Từ năm 1979, các nước phát triển bao gồm Úc, Anh, Nhật Bản, Đức, Hoa Kỳ, Canada và các nước phát triển khác đă cung cấp một lượng viện trợ khổng lồ cho Trung Quốc. Vẫn giúp Trung Quốc phát triển kinh
tế dưới h́nh thức hợp tác kinh tế và hỗ trợ kỹ thuật. Ngay cả khi họ bị thâm hụt hàng năm liên tục, họ vẫn đưa tiền để hỗ trợ Trung Quốc.
Trung Quốc là một trong những quốc gia tiếp nhận lớn nhất trên thế giới. Theo thống kê chưa đầy đủ, từ năm 1979 đến 2003, Trung Quốc đă nhận được tổng cộng 107,2 tỷ đô la Mỹ viện trợ chính thức. Năm 2009, tại lễ kỷ niệm 30 năm hỗ trợ đa phương và song phương cho Trung Quốc và kỷ niệm lần đầu tiên hỗ trợ quốc tế cho khu vực bị động đất ở Vấn Xuyên, Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc khi đó tuyên bố rằng trong 30 năm qua, Trung Quốc đă hợp tác với Chương tŕnh Phát triển Liên Hợp Quốc, UNICEF, Liên minh châu Âu, Nhật Bản. Úc, Canada và hơn 20 tổ chức và chính phủ quốc tế đă thực hiện hợp tác phát triển hiệu quả trong hơn 30 lĩnh vực bao gồm xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, giáo dục, y tế, tái cấu trúc, năng lượng, v.v. và nhận được gần 6,7 tỷ đô la Mỹ (khoảng 469 đô la Mỹ (khoảng 469 đô la Mỹ) 100 triệu nhân dân tệ), gần 2.000 dự án đă được thực hiện.
Trong số đó, Úc là quốc gia đầu tiên cung cấp viện trợ cho Trung Quốc và Nhật Bản là quốc gia viện trợ lớn nhất của Trung Quốc.
Hỗ trợ kinh tế của Nhật Bản cho Trung Quốc bắt đầu vào năm 1979, và năm 1981, chính phủ Nhật Bản bắt đầu cung cấp hỗ trợ miễn phí cho Trung Quốc . Theo dữ liệu hỗ trợ phát triển chính thức của Nhật Bản từ Bộ Ngoại giao Nhật Bản, từ năm 1979 đến 2010, Trung Quốc đă nhận được khoảng 263,8 tỷ RMB tiền vay phát triển ưu đăi từ Nhật Bản, khoảng 12,4 tỷ RMB viện trợ miễn phí và khoảng 13,8 tỷ RMB cho các quỹ hợp tác kỹ thuật. Tổng số tiền lên tới khoảng 290 tỷ nhân dân tệ (41,4 tỷ USD), liên quan đến hơn 200 dự án. Trung Quốc là nước nhận lớn nhất của Nhật Bản trong hơn 30 năm và 66,9% viện trợ nước ngoài của Trung Quốc đến từ Nhật Bản.
Đến cuối năm 2010, Nhật Bản đă cung cấp cho Trung Quốc quỹ viện trợ để thực hiện tổng cộng 144 dự án thuộc nhiều loại h́nh khác nhau, liên quan đến y tế, bảo vệ môi trường, giáo dục, nông nghiệp, xóa đói giảm nghèo và các lĩnh vực khác.
Sau khi bước vào thế kỷ 21, trọng tâm của hỗ trợ Nhật Bản cũng đă bắt đầu chuyển từ các lĩnh vực cơ sở hạ tầng như bến cảng, năng lượng, cảng, đường sắt, điện và truyền thông sang bảo vệ môi trường, công nghệ và đào tạo nhân sự. Phương thức cấp các khoản vay cũng đă thay đổi từ một lượng lớn trong năm năm tới một năm.
Về trao đổi nhân sự và đào tạo, một khoản hỗ trợ hàng năm khoảng 30 triệu USD được cung cấp. Tính đến năm 2003, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản đă đào tạo hơn 15.000 nhà quản lư cho Trung Quốc và Hiệp hội Đào tạo Kỹ thuật viên nước ngoài Nhật Bản đă đào tạo hơn 22.000 người Trung Quốc.
