Người Việt sinh sống, kinh doanh tại Hoa Kỳ không thể tránh được chuyện đóng thuế. Vậy thuế là ǵ, v́ sao phải đóng thuế? Thuế ảnh hưởng tới đời sống người Việt thế nào?
Bản đồ thuế xăng tại Hoa Kỳ
Thuế th́ có nhiều h́nh thức thuế mà tất cả nước nào cũng có luật thuế. Tuy nhiên đề tài hôm nay không nói về h́nh thức của các loại thuế — mà là nói về người Việt trên lănh vực đóng thuế và người làm công việc khai thuế cho người khác, đặc biệt là khai thuế cho những người Việt không rơ về luật thuế.
Dĩ nhiên bản tính tự nhiên của Con Người, dù là người Mỹ hay người Việt, ai cũng muốn đóng thuế càng ít càng tốt. Người làm nghề khai thuế cho người khác vào mùa thuế lợi tức, thông thường từ giữa tháng 1 cho đến giữa tháng 4, luôn luôn t́m đủ mọi cách để thân chủ của ḿnh (người đóng thuế) lấy tiền về thật nhiều, hoặc giảm bớt tiền phải đóng thuế lại cho chính quyền liên bang dựa vào những bộ luật thuế được áp dụng cho tất cả mọi người, gồm cả các công ty.
Tuy rằng luật thuế lợi tức tại Hoa Kỳ áp dụng cho mọi người, nhưng những ai giàu th́ có nhiều cách để đóng thuế ít hơn những người nghèo. Hăy lấy thí dụ điển h́nh để chứng minh điều này. Nếu ai đó có một số tiền thật lớn đầu tư vào Municipal Bond (một h́nh thức chính quyền tiểu bang mượn tiền để tài trợ cho những dự án lâu dài như xây dựng lại đường xá, cầu cống, hay những công tŕnh xây dựng cần phải làm nhưng ngân sách chưa cho phép do đó phải mượn nguồn vốn từ bên ngoài) và trong năm cá nhân này được trả số tiền lời là 100 ngàn đồng. Theo luật thuế của liên bang th́ số tiền này không bị thuế lợi tức của liên bang bởi tiền lời nhận từ chính quyền tiểu bang qua dạng municipal bond. Một người khác đi làm nhân công cho một công ty nào đó cũng với số tiền lương là 100 ngàn đồng trong năm — th́ số tiền 100 ngàn này sẽ bị nhiều loại thuế với số phần trăm là 15% — 25% tùy theo cá nhân này có gia đ́nh hay không có gia đ́nh.
Ở một khía cạnh nào đó chúng ta cho rằng điều này không công bằng bởi cũng với số tiền thu vào là 100 ngàn nhưng một người sau khi trừ thuế xong chỉ lấy về khoảng 70 hoặc 80 trong khi người kia th́ bỏ vào túi ḿnh 100 ngàn không phải đóng thuế đồng nào. Nếu chỉ nh́n vào con số để đánh giá không công bằng th́ không chính xác lắm, bởi v́ ai cũng có thể bỏ tiền mua municipal bond để được trả tiền lời mỗi năm và không phải đóng thuế cho chính quyền liên bang. Tiếc rằng chỉ có người giàu mới có khả năng làm chuyện đầu tư này và người nghèo làm nhân công đành phải chịu đóng thuế vào đồng lương của chính ḿnh. Đây chỉ là một trong nhiều thí dụ mà bộ luật thuế của liên bang nâng đỡ người giàu — tạo ra t́nh trạng người giàu — số phần trăm thuế phải đóng thấp hơn với những người không giàu. Có lẽ v́ ở điểm này mà nhà tỷ phú, Warren Buffett than phiền là cần thay đổi luật thuế bởi người thư kư của ông, phần trăm đóng thuế cao hơn với phần trăm đóng thuế của ông — mặc dù số thu nhập của ông rất cao so với số thu nhập của cô thư kư.
Một thí dụ khác bằng những con số thật để chứng ḿnh luật thuế của Mỹ giúp người giàu nhiều hơn. Ông Mitt Romney, cựu ứng cử viên Tổng Thống cho năm 2012, số tiền ông làm trong năm 2011 là 13.7 triệu và số phần trăm ông phải đóng cho số tiền này là 14.1%. Một người làm nhân công với đồng lương 200 ngàn một năm th́ số phần trăm thuế chắc chắn sẽ hơn 14.1% với con số phần trăm nhà triệu phú Mitt Romney đă đóng.
