Go Back   VietBF > Others (Closed Forums) > Archive - Old News 2006-2011

 
 
Thread Tools
Old 07-19-2011   #1
vuitoichat
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
Join Date: Jan 2008
Posts: 139,696
Thanks: 11
Thanked 12,810 Times in 10,215 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 39 Post(s)
Rep Power: 159
vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8
vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8vuitoichat Reputation Uy Tín Level 8
Default Những diễn biến mới trên Biển Đông

DOC đă được kư với mong muốn có thể cung cấp nền tảng cho sự ổn định lâu dài trong khu vực và thúc đẩy sự hiểu biết giữa các nước liên quan. Biển Đông đă tương đối ổn định trong nửa thập kỷ qua.

Tuy nhiên, sẽ là ngây thơ nếu tin rằng nhờ DOC, các bên đă ngừng các hoạt động làm phức tạp thêm t́nh h́nh. Theo DOC, các bên phải kiềm chế các hoạt động có thể làm phức tạp thêm t́nh h́nh hoặc khiến tranh chấp leo thang và ảnh hưởng tới ḥa b́nh và ổn định, trong đó có việc ngừng mọi hành động đưa người đến sinh sống tại các đảo, băi đá, băi cát ngầm, đảo thấp nhỏ và các địa h́nh khác vốn không có người sinh sống, và giải quyết các bất đồng một cách mang tính xây dựng.

Tuy nhiên, Tuyên bố DOC không làm rơ những hoạt động nào có thể được coi là phức tạp và leo thang tranh chấp. Các bên đ̣i chủ quyền tiếp tục xây dựng nhiều công tŕnh trong những nơi đang tranh chấp trên biển Đông và tuyên bố các quy định tài phán đơn phương nhằm chứng tỏ chủ quyền trong các khu vực tranh chấp.

Cách tiếp cận của Trung Quốc, trong vai tṛ nước mạnh nhất, trên biển Đông xác định bản chất của tranh chấp. Từ năm 2007-2008, khi Bắc Kinh sửa đổi chính sách đối với vấn đề biển Đông theo hướng quyết đoán hơn, t́nh h́nh đă căng thẳng trở lại.

Tháng 12/2007, Trung Quốc đă xây dựng thành phố Tam Sa để quản lư hành chính quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa (và băi đá ch́m dưới biển Macclesfield Bank), gây sự phản đối chính thức và mạnh mẽ của Việt Nam cũng như làm dấy lên các cuộc biểu t́nh chống Trung Quốc ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

Tháng 1/2010, Trung Quốc đă quyết định thành lập các cơ quan chính quyền địa phương trên quần đảo Hoàng Sa và phát triển ngành công nghiệp du lịch tại đây, và hành động này đă bị Hà Nội lên án là vi phạm chủ quyền của Việt Nam. Sau đó, Trung Quốc thông qua "Đại kế hoạch xây dựng và phát triển đảo du lịch quốc tế Hải Nam 2010-2020", theo đó quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa sẽ được hợp nhất trong một tổ hợp đa chức năng trên biển, các tuyến đường du lịch biển và trên không tới Hoàng Sa sẽ được xúc tiến xây dựng, và khuyến khích người dân đăng kư sinh sống trên quần đảo này.

Tháng 6/2010, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam (MOFA) đă lên án kế hoạch của Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam và đi ngược lại tinh thần của DOC. Bà nhắc lại điều khoản 5 của DOC: "Các bên cần kiềm chế các hoạt động có thể làm phức tạp thêm t́nh h́nh hoặc leo thang tranh chấp và ảnh hưởng tới ḥa b́nh và ổn định, trong đó có việc ngừng mọi hành động đưa người đến sinh sống tại các quần đảo, băi đá, băi cát ngầm, đảo thấp nhỏ và các h́nh thái địa chất khác vốn không có người sinh sống, và giải quyết các bất đồng một cách mang tính xây dựng".

