1. Mở bài
Mỗi năm, ngày 30 tháng tư gợi lại vết thương đau buồn và mất mát của người Việt hải ngoại, người Việt tỵ nạn, người Việt chạy trốn chế độ độc tài Cộng Sản.
Người dân hối hả di tản trong những ngày cuối cùng trước khi Sài G̣n thất thủ
2* Chiến dịch “Gió lốc” (Operation Frequent Wind)
2.1. Chiến dịch Frequent Wind
Chiến dịch Gió lốc (Operation Frequent Wind) là một cuộc di tản bằng trực thăng của Hoa Kỳ và của Việt Nam Cộng Ḥa, diễn ra từ ngày 29 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Có 50,493 người, trong đó có 2,548 trẻ mồ côi được di tản từ phi trường Tân Sơn Nhất. Các phi công đă bay tổng cộng 1,054 giờ, với 682 chuyến bay trong chiến dịch. Đă có hơn 7,000 người được di tản bằng trực thăng tại nhiều địa điểm khác nhau ở Sài G̣n.
Chiến dịch có 4 phương án:
1. Phương án 1. Di tản bằng phi cơ dân sự tại phi trường Tân Sơn Nhất
2. Phương án 2. Di tản bằng phi cơ quân sự
3. Phương án 3. Di tản bằng tàu thuyền từ cảng Sài G̣n
4. Phương án 4. Di tản bằng trực thăng, bóc người đưa đến các chiến hạm ngoài khơi.
Ngày 28-4-1975, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích và bị 5 phi cơ A-37 ném bom, nên di tản bằng phi cơ cánh cố định chấm dứt, và phương án Operation Frequent Wind, di tản bằng trực thăng bắt đầu.
2.2. Giai đoạn chuẩn bị
Đây là một chiến dịch được chuẩn bị trước rất tỉ mỉ. Cả một hạm đội gồm 50 chiến hạm được huy động từ nhiều tháng trước ngày 30-4-1975.
Đầu tháng 3 năm 1975, khu trục hạm USS Kirk được lịnh nhổ neo từ căn cứ San Diego, để đi hộ tống hàng không mẫu hạm USS Hancock. Hàng không mẫu hạm Hancock được lịnh cặp bến Hawaii, để đưa những chiến đấu cơ lên bờ và thay vào đó bằng những trực thăng vận tải của TQLC/HK, rồi trực chỉ đến Biển Đông.
Chiếc USS Kirk bắt đầu vào cuộc, với Chiến dịch Eagle Pull để di tản 300 người Mỹ rời khỏi Phnom Penh. Campuchia thất thủ ngày 17-4-1975. Sau đó, chiếc USS Kirk xuôi xuống phía nam, hướng về Singapore để cùng với khu trục hạm USS Cook hộ tống hàng không mẫu hạm Midway, thả neo chờ tham gia chiến dịch Frequent Wind.
2.3. Kế hoạch bí mật, không chỉ cứu những con tàu
Chiến dịch Frequent Wind do ông Richard L. Armitage phụ trách. Ông nguyên là một sĩ quan HQ/HK, lúc đó là đặc phái viên của Bộ QP/HK, thực hiện nhiệm vụ lập kế hoạch di tản những chiến hạm của HQ/VNCH, cụ thể là giải cứu những chiến hạm và kỹ thuật công nghệ được trang bị trên những chiến hạm đó. Nếu không giải cứu được th́ phá hủy, để không bị lọt vào tay CSBV làm chiến lợi phẩm. Nhiệm vụ chính của ông Armitage là cứu những con tàu, không để lọt vào tay VC.
Khu trục hạm USS Kirk cùng thủy thủ đoàn 200 người, được lịnh đến đảo Côn Sơn, là nơi được chọn để tập trung tàu bè và người di tản tại đó.
Một vài tuần lễ trước ngày 30-4-1975, ông Armitage đă có mặt tại văn pḥng của người bạn thân là đại tá Đỗ Kiểm, Tư lịnh phó HQ/VNCH. Hai người lập kế hoạch giải cứu những chiến hạm của HQ/VNCH.