Trở về lại vấn đề người Việt Nam trên lănh vực khai thuế th́ có nhiều chuyện để nói. Trong những chuyện sẽ nói này — giúp chúng ta t́m hiểu về cái Con Người Việt Nam ra sao ở một đất nước gọi là tự do dân chủ. Trong đề tài này có hai thành phần sẽ được nói đến. Thành phần thứ nhất là người đóng thuế. Thành phần thứ hai là người làm nghề khai thuế giúp đỡ người đóng thuế làm thủ tục thuế và nhận tiền thù lao trên lănh vực này.
Người đóng thuế
Tất cả các giống dân sống tại Hoa Kỳ đều t́m đủ mọi cách để đóng thuế thật ít. Đây là quyền lợi cũng như nghĩa vụ của một công dân hay thường trú nhân tại Hoa Kỳ. Quyền lợi được hiểu là quyền được khấu trừ những chi phí cần thiết trong việc tạo ra đồng tiền. C̣n nghĩa vụ là nghĩa vụ đóng thuế lợi tức mà tất cả mọi người sống tại Hoa Kỳ này phải thực hiện. Thường những người đi làm công cho các công ty và được trả lương theo dạng nhân viên th́ không có nhiều cơ hội khấu trừ những chi phí so với những người làm việc theo dạng không phải là nhân viên hay c̣n gọi là nghề nghiệp độc lập do chính ḿnh làm chủ.
Người làm nghề độc lập th́ được khấu trừ tiền điện thoại di động hay điện thoại dây tại nhà nếu làm việc tại nhà, đồng thời được khấu trừ tiền xăng, bảo hiểm xe nếu chiếc xe được sử dụng cho nghề nghiệp của chính ḿnh vào số tiền ḿnh làm trong năm. Trong khi đó người làm việc là nhân viên cho một công ty nào đó th́ tiền xăng từ nhà đến chỗ làm, hoặc tiền điện thoại di động không được khấu trừ vào đồng lương của ḿnh. Mà cho dù có được khấu trừ th́ phải qua sự khấu trừ chi tiết (itemize) mà ít ai có thể làm được.
Người đóng thuế th́ số đông không biết luật — cho nên có những chi phí mà người làm nghề độc lập không biết là ḿnh được quyền khấu trừ, hoặc ngược lại là những chi phí không nên khấu trừ th́ lại khấu trừ vào tiền thu nhập của chính ḿnh. Chi phí giao tiếp với khách hàng như ăn uống, giải trí đều được quyền khấu trừ vào số tiền thu nhập mà ít ai nắm rơ điều này. Trái lại chi phí đi du lịch cho chính bản thân, hoàn toàn không dính dáng đến công việc làm ăn của ḿnh th́ lại khấu trừ vào số tiền thu nhập để giảm bớt tiền thuế.
Câu hỏi được đặt ra là phải chăng — người đóng thuế gian lận khi khấu trừ những chi phí mà đúng ra không được khấu trừ? Để trả lời cho câu hỏi này thật chính xác cần phải có thêm dữ kiện. Người đóng thuế có thực sự hiểu luật thuế hay không? Nếu không hiểu luật thuế mà khấu trừ những chi phí sai th́ không thể gọi là người gian, bởi cá nhân đó không hiểu luật. Tuy nhiên, đối với sở thuế, khi bị sở thuế kiểm tra giấy tờ thuế và khai gian th́ sẽ bị phạt chứ không thể nào đổi thừa là tại tôi không biết luật.
Nếu người đóng thuế biết luật và nắm rơ là phần trăm bị sở thuế kiểm soát sổ sách rất là thấp, khoảng 2% – 5% tổng số người khai thuế bị sở thuế gơ cửa kiểm soát giấy tờ thuế. Số tiền thu vào càng cao th́ phần trăm bị sở thuế gơ cửa càng cao (cũng vẫn ở con số 5% hoặc 7%). Và bởi v́ cơ hội để sở thuế kiểm soát giấy tờ rất là thấp, người đóng thuế biết luật sẽ khai bừa băi những chi phí hoàn toàn không có thật, những chi phí hoàn toàn không có giấy tờ chứng minh. Những người này có trong cộng đồng Việt Nam cũng như ở các cộng đồng khác. Phải chăng đây là những người xấu trong xă hội? Không hẳn thế. Nếu định nghĩa cái xấu là trốn thuế th́ có lẽ đúng, nhưng trong xă hội — những người này có thể là những con người rất tốt, rất năng nổ trên nhiều lănh vực giúp cộng đồng và làng xóm của ḿnh, biết phân biệt giữa thiện — ác.