Kể từ năm 1999, năm nào Trung Quốc cũng đơn phương tuyên bố cấm đánh bắt trên biển Đông trong hai tháng Sáu và Bảy. Để thực thi yêu sách quyền tài phán của ḿnh trên biển Đông, Trung Quốc đă đưa nhiều tàu ngư chính đến tuần tra các vùng biển đang tranh chấp. Năm 2006 và 2007, có một số báo đưa tin về các sự cố của ngư dân Việt Nam bị bắt giữ hoặc bị thương bởi các tàu tuần tra và tàu chiến Trung Quốc.

Trong năm 2009, các lực lượng của Trung Quốc liên tiếp bắt giữ tàu cá Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa và đ̣i khoản tiền chuộc 10.000 USD đổi lại việc thả các ngư dân này. Đầu tháng 4/2010, Bắc Kinh thậm chí thông báo cử hai tàu tuần tra lớn đến quần đảo Trường Sa để bảo về các tàu cá Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên việc này được tiến hành ngoài thời gian nước này đơn phương ban bố lệnh cấm đánh bắt trên biển.

Thỉnh thoảng Trung Quốc cũng tiến hành tập trận tại các khu vực đang tranh chấp nhằm gửi đi những dấu hiệu răn đe các nước đ̣i chủ quyền khác trên biển Đông. Mức độ thường xuyên và sự kết hợp các cuộc tập trận của Trung Quốc đă gia tăng đáng kể những năm gần đây.

Đối với việc phát triển năng lượng, Trung Quốc và các nước ASEAN đă tích cực thu hút các công ty quốc tế đến khai thác các nguồn năng lượng tại các vùng biển ḿnh đ̣i chủ quyền nhằm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong nước. Thỉnh thoảng, khi các công ty năng lượng quốc tế tiến hành khai thác tại các khu vực của nước này nhưng bị nước khác coi là chủ quyền, đặc biệt trong khu vực đường chữ U của Trung Quốc, th́ hoạt động này bị đ́nh trệ v́ các phản đối ngoại giao và thậm chí cả sự can thiệp của các tàu quân sự hoặc bán quân sự.

Đầu mùa hè năm 2007, Trung Quốc đă đề nghị một số công ty dầu và khí đốt nước ngoài ngừng khai thác với các đối tác Việt Nam trên biển Đông, bằng không sẽ phải chịu hậu quả trong công việc kinh doanh với Trung Quốc. Tháng 4/2007, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc phản đối việc Việt Nam nhượng quyền và hợp tác với tập đoàn Dầu lửa Anh xây dựng một đường ống dẫn khí đốt gần bờ biển phía Nam Việt Nam, mà Trung Quốc coi là "khu vực biển gần kề" với quần đảo Trường Sa.

Trung Quốc sẵn sàng trở lại đ̣i hỏi lịch sử rất mập mờ về mặt pháp lư của ḿnh để đ̣i chủ quyền với hầu hết diện tích biển Đông. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương nói: "mọi hành động đơn phương của bất cứ bên nào tại các vùng biển này đều bị coi là sự xâm phạm chủ quyền, quyền lănh hải và quyền tài phán của Trung Quốc". Việt Nam khẳng định rằng khu vực nằm trong dự án với BP thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam. Mọi hoạt động kiểm soát, quản lư đều phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế, đặc biệt là UNCLOS và tinh thần của DOC.

Mùa xuân năm 2007, dưới sức ép của Trung Quốc, BP đă ngừng các hoạt động khai thác tại các mỏ khí đốt Mộc Tinh và Hải Thạch thuộc thềm lục địa của Việt Nam. Năm 2008, báo chí đưa tin tập đoàn năng lượng Mỹ Exxon Mobil cũng bị Trung Quốc đe dọa.

Từ năm 2007-2010, Trung Quốc thường xuyên phản đối các hoạt động khai thác của các công ty năng lượng nước ngoài, trong đó có BP ở khu 117; PGS (của Na Uy) ở khu 122; Chevron (của Mỹ) ở khu 122; Pogo (của Mỹ) ở khu 124; ONGC (của Ấn Độ) ở khu 127; Indemisu (của Nhật Bản) ở khu 04-3; CoconoPhilips (Mỹ) ở khu 133; Pearl Energy (Mỹ) ở khu 06-1; Knoc (Hàn Quốc) ở khu 11-4; và Gazprom (Nga) ở các khu 111 và 113.

Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định trong trường hợp của Exxon Mobile, "các khu này hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam và phù hợp với Công ước của LHQ về luật biển" và "Việt Nam sẽ đảm bảo mọi lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài khi hoạt động tại Việt Nam". Việt Nam "hoan nghênh và sẽ tạo điều kiện hợp tác với các đối tác nước ngoài, trong đó có cả các nhà đầu tư Trung Quốc đang hoạt động tại Việt Nam, trên cơ sở tôn trọng đầy đủ chủ quyền của chúng tôi".

Năm 2009, Trung Quốc cũng phản đối việc Philippines khoan dầu ở khu vực Băi Cỏ rong (Reed Bank), cách Palawan 60 hải lư về phía Tây, nơi có thể chứa 96 triệu mét khối khí và 450 triệu thùng dầu. Malaysia và Brunei cũng tranh chấp về khai thác một mỏ khí đốt tại một khu vực mà các đ̣i hỏi của hai bên chồng lấn nhau. Nhiều công ty khác nhau được giao cho những khu như nhau: Malaysia trao quyền khai thác cho Murphy Oil, trong khi Brunei trao quyền tương tự cho Royal Dutch Shell và Total.

Về phía Trung Quốc, nước này rất cần nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là năng lượng, để phục vụ nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh chóng của ḿnh. Trung Quốc từ năm 1993 đă là nhà nhập khẩu dầu. Theo ông Zhu Jianjun, thuộc Công ty dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNPC), nếu như năm 2010, 50% nhu cầu về dầu của nước này phụ thuộc vào nhập khẩu, th́ đến năm 2020 con số này sẽ là 60%. V́ vậy, việc đảm bảo một nguồn cung bền vững và đảm bảo an toàn các tuyến đường vận chuyển đóng một vai tṛ quyết định trong việc duy tŕ sự phát triển kinh tế bền vững của Trung Quốc.

Biển Đông được một số chuyên gia phân tích của Trung Quốc mô tả là vựa dầu, khí và nhiên liệu hóa thạch khổng lồ. Họ ước tính trữ lượng dầu vào khoảng 23-30 triệu tấn, tương đương 1/3 tổng nguồn tài nguyên dầu khí của Trung Quốc.

Ông Zhang Dawei, thuộc Bộ Tài nguyên Đất, cho rằng biển Đông sẽ trở thành một trong 10 địa điểm khai thác dầu khí chính của Trung Quốc: trữ lượng dầu ước đạt 23-30 triệu tấn hoặc 168-220 triệu thùng. Cũng như với dầu mỏ, ước tính trữ lượng khí tự nhiên ở biển Đông cũng rất lớn. Một ước tính của Trung Quốc cho thấy toàn bộ khu vực này có trữ lượng hơn 50 ngh́n tỷ mét khối khí. Một báo cáo khác của Trung Quốc ước tính 225 triệu thùng dầu riêng ở quần đảo Trường Sa.

Tháng 4/2006, Husky Energy cùng với Tập đoàn Dầu khí hải ngoại của Trung Quốc thông báo phát hiện một túi khí tự nhiên gần quần đảo Trường Sa, có trữ lượng khoảng 186 triệu mét khối. Năm 2007, Bắc Kinh đă mời thầu 22 khu mỏ dầu ở biển Đông nằm trong các khu vực cách đảo Hải Nam hơn 1.000 hải lư. Các hoạt động mới đây diễn ra tháng 5/2010, khi Trung Quốc cử tàu thăm ḍ địa chất M/V Western Spirit đến nghiên cứu địa chất ở vùng biển quanh đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa, trong khu vực chồng lấn với các khu đang khai thác dầu khí 141, 142 và 143 của Việt Nam. Đồng thời, Trung Quốc tiến hành các hoạt động san nền trên đảo Tri Tôn để chuẩn bị cho xây dựng. Ngày 5/8, Chính phủ Việt Nam đă chính thức phản đối và đề nghị lập tức ngừng các hoạt động này.

