Tổng Thống Donald Trump và Kinh Tế Học Vĩ Mô (President Donald Trump and Macroeconomics)
Đỗ Ngọc Hiển
Giáo sư Kinh Tế Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam
Kinh Tế Học - Tổng quát.
Người viết những ḍng sau đây, trước hết bản thân người viết nhằm mục đích ôn lại những ǵ đă học về môn Kinh Tế Vĩ Mô (Macroeconomics) và thứ đến nhằm truyền đạt cho người đọc nào chưa học Kinh Tế Học (Economics) một số kiến thức tổng quát về những vấn đề trọng yếu ảnh hưởng đến đời sống của mỗi cá nhân. Sau cùng người viết muốn thử đánh giá thành quả kinh tế (Economic Performance) trong nhiệm kỳ bốn năm đầu của Tổng Thống Donald Trump.
Để bàn về những Nguyên Lư (Principles) và Chính Sách (Policy) trong Kinh Tế Vĩ Mô, chúng ta cần một số kiến thức căn bản và tổng quát trong môn Kinh Tế Học.
Trước hết chúng ta phải hiểu thế nào là một Người Kinh Tế (The Economic man). Con Người Kinh Tế là một cá nhân có lư trí (Rationale) biết phân tích và lư luận những hoạt động kinh tế (Economic Activities) như kiếm lợi tức (Income), chi tiêu (Expenditures) tiết kiệm (Saving), đầu tư (Investment) v.v để đạt được tư lợi (Self-Interest) và sự thỏa măn tối đa (Maximum Satisfaction).
Như vậy người mất trí hay điên khùng không phải là một người kinh tế. Thứ đến con người kinh tế là một cá nhân đặt tư lợi trên hết. Tất cả các hoạt động kinh tế của họ đều nhằm mang lại tư lợi và sự thỏa măn tối đa.
Sau cùng, con người kinh tế c̣n là một người tiêu thụ (Consumer) ngay cả khi mới sinh và có một thái độ tiêu thụ (Consumer behavior) hay thay đổi, khó ước đoán được, v́ thái độ tiêu thụ của họ bị ảnh hưởng bởi tâm lư cá nhân (Individual psychology).
Một vấn đề khác cần bàn tới là Lư Luận Kinh Tế (Economic reasoning). Lư luận kinh tế nhằm phân tích và giải đoán một Sự Kiện Kinh Tế (Economic event) như giảm sút chi tiêu, như thất nghiệp, lạm phát v.v .. hay một Vấn Nạn Kinh Tế (Economic problem) để t́m ra nguyên nhân và hậu quả rồi đưa ra những Giải Pháp (Measures) hoặc Chính Sách (Policy) để điều chỉnh.
Lư luận kinh tế chỉ có giá trị dựa trên các chứng cớ (Proofs) qua các dữ liệu thống kê (Economic data) chứ không chỉ lư luận suông. Như người ta thường nói có một sự kiện hay một vấn nạn kinh tế th́ có hàng trăm kinh tế gia có ư kiến khác nhau.
Điều này dễ hỉểu v́ Kinh Tế Học là một Khoa Học Xă Hội (Social Science). Kinh tế học liên quan tới rất nhiều khoa học xă hội khác như Xă Hội Học, Tâm Lư Học, Dân Số Học, Chính Trị Học, Khảo Cổ Học v…v… và ngay cả chiến tranh, biến loạn chính trị hay đảo chính. Ngoài ra thiên tai như lụt lội, hoả hoạn, động đất và gần đây nhất là bệnh dịch corona-virus đều ảnh hưởng tới các hoạt động kinh tế của một quốc gia.