Dĩ nhiên những người gian thuế này có rất ít trong cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ. Những cộng đồng khác cũng có những người gian lận thuế như thế này chứ không phải là chỉ người Việt mà thôi. Một lư luận khác rất là hữu lư th́ những người gian thuế này cho rằng đây là sự công bằng. Luật thuế tạo điều kiện cho người giàu đóng thuế thấp th́ chuyện gian lận nhỏ này gọi là công bằng cho những người không được giàu có. Dĩ nhiên số người gian lận thuế này là con số rất nhỏ bởi cơ chế tại Hoa Kỳ làm cho mọi người hiểu rơ bổn phận và trách nhiệm của một công dân hay thường trú nhân. Mục đích của cơ chế thuế là tạo nhiều điều kiện cho nhiều người tự nguyện làm chuyện đúng và giảm con số người làm chuyện sai trái trên lănh vực thuế. Ai làm sai sẽ bị luật pháp phạt hoặc bỏ tù mà không cần biết cá nhân đó là ai, đang giữ địa vị quan trọng nào trong xă hội. Ngay cả những người làm trong cơ quan thuế vụ, họ hiểu rơ kẽ hở của luật thuế và chính v́ vậy họ là những người có những tiêu chuẩn đặt cao hơn với người b́nh thường. Nghĩa là nếu những người làm trong cơ quan thuế vụ không khai thuế mỗi năm, trốn thuế, hoặc gian lận thuế th́ sẽ bị mất việc làm. Cơ chế chặt chẽ với sự kiểm soát của luật lệ rơ ràng đă làm cho hệ thống pháp luật về thuế của Hoa Kỳ có phần trăm hữu hiệu cao hơn các quốc gia độc tài trong đó có Việt Nam.
Người Làm Công Việc Khai Thuế
Người đóng thuế không biết luật cho nên vào mùa khai thuế, phần đông mọi người t́m đến người làm công việc khai thuế để giúp đỡ hoàn thành thủ tục thuế cho mỗi năm. Người làm công việc khai thuế này thường là những người có nhiều hiểu biết về luật thuế và sẽ giúp cho thân chủ ḿnh (người đóng thuế) hoàn thành thủ tục thuế cho hợp lệ với những luật khấu trừ mà sở thuế đă đưa ra cho mọi người.
Người Việt hay có cái nh́n không đúng là — khi ḿnh đến trả tiền người khai thuế cho ḿnh th́ người khai thuế sẽ chịu trách nhiệm cho giấy tờ thuế của ḿnh. Thực ra người khai thuế, Việt Nam hay các công ty Mỹ, không phải là người chịu trách nhiệm với sở thuế nếu giấy tờ thuế ḿnh khai sai trái.
Sai trái ở đây có hai ba trường hợp xảy ra. Trường hợp thứ nhất là do người làm thuế sơ xuất trong con số cho nên ghi số tiền thu nhập thấp hơn, hoặc số tiền chi tiêu cao hơn, để rồi khi hồ sơ thuế nộp lên sở thuế và bị sở thuế gơ cửa để kiểm soát giấy tờ thuế của ḿnh. Trường hợp thứ hai người khai thuế biết luật và chỉ cho thân chủ ḿnh những phần chi có thể khấu trừ vào tiền thu nhập mà không cần biết thân chủ có giấy tờ chứng minh số thu nhập đó hay không. Trường hợp thứ ba là thân chủ cung cấp những con số không đúng sự thật và người khai thuế dựa vào đó mà hoàn thành thủ tục khai thuế cho thân chủ. Ba trường hợp trên nếu xảy ra và bị sở thuế đến gơ cửa xem giấy tờ thuế, người đóng thuế là người chịu trách nhiệm cho giấy tờ thuế của ḿnh. C̣n người khai thuế hoàn toàn không bởi họ chỉ làm nhiệm vụ là một nhân công làm việc cho thân chủ của ḿnh mà thôi.
