Thường trú nhân khi nhập cảnh Hoa Kỳ được chia ra làm hai loại: Loại thứ nhất là
"thường trú nhân trở về" (tức là
"returning LPR") và loại thứ hai là
"thường trú nhân xin nhập cảnh"
Sự khác biệt của hai diện này là:
"Thường trú nhân trở về" không cần xin phép nhập cảnh cho nên những điều luật cấm nhập cảnh không được áp dụng. Nhưng
"thường trú nhân xin nhập cảnh" v́ đương đơn đang xin nhập cảnh, Sở Di Trú được quyền áp dụng những điều luật cấm nhập cảnh.
Người nhập cảnh vào Hoa Kỳ tại phi trường. (H́nh minh họa: David McNew/Getty Images)
"Thường trú nhân trở về" chỉ cần có giấy thẻ xanh hoặc re-entry permit.
"Thường trú nhân xin nhập cảnh" là
"thường trú nhân trở về" đă có vi phạm một trong những trường hợp sau đây:
1/ Chối bỏ tư cách thường trú nhân của đương sự.
2/ Đă vắng mặt ở Hoa Kỳ liên tục hơn 180 ngày.
3/ Phạm pháp trong thời gian vắng mặt ở Hoa Kỳ, tức là phạm pháp ở bên ngoài Hoa Kỳ.
4/ Rời khỏi Hoa Kỳ trong khi đang trong quá tŕnh xét xử để bị trục xuất.
5/ Đă bị kết án về những tội nêu trong phần 212(a)(2) của bộ Luật Di trú như: "
Crimes of Moral Turpitude" như là
ăn cắp (theft), gian lận (fraud), bạo lực trong gia đ́nh (domestic violence)…; bị án hai tội trở lên và tổng cộng thời gian án tù là 5 năm trở lên; bị án việc tội buôn lậu ma túy; bị án về tội mại dâm; bị án về tội đưa người bất hợp pháp vào Hoa Kỳ,…
6/ Có dự tính nhập cảnh Hoa Kỳ ngoài những cửa khẩu nhân viên Sở Di Trú chính thức công nhận hoặc đă bị từ chối nhập cảnh Hoa Kỳ.
Như quư bạn đọc thấy trong trường hợp thứ hai, thường trú nhân vắng mặt ở Hoa Kỳ liên tục hơn 180 ngày (tức là trên 6 tháng) sẽ bị coi là
"thường trú nhân xin nhập cảnh" và Sở Di Trú được quyền áp dụng những điều luật cấm nhập cảnh.
Cũng có thể là do trường hợp thứ hai này mà chúng ta nghe nhiều người nói
"thường trú nhân về Việt Nam dưới sáu tháng không cần re-entry permit". Nhưng câu nói đó hoàn toàn không đúng sự thật v́ thường trú nhân khi vắng mặt Hoa Kỳ dưới sáu tháng vẫn có thể bị Sở Di Trú không cho phép nhập cảnh vào.
Ngoài sự chứng minh đương đơn là thường trú nhân, đương đơn phải là người không có ư định khước từ tư cách thường trú nhân của ḿnh.
Vấn đề chính là người thường trú nhân phải chứng minh rằng, họ không chối bỏ tư cách thường trú nhân của họ và những yếu tố để chứng minh việc này là: mối liên hệ gia đ́nh ở trong và ở ngoài Hoa Kỳ, tài sản ở trong và ở ngoài Hoa Kỳ, việc làm ở trong và ở ngoài Hoa Kỳ, Hoa Kỳ có phải chính thức được gọi là nhà hay không, lư do rời khỏi Hoa Kỳ, và thời gian ở bên ngoài Hoa Kỳ,…
Thẻ xanh hoặc re-entry permit, chỉ chứng minh rằng đương đơn là thường trú nhân.
Nếu Sở Di Trú có đủ chứng cớ là đương đơn chối bỏ tư cách thường trú nhân của họ, dù đương đơn có thẻ xanh đi dưới sáu tháng hoặc có re-entry permit vẫn có thể bị từ chối nhập cảnh.