Đại tá Kiểm cho ông Armitage biết rằng, muốn đưa những con tàu rời VN, th́ phải cần thủy thủ đoàn, nhưng thủy thủ VN sẽ không đi, nếu gia đ́nh của họ không được đi theo. Kế hoạch cứu thoát những con tàu đưa đến việc di tản người lánh nạn Cộng Sản. Ông Armitage không báo cáo với thượng cấp về việc nầy, v́ lo ngại chính quyền Mỹ có thể không giải cứu họ.
Cả hai ông, đại tá Kiểm và Armitage không ước lượng được con số người di tản là bao nhiêu.
2.4. Chiến hạm USS Kirk bắt đầu tiếp nhân trực thăng di tản.
Khu trục hạm USS Kirk là mục tiêu cho trực thăng đáp xuống.
Từ sáng sớm ngày 29-4-1975, USS Kirk loan báo, có một sân đáp dành cho trực thăng trên boong, nhưng suốt buổi sáng không có trực thăng nảo đến cả. Măi đến xế chiều, một trực thăng UH-1 của KQ/VNCH dẫn theo 16 chiếc UH-1, 1 chiếc CH-47 Chinook khổng lồ với 2 chong chóng và 1 chiếc vũ trang Cobra, cùng với 200 người di tản đă có mặt trên chiếc Kirk. Trong số UH-1, có 1 chiếc của Air America, là hảng hàng không của CIA.
2.5. Hỗn loạn ở Côn Sơn
Ngày 1-5-1975, chiếc Kirk đă có mặt ở Côn Sơn từ hừng sáng. Đă có 30 tàu HQ/VNCH, hàng chục tàu đánh cá và tàu chở hang, đầy khẳm những người tỵ nạn ở khu tập trung nầy.
Ông Kent Chipman, một người thợ máy, lúc đó 21 tuổi, thuật lại: “Những con tàu nhồi nhét đầy người, tôi không thể xem bên dưới ḷng tàu, nhưng trên boong tàu th́ chật cứng, người san sát nhau”.
Một tài liệu lịch sử cho rằng có khoảng 30,000 người.
Một số tàu không c̣n chạy được, nên họ cùng lôi kéo nhau đi. Một chiếc quá khẳm nên đang ch́m. Nhiều người trên tàu nhảy xuống biển. Một trung úy HQ/VNCH nổ lực giúp hành khách rời khỏi chiếc tàu đang ch́m. Hành khách được chuyển sang tàu kế bên bằng một tấm ván gỗ hẹp. Cảnh hỗn loạn xảy ra.
Một người đàn ông ra tay đánh ngă một phụ nữ phía trước anh ta, cô bị rơi xuống biển, và được cứu vớt.
“Người trung úy VN không hề lưỡng lự, anh ta đến ngay sau anh chàng đó, rút súng bắn một phát vào đầu giết chết anh ta, rồi đá xác qua một bên, tiếp tục cứu người. Cú bắn thật kinh hoàng, nhưng ngăn chặn được hỗn loạn”. Ông Stephen Burwinkel, người y tá trên chiếc Kirk thuật lại như thế.
2.6. Các chiến hạm Hải quân Việt Nam Cộng Ḥa tự giải giới
Đến thứ ba, ngày 6-5-1975, toàn thể hạm đội di tản của HQ/VNCH gần đến cảng Subic (Philippines).
Lịnh ban ra: “Tất cả những chiến hạm phải tự giải giới hoàn toàn”. Tàu chiến Mỹ cho những Cano cặp vào những chiếc tàu nầy để hốt hết súng ống, đạn dược.
Trên đường đi, thủy thủ và y tá Mỹ cung cấp nước uống, thức ăn, thuốc men và khám bịnh cho người tỵ nạn.
Trên đại dương, ở hải phận quốc tế, chiếc tàu nào đăng kư ở quốc gia nào, mang cờ nước nào, th́ được xem như là lănh thổ của quốc gia đó. V́ thế, một đứa trẻ được sinh ra trên tàu, th́ có quyền xin được mang quốc tịch của quốc gia của chiếc tàu.