Trung Quốc xúc tiến các ư tưởng khai thác chung nguồn năng lượng trên biển Đông nhưng lại phản đối các hoạt động khai thác năng lượng của các nước khác trong khu vực h́nh chữ U (hay c̣n gọi là đường lưỡi ḅ) mà Trung Quốc đ̣i chủ quyền. Về nguyên tắc, các nước đ̣i chủ quyền khác không phản đối đề xuất khai thác chung của Trung Quốc, song việc xác định các khu vực mà các bên chấp nhận là thực sự đang có tranh chấp vẫn là khó khăn lớn nhất để đưa những ư tưởng này thành hiện thực. Các nước này không chấp nhận đề xuất của Trung Quốc tiến hành khai thác chung tại các khu vực nằm trong yêu sách đường lưỡi ḅ bao trùm cả những địa điểm cách đảo Hải Nam đến 700 hải lư và nằm trong vùng EEZ rộng 200 hải lư của các nước đ̣i chủ quyền khác.

Trong trường hợp Thỏa thuận Thăm ḍ địa chất chung trên biển Đông năm 2005 kư giữa các tập đoàn dầu lửa quốc gia của Trung Quốc, Philippines và Việt Nam, Philippines đă không gia hạn thêm văn bản này v́ vấp phải sự phản đối trong nước, lên án chính phủ cho phép khu vực khai thác chung ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này.

Hồ sơ đệ tŕnh đăng kư thềm lục địa mở rộng

Căng thẳng về thềm lục địa biển Đông cũng không phải là không có liên quan đến các diễn biến tại biển Đông trong 2-3 năm qua, xung quanh thời hạn 13/5/2009. Một thỏa thuận của các nước kư kết UNCLOS đă ra hạn chót là ngày 13/5/2009 để các nước đăng kư thềm lục địa mở rộng, nằm ngoài giới hạn 200 hải lư theo quy định của Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) của Liên hợp quốc.

Ngày 6/5/2009, Malaysia và Việt Nam đă tŕnh một hồ sơ chung lên CLCS đối với một khu vực đáy biển ở biển Đông nằm ngoài giới hạn 200 hải lư EEZ của mỗi nước. Ngày sau đó, Việt Nam đă tŕnh một hồ sơ khác liên quan đến phần phía Bắc biển Đông. Trung Quốc lập tức gửi công hàm phản đối cả hai bản tŕnh, coi đó là vi phạm chủ quyền của ḿnh và đề nghị Ủy ban của LHQ bác bỏ các hồ sơ này. Sau gần 3 tháng, ngày 4/8/2009, Philippines cũng gửi công hàm phản đối các bản đệ tŕnh lên CLCS của Việt Nam và Malaysia. Hai nước này cũng lập tức phản đối các công hàm của Trung Quốc và Philippines.

Trung Quốc cũng tŕnh lên CLCS một tài liệu sơ bộ liên quan đến biển Hoa Đông, trong đó tuyên bố rằng Trung Quốc bảo lưu quyền đăng kư thềm lục địa ngoài giới hạn 200 hải lư tại "các khu vực biển khác", có thể ư muốn nói đến các khu vực biển Đông.

Philippines cũng đă tŕnh một hồ sơ chưa đầy đủ về các khu vực thềm lục địa nằm ngoài giới hạn 200 hải lư của EEZ ở khu vực Rănh Benham trên biển Philippines. Tuy nhiên, nước này đă bảo lưu quyền đăng kư thêm đối với "các khu vực khác chưa xác định" trong tương lai. Các diễn biến xung quanh các hồ sơ đệ tŕnh của các nước liên quan đă có một số tác động đến t́nh h́nh biển Đông nói chung, và đối với các hoạt động hợp tác nói riêng.