Xin đơn cử một vài trường hợp đă xảy ra. Trường hợp thứ nhất là một thường trú nhân rời Hoa Kỳ ba tháng, trở về lại Hoa Kỳ một tháng, rồi lại rời Hoa Kỳ ba tháng nữa… Như vậy người thường trú nhân này ở bên ngoài Hoa Kỳ nhiều hơn là ở tại Hoa Kỳ, không có tài sản ở Hoa Kỳ, không có việc làm ở Hoa Kỳ, không khai thuế ở Hoa Kỳ. Khi người thường trú nhân này trở về Hoa Kỳ, Sở Di Trú có thể từ chối không cho người thường trú nhân này được nhập cảnh và đưa ra ṭa để trục xuất, v́ người thường trú nhân này đă chối bỏ tư cách thường trú nhân của họ.
Trường hợp thứ hai là thường trú nhân có việc làm ở Hoa Kỳ, đang làm chủ một căn nhà ở Hoa Kỳ, khai thuế hằng năm ở Hoa Kỳ và có vợ và con ở Hoa Kỳ. Người thường trú nhân này đi Việt Nam chín tháng mới trở về Hoa Kỳ. Dù là người thường trú nhân này đi quá 6 tháng và không có re-entry permit, họ vẫn được nhập cảnh Hoa Kỳ v́ họ là thường trú nhân không có ư định từ bỏ tư cách thường trú nhân của họ.
Hai điển h́nh nói trên là cả hai người thường trú nhân đều đă rời Hoa Kỳ dưới một năm nhưng trường hợp thứ nhất đương sự bị đưa ra ṭa trục xuất, c̣n trường hợp thứ hai đương sự không bị đưa ra ṭa trục xuất như đă tŕnh bày ở trên.
Theo luật Di trú hiện nay, thường trú nhân rời Hoa Kỳ trên một năm, Sở Di Trú cho là người thường trú nhân đó đă từ bỏ tư cách thường trú nhân của họ. Nhưng có sự khác biệt giữa thẻ xanh và re-entry permit là khi thường trú nhân có re-entry permit (mà re-entry permit thường có thời hạn giá trị là 2 năm), Sở Di Trú không thể dựa vào thời gian vắng mặt tại Hoa Kỳ khi re-entry permit c̣n giá trị để xét người thường trú nhân đó có từ bỏ tư cách thường trú nhân của họ hay không.
Sở Di Trú phải có lư do chính đáng, có bằng chứng cụ thể theo những yếu tố đă tŕnh bày ở trên để chứng minh rằng người thường trú nhân đó đă từ bỏ tư cách thường trú nhân của họ, th́ lúc đó Sở Di Trú mới có quyền đưa họ ra ṭa xin án lệnh trục xuất.
Để tóm tắt lại, người đang hưởng quy chế thường trú nhân nếu muốn rời Hoa Kỳ thường xuyên nên xin re-entry permit và không nên đi quá 6 tháng. Thêm vào đó, nên để ư những yếu tố mà Sở Di Trú áp dụng để chứng minh thường trú nhân có từ bỏ tư cách thường trú nhân của họ hay không.
Quư bạn đọc nên lưu ư, những điều được tŕnh bày ở trên chỉ nói đến vấn đề thời gian rời Hoa Kỳ. Nhưng thời gian chỉ là một trường hợp trong 6 trường hợp nêu trên. Nếu thường trú nhân bị án như nêu trong trường hợp thứ 5, dù chỉ rời Hoa Kỳ một ngày vẫn bị xem là
"thường trú nhân xin nhập cảnh" và Sở Di Trú được quyền áp dụng những điều luật cấm nhập cảnh với người thường trú nhân đó.
Hiện nay Sở Di Trú chấp hành luật Di trú hết sức khắt khe. Những thường trú nhân có tiền án không nên rời khỏi Hoa Kỳ trong thời gian khó khăn này. Nếu v́ t́nh cảnh bắt buộc phải rời khỏi Hoa Kỳ, nên liên lạc với một luật sư am tường về luật Di trú để t́m hiểu sự lợi hại khi nhập cảnh trở lại Hoa Kỳ.
ST