Qua 6 ngày trên biển, trong 30,000 người tỵ nạn, đă có 3 người thiệt mạng và được thủy táng, v́ Philippines không cho phép mang xác chết lên nước họ.
Khi đoàn tàu đến gần Philippines th́ thuyền trưởng chiếc Kirk, nhận được một tin không tốt lành ǵ. Đó là chính phủ của Tổng thống Ferdinand Marcos e ngại rằng sự hiện diện của tàu HQ/VNCH có thể gây khó khăn về ngoại giao của họ, đối với chính quyền CSVN. Hạm trưởng Jacobs của chiếc Kirk kể lại: “Chính phủ Philippines không cho phép chúng tôi vào cảng Subic và đề nghị những con tàu nên trở về Việt Nam”.
Đại tá Đỗ Kiểm và ông Armitage đưa ra một giải pháp buộc Tổng thống Ferdinand Marcos phải chấp nhận. Đó là cờ VNCH được hạ xuống và trương cờ Mỹ lên, chứng tỏ những con tàu nầy là của Hoa Kỳ.
Mà thật, những con tàu nầy là của HK. Cơ sở lư luận là, trong chiến tranh, tàu HK được trao cho VNCH như là một khoản cho mượn để chống Cộng Sản, nhưng bây giờ chiến tranh kết thúc, HK thu hồi những chiếc tàu nầy trở lại. Thế là một cuộc t́m kiếm khó khăn, làm sao có đủ 30 lá cờ Mỹ trong lúc ở trên mặt biển.
Buổi lễ hạ cờ chính thức.
Hàng chục ngàn người VN trên các con tàu bắt đầu hát quốc ca. Cờ VNCH hạ xuống trong những tiếng bật khóc. Khóc. Và khóc… Chưa bao giờ có một buổi lễ hạ cờ đầy xúc động đến như thế.
Lănh thổ VNCH cuối cùng đă mất thật sự. Cái đau gậm nhấm khôn nguôi của người Việt miền Nam là mất nước. Những người c̣n lương tri th́ không nên quên nổi nhục đó.
3* Chiến dịch di tản trẻ sơ sinh (Operation Babylift)
3.1. Chiến dịch
Tháng 4 năm 1975, miền Nam đang sụp đổ dưới sự tấn công của Cộng Sản Bắc Việt, Tổng thống Gerald Ford lư lịnh cho thực hiện chiến dịch di tản để cứu trẻ “mồ côi”, cho rằng, có thể VC sẽ không nương tay, v́ một số là con lai Mỹ.
Hoàn cảnh buộc phải di tản trẻ thơ
Những trẻ mang tên là trẻ “mồ côi”, thật ra là đă có cha hoặc mẹ c̣ng sống, nhưng v́ hoàn cảnh nào đó, họ đă từ bỏ các em, đưa vào cô nhi viện, mang tên trẻ mồ côi.
Một số những người chăm sóc các em là những người ngoại quốc vào VN làm công tác thiện nguyện cho các nhà thờ và các tổ chức từ thiện nước ngoài. Họ phải rời VN. Trong hoàn cảnh vô củng hỗn độn của những ngày gần cuối tháng 4 năm 1975, hàng chục ngàn gia đ́nh VN đang chờ di tản. Trẻ mồ côi cũng không thể bị bỏ rơi trong hoàn cảnh hỗn độn đó được. Những người thiện nguyện HK đă nổ lực vận động, đưa các em ra khỏi VN để tiếp tục được chăm sóc và nuôi dưỡng. Các em đă bị cha mẹ bỏ một lần rồi, không thể bị bỏ lần thứ hai, cho nên việc di tản trẻ mồ côi là đầy ḷng nhân đạo.