Ngay cả chuyện người đóng thuế đi thưa kiện người khai thuế cũng rất là khó khăn để chứng minh với quan toà là người khai thuế làm sai chứ không phải do người đóng thuế cung cấp dữ kiện sai. Cần nên nhớ rằng, người đóng thuế phải có trách nhiệm xem lại giấy tờ thuế của ḿnh sau khi người khai thuế đă làm xong. Dĩ nhiên sẽ có người nói rằng tôi đâu có biết luật thuế th́ làm sao tôi biết người làm thuế làm sai hay không làm sai? Điều này đúng nhưng trên mặt luật pháp rất khó chứng minh với quan toà là cá nhân ḿnh không có trách nhiệm trên giấy tờ thuế của ḿnh. Ít nhất ḿnh phải coi lại giấy tờ thuế của ḿnh những số tiền thu vào có ghi rơ trên giấy tờ thuế hay không và số tiền chi ra do ḿnh đưa cho người làm thuế có ghi đúng trên giấy tờ thuế hay không. Những chi phí khác ḿnh thấy lạ th́ ḿnh có quyền hỏi người làm thuế là ǵ nếu những chi phí đó ḿnh hoàn toàn không có dữ kiện chứng minh.
Một câu hỏi khá lư thú mà người Việt hay hỏi là nên để người Việt làm giấy tờ thuế cho ḿnh hay để các công ty Mỹ? Thực ra người Mỹ hay người Việt, nếu đă thực sự làm thuế chuyên nghiệp th́ điều hiểu biết luật như nhau. Đối với các công ty Mỹ, bởi v́ là công ty nên có nhiều khách hàng cho nên có nhiều trường hợp đặt biệt họ nắm vững luật thuế mà không cần tốn thời gian để t́m hiểu. Chẳng hạn như đồng lương làm tại nước ngoài như thế nào mà đồng lương đó không phải đóng thuế cho sở thuế của Hoa Kỳ. Điều này người làm thuế VN ít gặp cho nên có thể làm sai hoặc phải mất thời gian nhiều hơn để t́m hiểu cho thân chủ của ḿnh. Một sự khác biệt nữa là công ty Mỹ th́ tính tiền công nhiều hơn người Việt. Và ngay cả giữa những người Việt, giá cả làm thuế cũng khác nhau. Giá cả khác nhau không có nghĩa là người giá cao sẽ giỏi hơn mà phải hiểu là sự cạnh tranh với nhau, cho nên người mới ra nghề cần có khách hàng nên đưa giá thấp để t́m khách hàng. C̣n người đă làm lâu năm, đủ để sống th́ chỉ muốn làm với giá mà ḿnh thấy phù hợp với công sức bỏ vào chứ không muốn làm giá rẻ.
Trong bất cứ nghề nghiệp nào cũng đều có cái lương tâm nghề nghiệp hay c̣n gọi là đạo đức nghề nghiệp. Đa số những người làm công chuyện khai thuế cho khách hàng là những người có lương tâm nghề nghiệp. Họ nhận tiền thù lao và họ sẽ làm tṛn trách nhiệm của một nhà chuyên nghiệp về thuế. Người Mỹ hay người Việt làm công chuyện khai thuế này đều có lương tâm nghề nghiệp.
Dĩ nhiên có một số nhỏ không có lương tâm nghề nghiệp, sẵn sàng t́m đủ mọi cách để lấy lại thật nhiều tiền cho thân chủ mà không cần biết đúng luật hay không đúng luật. Sau đây là vài điểm để thấy là người làm thuế có lương tâm nghề nghiệp.