Các hồ sơ tŕnh CLCS của Malaysia và Việt Nam đă làm rơ các ranh giới yêu sách về thềm lục địa của ḿnh tính từ đường cơ sở. Hơn nữa, dường như Việt Nam và Malaysia không coi bất cứ h́nh thái địa chất nào trong quần đảo Trường Sa (và Hoàng Sa trong trường hợp hồ sơ tŕnh của Việt Nam) là được mang quy chế đảo quy định trong điều 121 của UNCLOS. Nếu bất cứ đảo nào ở biển Đông đều có thể đi kèm với các quyền thềm lục địa và EEZ, th́ không có khu vực thềm lục địa mở rộng để đệ tŕnh lên CLCS. Việc Việt Nam không b́nh luận ǵ về thỏa thuận giữa Chính phủ Philippines và Energy Forum trong lưu vực Băi Cỏ rong đă khẳng định lại cách nghĩ trên của Việt Nam.

Nếu sự rơ ràng trong yêu sách của Việt Nam và Malaysia liên quan đến các đảo tranh chấp nói trên được các bên ở biển Đông thông qua, nó sẽ đơn giản hóa đáng kể toàn bộ tranh chấp bằng cách thu hẹp căn bản các yêu sách biển gắn với các đảo đang tranh chấp. Sẽ có thể có hẳn một khu vực ở trung tâm biển Đông được coi là "chiếc bánh thềm lục địa" nằm ngoài giới hạn của thềm lục địa tính từ đảo gần nhất hoặc từ đất liền của các nước xung quanh biển Đông, mở cánh cửa hợp tác khai thác tài nguyên biển.

Cách hiểu đơn giản hóa và hướng tới giải pháp cho tranh chấp của Việt Nam và Malaysia về "quy chế của các h́nh thái địa chất" thuộc quần đảo Trường Sa như trên được các nước xung quanh biển Đông đồng t́nh, trừ Trung Quốc. Trong tài liệu phản đối hồ sơ đệ tŕnh của Việt Nam và Malaysia, Trung Quốc khẳng định "chủ quyền không thể tranh căi của ḿnh đối với các đảo ở biển Đông và các vùng nước tiếp giáp, và quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như thềm lục địa và tầng đất cái của nó".

Đính kèm với hồ sơ của Trung Quốc là một bản đồ mô tả yêu sách đường lưỡi ḅ gồm 9 đoạn, bao trùm gần hết diện tích biển Đông. Điều này có nghĩa là Trung Quốc sử dụng một yêu sách thay thế, bên cạnh yêu sách lịch sử của họ, dựa trên một thềm lục địa và EEZ từ các đảo nhỏ của quần đảo Trường Sa mà họ cũng đ̣i là của ḿnh. Gần đây nhất, trong công hàm gửi Tổng thư kư Liên hợp quốc đáp lại công hàm của Philippines phản đối đường lưỡi ḅ, Trung Quốc đă lần đầu tiên tuyên bố công khai và chính thức rằng "quần đảo Nam Sa của Trung Quốc có đầy đủ lănh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa".

Cần phải nói rơ rằng quan điểm của Chính phủ Trung Quốc về "quy chế quần đảo" trên biển Đông đi ngược lại với quan điểm của chính nước này đối với quy chế đảo Oki-no-Tori Shima của Nhật Bản, coi đây là một vỉa đá ngầm nhỏ và biệt lập có nhiều đặc điểm chung với các h́nh thái địa chất của quần đảo Trường Sa và nằm gần trung tâm khu vực biển Philippines ở Tây Thái B́nh Dương. Trong công hàm của Trung Quốc gửi Tổng thư kư LHQ phản đối hồ sơ đệ tŕnh của Nhật Bản về thềm lục địa 200 hải lư tính từ đường cơ sở là đảo Oki-ni-Tori Shima và thềm lục địa mở rộng bên ngoài 200 hải lư, Trung Quốc nói rằng "cái được gọi là đảo Oki-ni-Tori Shima trên thực tế là một băi đá theo quy định trong điều 121(3) của Công ước".

Về quan điểm của Philippines, trong quá tŕnh chuẩn bị hồ sơ về thềm lục địa mở rộng, Philippines đă thông qua luật Đường cơ sở Quần đảo vào ngày 10/3/2009, trong đó sửa đổi đường cơ sở thẳng hiện hành cho phù hợp với các quy định đường cơ sở quần đảo ghi trong UNCLOS. Theo luật mới, nhóm quần đảo Kalayan và Scarborough Shoal vẫn là một phần của lănh thổ Philippines nhưng có "quy chế quần đảo".