Một điển h́nh là bà Betty Tisdale, đă nổ lực chạy đôn chạy đáo để hoàn thành thủ tục làm hồ sơ xuất cảnh cho 219 trẻ sơ sinh rời VN. Bà Tisdale thuật lại: “Tôi chạy đến bịnh viện Nhi đồng, xin 225 mẫu giấy khai sanh, rồi điền vào ngày giờ và nơi sanh một cách nhanh chóng. Tôi hoàn toàn không biết những em bé nầy là con của ai, sinh ra lúc nào, nơi nào. Những ngón tay của tôi cứ viết đại để tạo ra những bản khai sanh. Tôi tức tốc đến gặp đại sứ Graham Martin xin phương tiện di tản cho các em. Đại sứ bằng ḷng với điều kiện các thủ tục giấy tờ phải được chính phủ VN chấp thuận.”
Ông Edward Daly, chủ tịch World Aiways đang có mặt ở VN, trong lúc đó, th́ con gái của ông là một thiện nguyện viên đang ở Colorado, đánh điện xin ông giúp đở cho trẻ mồ côi được ra đi.
Chiến dịch Babylift được thực hiện trong 3 tuần lễ, từ ngày 2-4-1975 đến ngày 26-4-1975. Tổng cộng có 26 chuyến bay, đă đưa 2,548 trẻ mồ côi đến Hoa Kỳ. Sau đó, các em được các gia đ́nh Mỹ nhận làm con nuôi.
3.2. Bắt đầu bằng tang tóc
Chiếc Lockheed Martin C-5A Galaxy, được xem là phi cơ vận tải lớn nhất thế giới, đă từng chở xe tăng và cầu quân sự nặng 70 tấn, từ căn cứ không quân Clark (Philippines) được phái đến Sài G̣n, trong nhiệm vụ di tản trẻ thơ, bắt đầu từ ngày 4-4-1975.
Ngày 4-4-1975, lúc 4:15 chiều, sau khi 328 trẻ em và người lớn, trong đó có nhân viên sứ quán Mỹ và nhiều nhân viên của các đơn vị Mỹ, được đưa lên máy bay. Chiếc C-5 bắt đầu rời đường băng.
Khoảng 12 phút sau, cách phi trường Tân Sơn Nhất 64km, th́ một biến cố xảy ra. Cửa sau, nằm dưới bụng phi cơ, là nơi đưa hành lư lên tàu, đă bung ra và bị thổi bay mất. Hành khách bị xô ngă, nhiều người bị thương. Một nhân viên phi hành ngồi gần cửa bị hút bay ra khỏi phi cơ. Những người c̣n lại bất tĩnh do thiếu dưỡng khí. Hai phi công chính và phụ không c̣n điều khiển được phi cơ, nên quyết định trở lại Sài G̣n.
C-5 không phải là phi cơ chở hành khách, cho nên những mặt nạ tiếp dưỡng khí không được thiết kế cho trẻ em, v́ thế, các em được bế lên cao để gắn mặt nạ dưỡng khí vào. Linda Adam, một y tá quân y kể lại như thế.
Khi c̣n cách Sài G̣n 5km, phi cơ mất độ cao, lao ḿnh ầm ầm xuống cánh đồng lúa ngập nước, đụng phải con đê, găy làm 4 khúc, và b́nh xăng phát cháy.
Trên cánh đồng lúa thuộc khu vực Cát Lái, cảnh tang tóc với những xác người nằm vương văi trên bùn đất.
153 người thiệt mạng, trong đó có:
98 trẻ em. 34 nhân viên bộ QP/HK. 5 dân sự. 11 nhân viên KQ/HK. Và những y tá của nhiều quốc gia.
175 người sống sót.
Có nhiều giả thuyết về lư do xảy ra tai nạn: cho rằng bị phá hoại do những người thân Cộng muốn phá kế hoạch di tản trẻ thơ, do lỗi thiết kế của công ty Lockheed, và cho rằng phi cơ không được bảo tŕ chu đáo.
Người chị của một y tá thiệt mạng, đại diện cho các nạn nhân, đâm đơn kiện tập thể, đ̣i công ty Lockheed bồi thường 200 triệu USD. Việc điều tra được tiến hành, và cho măi tới năm 1990 vẫn chưa có kết quả.