Khi một khách hàng mới, có cơ sở thương mại vừa mới mở, đến với công ty khai thuế của ḿnh, một người làm thuế có lương tâm sẽ coi tất cả những giấy tờ của khách hàng và dành thời gian nói chuyện với khách hàng về những chi phí có thể khấu trừ mà người khách hàng không biết. Thí dụ chi phí ăn uống, chi phí xe cộ trong việc giao tế thương mại. Hoặc nếu khách hàng đưa ra những con số tiền thu và chi ra th́ cũng nên hỏi tất cả những con số đó có giấy tờ chứng minh hay không. Nếu không có th́ cũng nhắc nhở với khách hàng là ḿnh sẽ dựa vào đó để khai nhưng nếu khi sở thuế gơ cửa th́ cần phải có giấy tờ chứng minh với sở thuế. Hoặc có những chi phí mà khách hàng muốn khai trong hồ sơ thuế nhưng không hợp pháp th́ người làm thuế có lương tâm sẽ không làm khai trong hồ sơ thuế, cho dù khách hàng hăm dọa là sẽ đi đem hồ sơ đến công ty khác để làm, người làm thuế có lương tâm sẽ không v́ sự hăm dọa đó mà làm sai luật.
Cũng với h́nh ảnh bên trên, người làm thuế vô lương tâm không muốn nói chuyện với khách hàng mới của ḿnh bởi mất nhiều thời gian. Dựa vào giấy tờ khách hàng đưa cho ḿnh mà không cần biết thiếu sai, đúng luật hay không đúng luật. Người viết đă từng có kinh nghiệm với người làm thuế VN hơn 30 năm về trước, khi nh́n lại giấy tờ thuế lợi tức của những năm 1982 th́ người làm thuế ghi rằng người viết có nuôi một người (thực tế th́ hoàn toàn không). Vào thời điểm đó, ai đó khai nuôi một người nào đó không cần đ̣i hỏi phải ghi số an sinh xă hội của người được nuôi đó. Chính v́ thế mà người làm thuế VN dựa vào đó khai đại để người viết được lấy tiền về nhiều hơn. Vào thời điểm đó người viết mới qua Mỹ 2 năm, tiếng Anh chưa biết rành th́ làm ǵ biết luật thuế cho nên giao phó cho người làm thuế và đến bây giờ nh́n lại thấy hoàn toàn sai sự thật. Ở cái thời điểm hôm nay, 2015, sở thuế đă học hỏi được nhiều kinh nghiệm và với hệ thống điện toán hiện giờ, người làm nghề thuế rất là khó khăn để khai gian cho khách hàng của ḿnh.
Nói thế không có nghĩa là người làm thuế không khai gian được nếu là người làm thuế vô lương tâm. Hăy lấy thí dụ về tiền giúp đỡ của chính phủ về việc thay đổi máy lạnh trong nhà hay cửa sổ trong nhà (Energy Tax Credit). Theo bộ luật này th́ người chủ căn nhà thay máy lạnh mới, cửa sổ mới thuộc loại tiêu thụ năng lượng thấp th́ sẽ hưởng 10% (hoặc tối đa là 500 đô) của tổng số tiền bỏ ra mua cửa sổ, máy lạnh hầu giảm tiền đóng thuế của ḿnh hoặc được trả lại nếu không phải đóng thuế trong năm. Tuy nhiên người chủ nhà hoàn toàn không có mua ǵ hết trong năm nhưng người làm thuế vẫn cứ khai là có mua để lấy 500 đô về cho khách hàng — th́ rơ ràng người làm thuế đă vi phạm luật và không có lương tâm nghề nghiệp của ḿnh. Khi bị sở thuế gơ cửa th́ chính khách hàng là người chứng minh giấy tờ với sở thuế là ḿnh thực sự có mua những món đồ để hưởng 500 đô trên. Nếu không có giấy tờ chứng minh sẽ bị sở thuế lấy lại 500 đô, cộng với tiền lời và tiền phạt.
Kết Luận
Bài viết này muốn chia sẻ h́nh ảnh của người Việt tại Hoa Kỳ trong vấn đề hoàn thành trách nhiệm của một thường trú nhân hay công dân Hoa Kỳ trên lănh vực thuế. Cái cơ chế của Hoa Kỳ tạo cho mọi người tin tưởng và từ đó số người t́nh nguyện làm đúng luật cao hơn con số gian lận thuế. Trong khi đó cơ chế VN, một cơ chế độc đảng th́ chỉ là nơi tạo ra sự trốn thuế và người trốn thuế được có lợi, thanh tra viên cũng có lợi bởi nhận hối lộ từ người trốn thuế. Chỉ có đất nước là cạn kiệt bởi không ai làm tṛn bổn phận sự (người đóng thuế và người thi hành luật thuế) đóng thuế của chính ḿnh.
New Orleans, LA