Tháng 8/2009, trong các công hàm ngoại giao phản đối hồ sơ của Việt Nam và hồ sơ chung của Việt Nam và Malaysia gửi CLCS, Philippines không nhắc đến bất kỳ thềm lục địa nào phát sinh từ quần đảo Kalayan đang tranh chấp, nhưng nói rằng "hồ sơ về thềm lục địa mở rộng của Việt Nam nằm trong các khu vực đang tranh chấp v́ nó chồng lấn với các khu vực của Philippines" (thềm lục địa mở rộng bên ngoài 200 hải lư tính từ đường cơ sở quần đảo) và "hồ sơ chung về thềm lục địa mở rộng của Việt Nam và Malaysia nằm trong các khu vực đang tranh chấp không chỉ v́ nó chồng lấn lên thềm lục địa mở rộng của Philippines, mà c̣n v́ tranh chấp liên quan đến các đ̣i hỏi chủ quyền của một số quần đảo trong khu vực, trong đó có Bắc Borneo".

Có thể hiểu rằng điều đó có nghĩa là Philippines không coi bất kỳ h́nh thái địa chất nào trên quần đảo Trường Sa là đảo theo quy định trong điều 121 của UNCLOS. Như vậy các h́nh thái địa chất này không thể được hưởng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Liên quan đến quan điểm của Indonesia, trong một văn bản lưu hành tại LHQ ngày 8/7/2010, nhằm phản đối bản đồ yêu sách 9 đoạn đính kèm với hồ sơ của Trung Quốc nói trên, Indonesia cho rằng "những h́nh thái địa chất rất nhỏ và xa xôi này trên biển Đông không xứng đáng hưởng vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa riêng ", và "cái gọi là bản đồ 9 đoạn đứt... thực sự thiếu cơ sở pháp lư quốc tế và như thể nhằm đảo lộn UNCLOS 1982".

Brunei cũng dường như chia sẻ quan điểm của các nước liên quan trong ASEAN. Trong tài liệu sơ bộ về thềm lục địa mở rộng tŕnh CLCS ngày 12/5/2009, Brunei cho biết đă đạt tiến bộ đáng kể hướng tới việc chuẩn bị một hồ sơ đầy đủ, nhưng chỉ có thể cung cấp hồ sơ này sau ngày 13/5/2009. "Hồ sơ đầy đủ của Brunei gửi ủy ban sẽ chứng tỏ rằng mép ngoài của thềm lục địa, nằm ở vùng chuyển giao giữa Dangerous Grounds và ḷng biển sâu ở biển Đông, thuộc khu vực 200 hải lư tính từ đường cơ sở được dùng để tính lănh hải của Brunei. Điều này có thể được hiểu là Brunei sẽ xác định thềm lục địa mở rộng bên ngoài 200 hải lư mà không tính đến các đảo mà họ đang đ̣i chủ quyền thuộc quần đảo Trường Sa.

Theo VietnamWeek
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	IMG_74402.JPG
Views:	22
Size:	9.7 KB
ID:	301966  
vuitoichat_is_offline  
 
User Tag List


Facebook Comments


Phim Bộ Sốt Nhất 1 Tháng qua

Phim Bộ Sốt Nhất 2 Tháng qua

Phim Bộ Sốt Nhất 3 Tháng qua

Phim Bộ Sốt Nhất 6 Tháng qua

Phim Bộ Sốt Nhất 1 Năm qua
iPad Tablet Menu

HOME

Breaking News

Society News

VietOversea

World News

Business News

Other News

History

Car News

Computer News

Game News

USA News

Mobile News

Music News

Movies News

Sport News

ZONE 1

ZONE 2

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Thơ Ca

Help Me

Sport Live

Stranger Stories

Comedy Stories

Cooking Chat

Nice Pictures

Fashion

School

Travelling

Funny Videos

NEWS 24h

HOT 3 Days

NEWS 3 Days

HOT 7 Days

NEWS 7 Days

HOT 30 Days

NEWS 30 Days

Member News
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.