Trong lư luận kinh tế chúng ta phải tránh một số Ngụy Luận (Fallacies) sau đây: Ngụy luận thứ nhất là một hành động kinh tế cá thể tốt hay đúng không có nghĩa là đúng hay tốt đối với một tập thể. Tiết kiệm cá nhân (Individual saving) là một việc tốt, đáng khuyến khích; nhưng tiết kiệm tổng thể (Total saving) của đại đa số người tiêu thụ trong nền kinh tế sẽ gây ra giảm sút chi tiêu (Expenditure decrease) đưa đến ứ đọng Tài Hóa và Dịch Vụ. Do đó các nhà sản xuất sẽ giảm mức sản xuất đưa đến thất nghiệp (Unemployment) gia tăng. Ngụy luận thứ hai cho là một sự kiện kinh tế xảy ra trước là nguyên nhân chính của sự kiện kinh tế khác xảy ra sau đó. Thí dụ khi mức lương tối thiểu gia tăng, liền sau đó giá cả tổng quát gia tăng. Do đó người ta kết luận mức lương tối thiểu tăng là nguyên nhân chính yếu. Ngụy luận thứ ba là hai sự kiện kinh tế biến đổi cùng chiều, người ta kết luận ngay là sự kiện kinh tế này là nguyên nhân duy nhất tạo thay đổi của sự kiện kinh tế kia. Ngụy luận thứ tư là khi thiết lập một mô h́nh kinh tế (Economic model) người ta thường đưa ra giả thuyết các yếu tố (Factors) kinh tế khác cố định. Trong thực tế một sự kiện kinh tế xảy ra do nhiều yếu tố khác tác động tới theo cấp số cộng và cấp số nhân nữa.
Thứ đến chúng ta cũng nói qua về Phương Pháp Lư Luận (Reasoning methodology) trong Kinh Tế Học. Các kinh tế gia dùng hai phương pháp lư luận, đó là Phương Pháp Qui Nạp và Phương Pháp Diễn Dịch. Phương pháp qui nạp (Induction) là quan sát các sự kiện kinh tế đơn lẻ để đi đến một kết luận tổng thể, nói một cách khác là một giả thuyết để rồi trở thành một quy luật, thí dụ quy luật cung cầu trong thị trường, nếu được chứng minh bằng dữ liệu thống kê. Ngược lại phương pháp diễn dịch (Deduction) là từ quan sát tổng thể để giải thích các sự kiện cá nhân đơn lẻ.
Sau hết chúng ta đề cập tới các Phương Tiện (Means) để giải thích các sự kiện và hoạt động kinh tế. Các kinh tế gia sử dụng ba phương tiện sau đây để phân tích và giải đoán các vấn đề kinh tế. Thứ nhất bằng Lời (Words), thứ hai bằng Đại Số Học (Algebra) và thứ ba là bằng Đồ H́nh (Graphs). Ngày nay toán học (Math) nói chung và đại số nói riêng được các kinh tế gia sử dụng tối đa qua các phương tŕnh (Equations) và các hàm số (Functions) để phân tích và giải đoán các dữ liệu thống kê về các hoạt động kinh tế.
Chính v́ vậy gần đây môn Kinh Tế Toán (Econometrics) mới xuất hiện và ngày càng trở nên quan trọng trong phân khoa kinh tế (Faculty of Economics) tại các đại học Hoa Kỳ. Các kinh tế gia nổi tiếng tại Hoa Kỳ hiện nay phần lớn họ học chuyên toán ở bậc Cử Nhân rồi chuyển sang học kinh tế ở bậc Cao Học (Master) và bậc Tiến Sĩ (Ph. D.). Ngày nay muốn lấy bằng tiến sĩ kinh tế ở Hoa Kỳ phải có tŕnh độ toán học khá cao, đặc biệt phải học Đại Số Học bậc đại học (College Algebra), môn Vi Tính (Calculus) và Xác Xuất Học (Probability).
Trên đây là những kiến thức tổng quát, căn bản và là nền tảng cho việc t́m hiểu môn Kinh Tế Học (Economics) nói chung và Kinh Tế Học Vĩ Mô (Macroeconomics) nói riêng.
Bây giờ người viết xin đi thẳng vào chủ đề t́m hiểu kinh tế học và kinh tế học vĩ mô là ǵ. Kinh tế học được đặt trên nền tảng “Luật khan hiếm“ (The law of scarcity} Trước hết nhu cầu vật chất (Material wants) của một xă hội, nghỉa là nhu cầu vật chất của các cá nhân và các định chế là vô giới hạn và không bao giờ thỏa măn nổi. Ngược lại tài nguyên kinh tế (Economic resources), nghỉa là các phương tiện sản xuất (Means of production) tài hóa và dịch vụ th́ có hạn hay khan hiếm. Hai thực tế nền tảng (Fundamental facts) này cùng tạo nên vấn nạn tiết kiệm (Economizing problem) và là nền tảng cho khoa kinh tế học.
The Following 2 Users Say Thank You to phokhuya For This Useful Post:
Tài Hóa Kinh Tế và Tài Hóa Miễn Phí.