4* Những di sản của chiến dịch Babylift
4.1. Không có hồ sơ lư lịch cá nhân
Ngày 5-4-1976, tờ Time cho biết, nhiều trẻ em hoàn toàn không có hồ sơ về lư lịch cá nhân, đó là những con người không có họ và tên, không có giấy tờ chứng minh ngày và nơi sinh, quốc tịch…cho nên không thực hiện hồ sơ con nuôi.
Cục di trú và nhập tịch cho biết, có 1,671 em hợp lệ, và 353 không hợp lệ.
4.2. Bi kịch gia đ́nh
Nhiều trường hợp đau ḷng khó xử xảy ra.
- Bà Hà Thị Vơ
Người từng đưa 3 đứa con đi theo chương tŕnh Babylift, khi đến Mỹ, đưa đơn kiện, khi nhận ra đứa con út 3 tuổi tại một gia đ́nh nhận con nuôi, bà đ̣i con lại. Cậu bé không nhận bà, khiến cho nhà chức trách bác bỏ yêu cầu của bà.
- Bà Doăn Thị Hoàng An
Bà An ở bang Montana, nhận ḿnh là mẹ ruột của cậu bé Ben, 4 tuổi, được vợ chồng Johnny và Bonnie Nelson nhận làm con nuôi từ chương tŕnh Babylift.
Khi ra toà, cậu bé Ben không nhận bà Hoàng An, không có phản ứng trước những cử chỉ triều mến và thương yêu của bà Hoàng An, dù vậy, ṭa phán quyết cậu Ben thuộc về bà mẹ Việt Nam.
Thế là vợ chồng Nelson tiếp tục đưa đơn kiện lên toà thượng thẩm.
5* Trở về cố hương
5.1. Trẻ mồ côi trở về Việt Nam trong vai trung tá Mỹ
Cô Kimberly Mitchell có chuyến về Việt Nam trong vai một trung tá Mỹ.
Gần 40 năm sau khi được một trung sĩ Mỹ, thuộc KQ/HK và vợ ông, nhận làm con nuôi năm 1972, cô Mitchell được biết là một trẻ sơ sinh mang số 899, bị bỏ rơi tại cô nhi viện Thánh Tâm, Đà Nẵng.
Trung tá Mitchell hiện là Phó giám đốc văn pḥng Trợ giúp Quân nhân và Thân nhân tại Bộ QP/HK, cho biết: “Tôi muốn cố gắng nối kết lại với quá khứ c̣n chưa biết của ḿnh. Trung tá Mitchell đă thăm Sài G̣n và Đà Nẳng trong chuyến đi một tuần lễ về VN.
Chuyến thăm tại trại mồ côi Thánh Tâm, nay là một tu viện, được coi là phần xúc động nhất của chuyến đi. Tại tu viện, Mitchell gặp “Sơ” Mary, là người đă từng làm việc trong thời gian tiếp nhận em bé số 899 vào cô nhi viện. “Sơ Mary cho biết, cái tên mà họ đặt cho tôi là Trần Thị Ngọc Bích, nghĩa là viên ngọc quư. Đây là chuyến thăm của một đời người, nghĩa là một lần duy nhất. Tôi chắc chắn sẽ không chờ 40 năm nữa để quay trở lại”, Mitchell thuật lại.
5.2. Phim Ngựi con gái Đà Nẳng (The daughter from Da Nang)
Phim tài liệu The daughter from Da Nang được đề nghị lănh giải Oscar về loại phim tài liệu. Phim đă chiếm nhiều giải nhất trong các Đại Hội Điện Ảnh (Film Festival) Hoa Kỳ năm 2002: Sundane Film Festival, San Francisco International, Ojai Film Festival, Durango, Colorado, Texas, New Jersey International, Nashville, Cleveland.
Nội dung phim
Vào những ngày sau cùng của cuộc chiến VN, chính phủ Gerald Ford đă bỏ ra 2 triệu USD để mở chiến dịch Babylift. Gần 3,000 trẻ mồ côi từ VN sang Hoa Kỳ, Canada, Pháp và Úc để làm con nuôi.
