Lên ngôi khi mới 6 tuổi, Thuận Trị lớn lên giữa những âm mưu chính trị và sức ép nặng nề từ các thế lực thân vương. Nhưng khi nắm thực quyền, ông chứng tỏ ḿnh là một hoàng đế có tài năng và ư chí cải cách.
Thanh Thế Tổ Phúc Lâm – tức Thuận Trị Đế – là vị hoàng đế đầu tiên của triều Thanh thực sự cai trị toàn cơi Trung Hoa sau khi nhà Thanh vượt qua Sơn Hải Quan, tiến vào Trung Nguyên và xác lập nền thống trị mới. Số phận của ông gắn liền với một giai đoạn đầy biến động, khi cả triều đ́nh Măn Châu lẫn thiên hạ Trung Hoa rơi vào ṿng xoáy tranh giành quyền lực, nội loạn và chiến tranh.
Phúc Lâm sinh ngày 15 tháng 3 năm 1638, là Hoàng cửu tử của Hoàng Thái Cực – vị hoàng đế đă lập nên nền móng cho Đại Thanh sau khi thống nhất các bộ lạc Măn Châu và cải cách sâu rộng hệ thống Bát Kỳ. Nhưng biến cố xảy đến khi Hoàng Thái Cực bất ngờ băng hà năm 1643 mà chưa kịp chỉ định người kế vị. Sự trống vắng ấy lập tức châm ng̣i cho cuộc tranh đoạt ngai vàng căng thẳng giữa các thân vương như Đại Thiện, Đa Nhĩ Cổn, Đa Đạc hay Hào Cách. Trong thế giằng co giữa các thế lực quân sự mạnh nhất Bát Kỳ, Hội đồng Nghị chính cuối cùng lựa chọn một phương án dung ḥa: lập hoàng tử nhỏ tuổi Phúc Lâm lên ngôi để tránh chia rẽ hoàng thất, đồng thời đặt quyền nhiếp chính vào tay hai thân vương đầy thế lực là Đa Nhĩ Cổn và Tế Nhĩ Cáp Lăng.

Ảnh minh hoạ.
Ngày 8 tháng 10 năm 1643, Phúc Lâm chính thức đăng cơ, lấy niên hiệu Thuận Trị. Khi ấy, cậu bé 6 tuổi trở thành biểu tượng chính trị, trong khi mọi quyền hành thực tế nằm trong tay Đa Nhĩ Cổn – người mà nhiều sử gia nhận định là “kiến trúc sư trưởng” của quá tŕnh nhập quan chinh phục Trung Hoa. Từ năm 1643 đến 1650, Đa Nhĩ Cổn điều hành triều chính, tiến hành củng cố quân đội, dẹp bỏ các phe phái chống đối trong Bát Kỳ và quan trọng hơn, dẫn dắt quân Thanh bước vào cuộc đánh chiếm lănh thổ nhà Minh.
Năm 1644, thời cơ mở ra khi Bắc Kinh rơi vào tay nghĩa quân Lư Tự Thành, Sùng Trinh Đế tự vẫn, triều Minh xem như sụp đổ. Ngô Tam Quế – bị kẹt giữa nghĩa quân và quân Thanh – mở Sơn Hải Quan cho Đa Nhĩ Cổn tiến vào. Chiến thắng Sơn Hải Quan và việc quân Thanh nhanh chóng nhập thành Bắc Kinh ngày 5 tháng 6 đă đặt nền tảng cho quyền lực của Thuận Trị trên toàn Trung Hoa. Tuy nhiên, bản chất của cuộc chuyển giao quyền lực này lại nhuốm màu bi kịch, với những cuộc thảm sát, chính sách cắt tóc và các chiến dịch trấn áp ác liệt nhằm buộc dân chúng Hán quy thuận triều Thanh.
Đa Nhĩ Cổn áp đặt nhiều quyết sách gây phẫn nộ, đặc biệt là lệnh “thế phát”, bắt buộc đàn ông người Hán cạo nửa đầu để thể hiện sự thần phục. Đồng thời, quân Thanh tiếp tục đánh xuống phía nam, tiêu diệt từng căn cứ kháng Minh, từ Dương Châu, Nam Kinh cho đến Phúc Kiến và Quảng Đông. Những trận đồ sát ở Dương Châu và Giang Âm trở thành vết nhơ lịch sử, nhưng lại là phần không thể tách rời trong quá tŕnh củng cố sự thống trị của nhà Thanh.