Chúng ta cũng phải hiểu Tài Hóa Kinh Tế (Economic goods) và Tài Hóa Miễn Phí (Free goods) là ǵ. Tài hóa kinh tế được sản xuất với một giá phí (Production cost) nào đó, như sản xuất một chiếc xe hơi hay một tô phở. Ngược lại tài hóa miễn phí không có giá phí như nước biển hay không khí. Như vậy một tài hóa kinh tế không bao giờ trở thành một tài hóa miễn phí, nhưng ngược lại, một tài hóa miễn phí có thể trở thành một tài hóa kinh tế. Thí dụ người ta chế biến nước biển mặn thành nước ngọt như ở một số quốc gia thiếu nước uống. V́ nhu cầu con người vô hạn và tài nguyên hữu hạn, nên chúng ta phải tiết kiệm (To economize) và từ đó kinh tế học (Economics) mới xuất hiện. Có rất nhiều định nghĩa kinh tế học khác nhau, nhưng tựu trung định nghĩa sau đây được chấp nhận một cách phổ quát. “Kinh tế học là một khoa học nhằm nghiên cứu việc sử dụng tài nguyên hữu hạn để thỏa măn những nhu cầu vô hạn của con người.”
Do đó bất cứ một nền kinh tế nào, Tư Bản (Capitalist), Cộng Sản (Communist), Xă Hội (Socialist) hay Hỗn Hợp (Mixed) đều phải giải quyết ba vấn nạn cốt lơi sau đây: sản xuất ǵ (What)? sản xuất thế nào (How)? và sản xuất cho ai (For whom)? Nói cho dễ hiểu là phải chọn lựa sản xuất ǵ và bao nhiêu, dùng kỹ thuật nào để sản xuất hữu hiệu nhất và phân phối tài hóa ra sao để đạt được sự công bằng xă hội tối hảo.
Sự định h́nh nền kinh tế.
Nền kinh tế của một quốc gia được định h́nh bởi thể chế chính trị của quốc gia đó. Nói đúng hơn mức độ kiểm soát và can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế là yếu tố chủ yếu định h́nh. Nếu dùng thước đo can thiệp (Interference) th́ nền kinh tế cộng sản như Bắc Hàn (North Korea) có sự can thiệp tuyệt đối ở một đầu, đầu kia là nền kinh tế Hoa Kỳ có sự can thiệp của chính phủ ít nhất, c̣n hai nền kinh tế nằm giữa là xă hội và hỗn hợp. Ngày nay, trên thực tế không có nền kinh tế nào trên thế giới không có sự can thiệp của chính phủ, vấn đề là ít hay nhiều mà thôi.
Sự can thiệp của chính phủ liên quan tới ba vấn nạn kinh tế chủ yếu nêu trên, là sản xuất ǵ, sản xuất thế nào và sản xuất cho ai. Ba vấn nạn này được giải quyết hữu hiệu hay không tùy thuộc vào các yếu tố dưới đây: Ai là chủ đất đai, tư nhân hay nhà nước ; các phương tiện sản xuất như cơ sở hành chánh, cơ xưởng sản xuất, máy móc và dụng cụ thuộc tư nhân hay nhà nước, thị trường có được tự do vận hành theo luật cung cầu hay bị chính phủ kiểm soát và định h́nh; có sự tự do cạnh tranh trong kinh doanh hay bị hạn chế bởi nhà nước v́ sự ưu đăi của nhà nước đối với các công ty quốc doanh v.v…
Có thể nói trong nền kinh tế cộng sản Bắc Hàn sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế là tuyệt đối, trong khi đó nền kinh tế tư bản Hoa Kỳ, chính phủ chỉ giữ vai tṛ hướng dẫn (Guiding) và điều chỉnh (Adjustment) qua luật lệ, các biện pháp kinh tế ngắn hạn (Short-term economic measures) hay các chính sách kinh tế dài hạn (Long–term economic policies) qua Chính Sách Tiền Tệ (monetary policies) Chính Sách Tài Chánh (Fiscal policies) hay cả hai.
Nền móng của nền kinh tế tư bản Hoa Kỳ.
Trong bài này người viết chỉ đề cập tới những nguyên lư và chính sách kinh tế trên b́nh diện vĩ mô hay tổng thể của nền kinh tế tư bản Hoa Kỳ.