Các dự án đại diện hỗ trợ của Nhật Bản cho Trung Quốc bao gồm: Sân bay Thủ đô Bắc Kinh, điện khí hóa đường sắt Bắc Kinh-Qinhuangdao, Đường sắt Nankun, Thượng Hải Baosteel, Sân bay Phố Đông Thượng Hải, Cầu thứ hai sông Vũ Hán, Xử lư nước thải Bắc Kinh, Bệnh viện Hữu nghị Trung Quốc-Nhật Bản, v.v.
Mười năm trước, chính phủ Nhật Bản đă chấm dứt (hỗ trợ có trả tiền) cho Trung Quốc, tiếp tục cung cấp các khoản vay cho các dự án hiện có và tiếp tục duy tŕ các dự án hỗ trợ kỹ thuật và hỗ trợ miễn phí. Năm 2018, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tuyên bố chấm dứt hoàn toàn các h́nh thức viện trợ khác cho Trung Quốc trong chuyến thăm Trung Quốc.
Ngoài Nhật Bản, Trung Quốc cũng là nước nhận viện trợ nước ngoài miễn phí lớn nhất của chính phủ Đức. Từ năm 1982, Đức đă cung cấp cho Trung Quốc tổng cộng 1,21 tỷ USD viện trợ miễn phí trong 30 năm. Vào ngày 13 tháng 10 năm 1982, chính phủ Trung Quốc và Đức đă kư Thỏa thuận chung về hợp tác kỹ thuật và chính phủ Đức bắt đầu hỗ trợ miễn phí cho Trung Quốc. Đến cuối năm 2011, chính phủ Đức đă cung cấp tổng cộng 1,21 tỷ đô la Mỹ viện trợ miễn phí cho Trung Quốc. Trung Quốc là nước nhận viện trợ nước ngoài miễn phí lớn nhất từ chính phủ Đức.
Năm 2005, Trung Quốc đă trở thành người nhận tiền lớn nhất do Cơ quan Phát triển Pháp cung cấp. Đến năm 2009, họ đă cung cấp 552 triệu euro cho các khoản vay chưa được cấp cho Trung Quốc. Pháp đă tương đối tích cực trong việc hỗ trợ Trung Quốc. Theo dữ liệu từ OECD năm 2008, Pháp là nước viện trợ kinh tế lớn thứ ba cho Trung Quốc sau Nhật Bản và Đức. Sự hợp tác giữa Bộ Tài chính và Cơ quan Phát triển Pháp bắt đầu vào cuối năm 2003. Vào tháng 10 năm 2004, hai bên đă kư "Thỏa thuận khung về hợp tác giữa Bộ Tài chính Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa và Cơ quan Phát triển Pháp". Theo thỏa thuận khung hợp tác, Cơ quan Phát triển Pháp cung cấp cho Trung Quốc tổng cộng khoảng 120-150 triệu Euro khoản vay hỗ trợ phát triển chính thức chưa được kiểm tra mỗi năm, chủ yếu dành cho các dự án trong lĩnh vực cải thiện môi trường khí quyển toàn cầu.
Năm 2005, Trung Quốc đă trở thành người nhận tiền lớn nhất do Cơ quan Phát triển Pháp cung cấp. Trong năm đó, tổng số tiền cho các dự án do Pháp tài trợ lên tới 152 triệu euro. Các quỹ chủ yếu chảy vào năm tỉnh, vùng và thành phố phía tây: Vân Nam, Quảng Tây, Quư Châu, Tứ Xuyên và Trùng Khánh. Xây dựng năng lượng, đường cao tốc, đường sắt, nhà máy điện và các dự án khác. Tính đến năm 2009, Trung Quốc đă thực hiện 10 dự án với tổng số 552 triệu euro sử dụng các khoản vay của Cơ quan Phát triển Pháp.
