Tất cả phàm thánh, thế gian, xuất thế gian, đều không vượt ngoài hai chữ nhân quả. Nhân tức là nhân duyên. Quả tức là quả báo.
Ví như trồng lúa, lấy hạt lúa làm nhân, rồi nhờ ánh sáng, gió mưa làm duyên. Khi hạt lúa chín mùi th́ gặt hái lúa, tức là quả. Nếu không nhân duyên, quyết chẳng thể kết quả. Sở dĩ thành thánh hiền, v́ các Ngài minh nhân thức quả. Minh tức là liễu giải được nghĩa. Thức tức là hiểu rơ được nghĩa. Phàm phu sợ quả. Bồ Tát sợ nhân. Phàm phu chỉ sợ quả ác, mà nào biết đến quả ác phát khởi từ nhân xấu. B́nh thường, tự ư làm những việc hàm hồ ngu xuẩn; mưu đồ hưởng sung sướng trong nhất thời, mà quên rằng sung sướng vốn là nhân khổ.
Bồ Tát chẳng như thế. B́nh thường, nhất cử nhất động, hộ tŕ thân tâm cẩn trọng, và luôn lấy việc giữ giới làm đầu, nên chẳng gieo nhân xấu, th́ làm sao quả ác đến? Bị quả ác trói buộc, do v́ đă trồng nhân xấu bao đời xa xưa. Trước kia đă từng trồng nhân nào, th́ ngày nay khó mà trốn chạy quả báo đó. Khi cảm thọ quả báo, phải an nhiên lănh thọ, chẳng nên lui sụt sợ hăi. Đấy mới gọi là minh nhân thức quả.
Ví như pháp sư An Thế Cao thuở xưa, nhờ bao kiếp tu tŕ, nên được thọ sanh làm thái tử nước An Tức. Khi ấy, Thái Tử xả bỏ năm dục, xuất gia tu đạo, đắc được túc mạng thông, biết đời trước đă từng thiếu nợ mạng người. Chủ nhân lúc ấy đang ở tại nước Tàu. Do đó, Ngài đi thuyền qua Tàu. Đến Lạc Dương, Ngài đi qua một cánh đồng hoang vắng. Bỗng nhiên, từ đâu chạy đến, một thiếu niên tay cầm thanh kiếm, xa thấy Ngài, nổi giận đùng đùng, hung khí đằng đằng. Khi chạy tới, chưa kịp nói lời ǵ, liền vung kiếm chém Ngài. Sau khi chết, thần thức của Ngài vẫn trở lại đầu thai làm Thái Tử nước An Tức. Lúc trưởng thành, cũng phát tâm xuất gia, vẫn đạt được túc mạng thông, và biết đời này lại phải đền thêm một mạng người nữa. Chủ nhân vẫn ở tại Lạc Dương. V́ vậy, Ngài đi qua Tàu một lần nữa, rồi đến thẳng nhà người vừa giết ḿnh trong đời tiền kiếp. Đến nơi, Ngài xin tá túc qua đêm. Được tiếp đăi cơm nước xong, Ngài hỏi chủ nhân:
- Ông có nhận ra tôi không?
Chủ nhân đáp:
- Không.
- Tôi là vị tăng mà ông đă giết tại một cánh đồng vắng, vào ngày ấy, tháng ấy, năm ấy.
Chủ nhân kinh hoàng sợ sệt, v́ việc này không có người thứ ba nào biết đến. Ông nghĩ rằng vị tăng này chắc là hồn ma thuở xưa, nay trở lại đ̣i mạng. Do đó, ông ta vụt muốn bỏ chạy. Ngài bảo:
- Chớ sợ! Tôi chẳng phải là quỶ ma đến đ̣i mạng đâu! Ngày mai, tôi cũng sẽ bị người khác giết chết, để đền sanh mạng trong đời tiền kiếp. V́ thế tôi mới đến đây. Nhờ ông làm nhân chứng, chuyển lời di chúc của tôi lại cho quan quân địa phương, bảo rằng tự tôi đến đây để đền mạng, chớ trị tội kẻ giết lầm tôi.
Nói xong, Ngài liền đi ngủ. Hôm sau, Ngài đi ra đường phố, gặp một người nông phu, đang gánh củi. Lúc Ngài đi gần tới ông ta, đột nhiên gánh củi ở phía trước rớt xuống đất, nên cây đ̣n gánh vụt đánh bật trở lại đằng sau, đập trúng vào đầu Ngài, khiến Ngài chết ngay lập tức. Người nông dân bị dẫn đến quan trường xét xử. Chất vấn xong, quan tuyên bố là ông nông dân phạm tội cố sát. Ông chủ nhân giết Ngài đời trước, thấy lời Ngài dặn ḍ đêm hôm qua thật rất tương hợp với sự t́nh, nên trần thuật và tŕnh di chúc của Ngài lên quan xét xử. Quan nghe xong, tin tưởng nhân quả chẳng sai chạy, nên tha tội ngộ sát cho ông nông dân. Khi bị đ̣n gánh đánh chết, thần hồn Ngài vẫn bay trở lại, đầu thai làm Thái Tử nước An Tức. Lớn lên, cũng xuất gia tu hành, tức là pháp sư An Thế Cao.
Tuy là thánh hiền, nhưng chẳng lầm nhân quả. Đă từng trồng nhân xấu th́ phải cảm thọ quả ác. Nếu hiểu rơ nghĩa này, th́ những cảnh thuận nghịch, vui buồn, khổ nhọc, sung sướng, cùng mọi cảnh giới hằng ngày, đều do nhân xưa tạo ra. Ngay nơi những cảnh giới này, chớ sanh tâm vọng tưởng thương ghét oán trách, th́ tự nhiên sẽ xả bỏ được tất cả, khiến chuyên tâm vào đạo. Những thói quen tật xấu, vô minh, cống cao ngă mạn, đều không thể làm chướng ngại, th́ tự nhiên dễ dàng nhập đạo.
VietBF@sưu tập