Nền kinh tế Hoa Kỳ đặt trên những nền móng sau đây. Trước hết Quyền Tư Hữu (Private property right) nhất là tư hữu đất đai, là tuyệt đối được bảo đảm bởi hiến pháp. Con người kinh tế Hoa Kỳ đặt Tư Lợi (Self interest) trên hết và tư lợi là động lực (Motive) cho mọi hoạt động kinh tế. Thị trường phải có cạnh tranh tự do theo luật cung cầu. Tư nhân làm chủ các phương tiện sản xuất, không có công ty quốc doanh chỉ có tư doanh v́ đối với dân chúng Hoa Kỳ chỉ có tư nhân mới quản lư (To manage) một xí nghiệp hay một cơ quan một cách hữu hiệu (Efficiently) nhất. Theo người viết biết tại Hoa Kỳ chỉ có Bưu Điện và Đập Hoover là do chính phủ quản lư dưới h́nh thức cơ quan tự trị (Automous Authority). Dân chúng Hoa Kỳ quan niệm rằng sự quản trị của hệ thống công quyền (bureaucracy) kém hữu hiệu v́ “cha chung không ai khóc” và tiền bạc của chính phủ là “tiền chùa” nên dễ đưa đến lăng phí và nạn tham nhũng. Điều này thể hiện rơ trong nền kinh tế chỉ huy Việt Nam hiện nay.
Thước đo thành quả kinh tế.
Khi nói đến thành quả kinh tế của một nền kinh tế người ta thường nói tới Tổng Sản Lượng Quốc Gia Xổi (Gross National Product –GNP) và ít nói tới Tổng Lợi Tức Quốc Gia Xổi (Gross National Income). Thực ra đây chỉ là hai mặt của một đồng tiền. Tổng sản lượng quốc gia xổi gồm Tài Hóa và Dịch Vụ và Tổng Sản Phí (Total production costs) của nó chính là tổng lợi tức xổi của người dân gồm tiền lương (Wages) tiền lăi (Interest) phải trả khi mượn vốn (Capital) để đầu tư, tiền thuê (Rent) khi thuê mướn cơ sở hành chánh, cơ xưởng sản xuất, máy móc và dụng cụ và tiền lời kinh doanh (Business profit). Tiền lời kinh doanh này c̣n được gọi là lợi nhuận (Net profit) như ở Việt Nam. Theo Karl Marx 1818-83, nhà triết học kinh tế và xă hội người Đức, đó là Giá Trị Thặng Dư (Surplus value) trong cuốn sách của ông Tư Bản Luận (Das Capital) xuất bản năm 1867 ở Đức. Theo Marx tiền lời kinh doanh là tiền lương của công nhân bị chủ nhân bóc lột.
Ngược lại, chủ thuyết kinh tế tư bản coi tiền lời kinh doanh như là tiền thưởng cho khả năng quản trị (Ability of entrepreneurship). Thực ra chính các doanh nhân (Entrepreneurs) là chủ thể kết hợp các yếu tố sản xuất (Production factors) nhân công, cơ sở sản xuất, máy móc và dụng cụ để sản xuất tài hóa và dịch vụ nên tiền lời kinh doanh phải được coi như một sản phí. Như vậy sản phí của một tài hóa gồm tiền lương, tiền lăi, tiền thuê và tiền thưởng tài quản trị.
Thực ra trong thực tế, tổng sản lượng quốc gia xổi (GNP) không phải là thước đo lường chính xác thành quả kinh tế trong năm v́ nó chưa trừ đi những hư ṃn, hao hụt và già cỗi của các phương tiện sản xuất như cơ sở, máy móc và dụng cụ được sử dụng trong tiến tŕnh sản xuất. Các phương tiện này cũng là một phần của tổng sản lượng quốc gia xổi. Do đó phải trừ ra khỏi Tổng Sản Lượng Quốc Gia Xổi giá phí chiết cựu (Depreciation cost) để được Tổng Sản Lượng Quốc Gia Thuần (Net National Product – NNP). Đây mới là thước đo thành quả kinh tế đích thực.
Hăy lấy một thí dụ làm sáng tỏ. Hai quốc gia A và B có tổng sản lượng quốc gia xổi bằng nhau, nhưng quốc gia A sản xuất hữu hiệu hơn nhờ nhân công bảo tŕ cơ sở, máy móc và dụng cụ tốt, nên ít hư hỏng, giảm bớt chi phí sửa chữa. Trái lại trong quốc gia B, cơ xưởng sản xuất, máy móc và dụng cụ không được bảo tŕ tốt nên phí tổn sửa chữa cao hơn. Do đó, chúng ta phải kết luận quốc gia A có thành quả kinh tế cao hơn quốc gia B, nói cách khác quốc gia A có tổng sản lượng quốc gia thuần cao hơn quốc gia B trong năm.