Bộ Phát triển Quốc tế của Vương quốc Anh đă đưa ra Chương tŕnh Viện trợ Trung Quốc 2006-2011 trong một hồ sơ cao trong năm 2006. "Kế hoạch" làm rơ khuôn khổ chung của viện trợ Anh cho Trung Quốc trong năm năm qua. Trọng tâm của viện trợ vẫn là giúp Trung Quốc giảm nghèo và đạt được "Tiêu chuẩn Ngày phát triển thiên niên kỷ" của Liên Hợp Quốc. Các lĩnh vực chính của viện trợ là giáo dục cơ bản, pḥng chống AIDS và pḥng chống bệnh lao. , Cấp nước và vệ sinh. Theo Cục Quan hệ Kinh tế và Thương mại Quốc tế của Bộ Thương mại, vào cuối năm 2012, Trung Quốc và Anh đă đưa ra 24 dự án hợp tác với tổng giá trị 230 triệu bảng. Các lĩnh vực tập trung trong ba lĩnh vực: y tế, giáo dục, môi trường và biến đổi khí hậu.
Sau khi Vương quốc Anh tuyên bố chấm dứt viện trợ truyền thống cho Trung Quốc vào năm 2011, họ vẫn viện trợ khoảng 270 triệu nhân dân tệ (38,5 tr đô) cho Trung Quốc vào năm 2012 và tổng cộng 2,3 tỷ nhân dân tệ (328,5 tr đô) viện trợ miễn phí cho Trung Quốc trong 23 năm. Năm 1999, chính phủ Trung Quốc và Anh đă kư "Bản ghi nhớ hợp tác phát triển". Kể từ đó, chính phủ Anh đă viện trợ miễn phí cho Trung Quốc thông qua Bộ Phát triển Quốc tế Anh, lấy "giảm nghèo" làm nhiệm vụ viện trợ nước ngoài.
Tính đến năm 2012, Hoa Kỳ có tổng cộng 33 năm viện trợ cho Trung Quốc khoảng 556 triệu đô la, bao gồm cộng đồng bảo tồn văn hóa Tây Tạng, pḥng chống và điều trị AIDS và hỗ trợ khác cho hơn 30 theo dữ liệu công khai từ Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ, Hoa Kỳ bắt đầu viện trợ cho Trung Quốc vào năm 1980. Trong số đó, trong 19 năm giữa năm tài khóa 1980-1998, viện trợ của Hoa Kỳ cho Trung Quốc là 19,41 triệu đô la Mỹ.
Từ năm 1999, đây là giai đoạn phát triển nhanh chóng viện trợ của Hoa Kỳ cho Trung Quốc. Trong 14 năm kể từ năm tài khóa 1999 đến năm tài khóa 2012 khi số liệu thống kê được công bố, tổng số viện trợ của Hoa Kỳ cho Trung Quốc là khoảng 536 triệu đô la Mỹ. Về các dự án và các cơ quan tham gia, hiện có khoảng 30 dự án viện trợ của Hoa Kỳ cho Trung Quốc và gần 20 cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm tài trợ và thực hiện dự án.
Hoa Kỳ bắt đầu cung cấp hỗ trợ tài chính cho Trung Quốc vào năm 1999 và đạt 110 triệu đô la Mỹ trong năm tài khóa 2009, với trung b́nh hàng năm hơn 10 triệu đô la Mỹ, chiếm một phần tư viện trợ của Hoa Kỳ cho Trung Quốc trong cùng thời kỳ.
Chủ yếu được sử dụng để thúc đẩy quyền con người và bảo tồn văn hóa, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế của các cộng đồng Tây Tạng. Dự án Hỗ trợ Phát triển (DA) do Cơ quan Phát triển Quốc tế tài trợ và thực hiện chủ yếu liên quan đến các quy định của pháp luật và bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, Cơ quan Phát triển Quốc tế cũng hợp tác với các trường đại học và tổ chức nghiên cứu về môi trường, tài nguyên và xây dựng thông qua các dự án hỗ trợ phát triển. Các dự án hỗ trợ y tế công cộng cũng chiếm tỷ lệ lớn viện trợ của Hoa Kỳ cho Trung Quốc, chủ yếu do Bộ Y tế Hoa Kỳ và Cơ quan Phát triển Quốc tế triển khai. Các dự án hỗ trợ cụ thể chủ yếu bao gồm kiểm soát dịch bệnh, dự án nghiên cứu và đào tạo, sáng kiến về HIV / AIDS toàn cầu, cứu sống trẻ em và Sức khỏe, Sức khỏe Toàn cầu và Sự sống c̣n của Trẻ em, mới được thành lập vào năm 2008.