Cuộc di tản bắt đầu bằng một tai nạn kinh hồn làm chết hàng trăm trẻ em.
Cuốn phim xoay chung quanh cuộc đời của Heidi Bub và trong chuyến đi t́m mẹ ruột sau 22 năm.
Heidi Bub sinh năm 1968 tại Đà Nẵng, con của bà Mai Thị Kim và một quân nhân Hoa Kỳ.
Chồng bà Kim là Đỗ Hữu Vinh, từ năm 1964, đă bỏ vợ và 3 con ở lại Đà Nẳng, nhảy núi theo Việt Cộng chống Mỹ.
Bà Kim vào làm công nhân trong căn cứ Mỹ ở Đà Nẳng. Ở đó, bà đụng một ông lính Mỹ rồi sanh ra Mai Thị Hiệp (Heidi)
Khi VC đánh vào Đà Nẳng, v́ sợ con lai Mỹ bị VC khủng bố, nên bà đưa con vào Hội Cha Mẹ Nuôi lúc Heidi 6 tuổi.
Khi sang Mỹ, Mai Thị HIệp được bà Ann Neville, một phụ nữ độc thân, khoa trưởng ở một trường đại học, nhận làm con nuôi, tên là Heidi Bub.
Bà Ann Neville sinh sống ở bang Tennessee, thánh địa của kỳ thị chủng tộc Klu Klax Klan. Bà che dấu nguồn gốc và cố làm cho Heidi giống 101% như Mỹ để bảo vệ con.
Về vật chất, Heidi không thiếu thốn ǵ cả, nhưng t́nh cảm giữa hai mẹ con rất khô khan cằn cỗi, thiếu hẳn những bộc lộ t́nh thương mẹ con. Bà Ann quá nghiêm khắc. Cuối cùng, bà đuổi Heidi ra khỏi nhà mà không giải thích lư do.
Lúc 6 tuổi, Heidi tưởng rằng ḿnh không ngoan nên bị mẹ ruột từ bỏ. Lúc 22 tuổi, cô có mặc cảm, có lẻ ḿnh quá tệ hại nên đă bị mất mẹ hai lần.
Năm 22 tuổi, Heidi bắt đầu t́m mẹ ruột. Trong lúc đó, ở VN, bà Mai Thị Kim cũng ra sức t́m lại đứa con.
Năm 1991, mẹ con bắt liên lạc được, qua một nhân viên của sứ quán HK. Heidi bắt đầu học tiếng Việt.
Năm 1997, kư giả Trần Tương Như, người VN đầu tiên mà Heidi tiếp xúc tại Mỹ. Trần Tương Như giúp Heidi trong chuyến về VN gặp lại mẹ ruột.
Tại phi trường Đà Nẵng, Heidi gặp lại mẹ ruột và các anh chị cùng mẹ khác cha. Tiếp theo là những tổ chức, như những bữa cơm đại gia đ́nh, viếng thăm hàng xóm, đi chợ…
Chỉ vài ngày sau, Heidi cảm thấy khó chịu, bị sốc v́ khác biệt văn hoá. Biên giới riêng tư của ḿnh bị xâm phạm.
Bà Kim muốn ngủ chung giường với Heidi để tâm sự suốt đêm, không muốn rời con, nhưng đối với Heidi th́ đó là một cuộc tấn công, lấn át không gian cá nhân. Heidi không có th́ giờ để suy nghĩ về những sự việc quá mới, quá xa lạ đối với ḿnh.
Heidi thật sự bị sốc khi các anh chị cho rằng cô có bổn phận phải cung cấp tiền bạc và làm đơn bảo lănh cho gia đ́nh sang Mỹ.
Heidi nghĩ rằng cô bị bóc lột và bị lợi dụng, nên đă đổi vé máy bay về Mỹ sớm hơn lịch tŕnh ấn định.
Khi về đến Mỹ, cô nhận được thơ của các anh chị khác cha, chủ yếu vẫn là tiền bạc và bảo lănh. Cô cảm thấy không sốt sắng để trả lời những búc thơ đó.