Sau khi Đa Nhĩ Cổn đột ngột qua đời tháng 12 năm 1650, quyền lực mới thực sự trở về tay Thuận Trị. Khi ấy, hoàng đế mới 12 tuổi nhưng đă đủ nhận thức để cảm thấy sự ḱm kẹp lâu nay của thân vương nhiếp chính. Thuận Trị lập tức bắt tay thanh trừng những tàn dư của Đa Nhĩ Cổn, trả lại quyền lực cho triều đ́nh trung ương. Đây có thể xem là bước ngoặt giúp ông chứng tỏ bản lĩnh của một vị hoàng đế tự chủ.
Trong giai đoạn 1650–1661, Thuận Trị nỗ lực cải cách triều chính. Ông chăm chỉ vi hành, đích thân nghe dân xét xử, siết chặt kỷ cương quan lại, đồng thời hạn chế quyền lực của các quư tộc Măn Châu vốn nắm giữ nhiều đặc quyền trong Bát Kỳ. Ông cũng thúc đẩy khoa cử nhằm thu hút trí thức Hán, tăng số lượng người đỗ để củng cố ḷng trung của tầng lớp sĩ phu – lực lượng quan trọng trong nền trị quốc truyền thống Trung Hoa.
Tuy phải đối mặt với nhiều cuộc nổi dậy phản Thanh, đặc biệt tại các vùng nam Trung Quốc, Thuận Trị từng bước đưa thiên hạ vào khuôn khổ. Dù bản thân ông c̣n rất trẻ, những quyết sách chấp chính của Thuận Trị cho thấy khả năng suy xét và một tinh thần cởi mở, sẵn sàng dung ḥa hai dân tộc Măn – Hán trong một thể chế mới. Dưới thời ông, triều đ́nh vẫn tiếp tục chiến dịch b́nh định các thế lực Nam Minh như Trịnh Thành Công, Vĩnh Lịch Đế Chu Do Lang, dần thu hẹp phạm vi chống đối.
Tuy nhiên, cuộc đời riêng của Thuận Trị lại không được yên ổn. Trong môi trường hoàng cung đầy phép tắc và cạnh tranh, ông t́m thấy t́nh yêu hiếm hoi nơi Hiếu Huệ Chương hoàng hậu – người được cho là người vợ mà ông hết mực yêu thương. Khi hoàng hậu qua đời, Thuận Trị suy sụp nặng nề. Sự mất mát ấy khiến ông mất đi điểm tựa tinh thần, đồng thời làm lung lay nghị lực vốn mạnh mẽ của một hoàng đế trẻ tuổi đang chịu vô vàn áp lực chính trị.
Trong lúc tâm trạng rối bời, nhiều ghi chép cho rằng Thuận Trị từng nghĩ đến việc xuất gia, trốn khỏi ṿng xoáy triều chính. Dù điều này chưa được xác nhận hoàn toàn, nó phản ánh rơ nội tâm chông chênh của vị hoàng đế trẻ, người vừa phải gánh vác giang sơn rộng lớn, vừa phải đối diện những tổn thương cá nhân không thể giăi bày.
Đầu năm 1661, Thuận Trị mắc bệnh đậu mùa – căn bệnh chết người thời bấy giờ. Trong triều Thanh, đậu mùa đặc biệt nguy hiểm v́ nhiều người Măn Châu chưa từng tiếp xúc với dịch bệnh Trung Nguyên nên miễn dịch yếu. Bản thân Thuận Trị cũng không vượt qua được cơn bệnh, băng hà ngày 5 tháng 2 năm 1661, khi mới 23 tuổi. Cái chết của ông để lại khoảng trống quyền lực lớn, khiến triều đ́nh buộc phải đưa Hoàng tam tử Huyền Diệp – người từng sống sót qua bệnh đậu mùa – lên ngôi, tức Khang Hi Đế sau này.
Triều đại 18 năm của Thuận Trị tuy ít được ghi chép hơn các đời vua sau, nhưng lại đóng vai tṛ bản lề trong sự h́nh thành và ổn định quyền lực của nhà Thanh tại Trung Hoa. Ông kết thúc giai đoạn nhiếp chính, đặt nền móng cho việc củng cố thể chế quân chủ Măn Châu – Hán kết hợp, mở đường cho thời Khang Hi – Ung Chính – Càn Long rực rỡ sau này. Dù tuổi đời và thời gian trị v́ đều ngắn ngủi, Thuận Trị vẫn hiện lên như một vị hoàng đế có suy nghĩ độc lập, biết đổi mới và cố gắng vượt qua di sản nặng nề mà các thân vương để lại.