Trong năm tài khóa 2001-2009, tổng số hỗ trợ đó lên tới hơn 82,6 triệu đô la Mỹ, chiếm khoảng 20% viện trợ của Hoa Kỳ cho Trung Quốc trong cùng thời kỳ.
Vào cuối năm 2012, viện trợ tích lũy EU cho Trung Quốc lên tới khoảng 810 triệu Euro, với 85 dự án bao gồm thương mại, tư pháp, giáo dục, y tế và an sinh xă hội. EU bắt đầu cung cấp hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho Trung Quốc vào năm 1984. Trước năm 1995, hỗ trợ phát triển của EU cho Trung Quốc chủ yếu là xóa đói giảm nghèo, chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp.
Sau năm 1995, nó đă được thay đổi để thúc đẩy quan hệ song phương và giúp Trung Quốc đối phó với các thách thức toàn cầu như môi trường, năng lượng và biến đổi khí hậu, vốn là mối quan tâm chung của cộng đồng quốc tế. Dưới sự hỗ trợ phát triển, Liên minh châu Âu đă bắt đầu xây dựng một "Tài liệu chiến lược quốc gia" (CSP) từ năm 2002.
Vào tháng 10 năm 1981, Trung Quốc và Úc đă kư "Thỏa thuận Kế hoạch Hợp tác và Phát triển Kỹ thuật Trung Quốc-Úc". Tính đến năm 2011, Úc đă viện trợ tổng cộng 1,2 tỷ đô la Úc cho Trung Quốc và đă hoàn thành 132 dự án hợp tác liên quan đến nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, năng lượng, giao thông, dệt may, giáo dục, y tế, quy hoạch đô thị, bảo vệ môi trường, xóa đói giảm nghèo toàn diện, nâng cao năng lực, Phát triển nông thôn và các lĩnh vực khác. Bốn dự án đang được triển khai, bao gồm Dự án Đối tác Phát triển Môi trường, Dự án Sức khỏe và AIDS, Dự án Nhỏ Hợp tác Phát triển và Học bổng Phát triển.
Năm 2011, Úc tuyên bố sẽ chính thức ngừng viện trợ miễn phí truyền thống cho Trung Quốc. Trong những năm gần đây, sự giúp đỡ của Úc đối với Trung Quốc đă được thực hiện nhiều hơn dưới h́nh thức hợp tác kinh tế và thương mại song phương, chủ yếu trong các lĩnh vực bảo vệ môi trường, y tế và giáo dục.
Hoa Kỳ, Canada, Úc, Nhật Bản, Anh, Đức và Pháp và các nước thuộc Liên minh châu Âu khác không chỉ hỗ trợ Trung Quốc miễn phí mà c̣n là đối tác thương mại chính của Trung Quốc. Khoảng 80% hàng xuất khẩu của Trung Quốc được xuất khẩu sang các nước này. Hơn 90% thặng dư thương mại của Trung Quốc và số dư ngoại hối đến từ các quốc gia này. Hơn 95% công nghệ tiên tiến được Trung Quốc giới thiệu đến từ các quốc gia trên. Tiến bộ công nghệ và phát triển công nghệ của Trung Quốc về cơ bản được đào tạo bởi các nước này.
Có thể nói, Trung Quốc phát triển kinh tế nhanh chóng sau năm 1978 dựa trên chính sách cải cách và mở cửa, mặt khác, về sự chăm chỉ của người dân Trung Quốc, mặt khác, nó liên quan chặt chẽ đến các quốc gia này trong đào tạo nhân sự, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tài chính và hỗ trợ thương mại. Không thể chia cắt.
Dựa trên những sự thật trên, không có ǵ lạ khi một số cư dân mạng trong nước nói một cách có ư nghĩa: Một người nên luôn biết ơn, và những người khác sẵn sàng đối phó với bạn.
Sau đó, hăy nh́n vào sự vụng về của những con sói chiến được sản xuất tại Trung Quốc ngày nay.
Bạn vẫn cảm thấy ngạc nhiên bởi hiệu suất và khuôn mặt gớm ghiếc, và sự tuyệt chủng toàn cầu?
https://www.secretchina.com/news/gb/...27/941003.html