Hán đă thiết kế hẳn một hệ thống ám hiệu riêng cho vân bản, tương tự như hiệu lệnh trống. Sau này, nhà Nguyên học cách sử dụng ám hiệu này. Người Nữ Chân ở Liêu Đông cũng học hệ thống này và truyền lại nó cho thế hệ sau.
Các nhà sử học Trung Quốc đă đọc được những ghi chép về vân bản trong sách cũ và rất quan tâm đến món cổ vật này. Tuy nhiên, đáng tiếc, trong tay họ không có một chiếc vân bản nào để nghiên cứu. Chính v́ thế, trong mắt các nhà khảo cổ, việc t́m thấy một chiếc vân bản cũng khó như hái sao trên trời.
V́ sao vân bản trong mắt các nhà khảo cổ vô cùng quư hiếm?
Trên thực tế, các nhà khảo cổ cho rằng vân bản vô cùng quư hiếm là bởi 2 lư do.
Thứ nhất, hầu hết các vân bản được làm bằng gang thỏi. Gang thỏi là một loại gang h́nh thành như sản phẩm trung gian sau quá tŕnh nung chảy quặng sắt với một loại nhiên liệu rất giàu cacbon như than cốc cùng đá vôi thường là trong ḷ cao.
Loại gang này chứa 4-5% cacbon nên rất cứng và gịn. V́ những chiếc vân bản này được quân lính vận chuyển thường xuyên nên chúng thường không được bảo quản hay xử lư chống ăn ṃn. Đặc biệt, những chiếc vân bản bị chôn dưới đất càng bị ăn ṃn nhanh và nghiêm trọng hơn. Do đó, chúng thường bị hủy hoại trước khi các nhà khảo cổ t́m thấy.
Thứ hai, v́ Trung Quốc từng trải qua thời kỳ loạn lạc do chiến tranh nên nhiều di tích văn hóa quư giá đă bị thất lạc, trong đó bao gồm cả những chiếc vân bản. V́ vậy, nếu các chuyên gia t́m thấy một chiếc vân bản được bảo tồn nguyên vẹn như "chiếc kẻng" ở trường học ở Liêu Ninh th́ giá trị lịch sử của nó là vô cùng lớn.
VietBF@Sưu tầm