Một thước đo chính xác thành quả kinh tế nữa là thước đo theo tiêu chuẩn đầu người (Per Capita). Nhiều người hoảng sợ Trung Quốc hiện nay là cường quốc kinh tế thứ nh́ sau Hoa Kỳ trên thế giới. Tổng Sản Lượng Xổi của Trung Quốc hiện nay gần bằng của Hoa Kỳ, chưa nói tới Tổng Sản Lượng Quốc Gia Thuần, chắc chắn Trung Quốc c̣n thua xa. Nhưng người đọc nên nhớ rằng Trung Quốc có 1.4 tỷ người trong khi Hoa Kỳ chỉ có 350 triệu người. Như vậy số lượng Tài Hóa và Dịch Vụ mà một người được hưởng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ c̣n cách nhau rất xa. Nói khác đi mức sống (Standard of living) của một người dân c̣n cách nhau trời vực giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Ngoài ra con người không chỉ sống bằng vật chất mà cần món ăn tinh thần nữa như tự do tư tưởng, tôn giáo, báo chí, chính trị, lập hội, văn học và nghệ thuật v.v…
Một thước đo thành quả kinh tế khác nữa hết mức trung thực là Lợi Tức Khả Dụng (Disposable income). Đây mới là lợi tức hay tiền mà một cá nhân mang về thực sự để chi tiêu trong gia đ́nh. Đây là lợi tức sau khi trừ thuế lợi tức cá nhân (Individual income tax) và thuế lợi tức doanh nghiệp (Corporale income tax). Hai loại thuế này chiếm khoảng 80% tổng số thuế thu vào cho ngân sách quốc gia Hoa Kỳ. V́ thước đo này trung thực và chính xác nên các kinh tế gia thường dùng nó trong các bài toán kinh tế.
Ư niệm về kinh tế gia đ́nh có từ xa xưa và theo thời gian phát triển trong các bộ lạc hay quốc gia. Vào thời đó các hoạt động kinh tế cũng đă được phân công hóa trong gia đ́nh. Người chồng đi săn bắn thú rừng hay đi lưới cá để kiếm lương thực nuôi gia đ́nh. Người vợ lo việc nội trợ trồng trọt rau quả quanh nhà, hoặc nuôi thêm ít gia súc như heo hay gà vịt để phụ thêm vào bữa cơm gia đ́nh. Các hoạt động kinh tế nhằm nuôi sống gia đ́nh và nếu c̣n dư đem trao đổi lấy các vật dụng khác. Danh từ Kinh Tế Học có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp"Oiko-nomia”. Oiko có nghĩa là gia đ́nh (Household), nomia có nghĩa là chính sách (Policy). Vậy chúng ta có thể hiểu Oiko-nomia là môn học các sinh hoạt kinh tế gia đ́nh.
The Following 2 Users Say Thank You to phokhuya For This Useful Post:
Trường phái Kinh Tế Cổ Điển.
Trong thế kỷ XVIII có rất nhiều luồng tư tưởng kinh tế đơn lẻ đề cập tới mọi hoạt động kinh tế trong xă hội, và có nhiều Kinh Tế Gia (Economists) Triết Gia Kinh Tế (Economic philosophers) và Tư Tưởng Gia Kinh Tế (Economic thinkers) xuất hiện, phần lớn từ u Châu, đặc biệt từ Anh và Đức Quốc v́ hai quốc gia này thời đó có nền kinh tế khá phát triển. James Mill, Henry, George Marshall, David Ricardo với các bài khảo luận về Nguyên Lư Tiền Tệ và Thuế Vụ (Theory of Money and taxation). David Ricardo cũng là người sáng lập ra trường phái Kinh Tế Cổ Điển (The founder of the classical school of economics). Chúng ta phải c̣n kể tới Thomas Robert Malthus (1766-1834) người Anh với khảo luận nổi tiếng về Dân Số (Essay on the principle of population). Theo Malthus, thực phẩm tăng theo cấp số cộng, dân số tăng theo cấp số nhân do đó nhân loại sẽ có nạn Nhân Măn (Over population).
Sau hết, kinh tế gia đại diện cho trường phái kinh tế cổ điển nổi tiếng nhất thời đó là Adam Smith (1723-1790) người Tô Cách Lan (Scottish) với tác phẩm “Sự giàu có của các quốc gia” (Wealth of Nations) xuất bản năm 1776. Trong cuốn sách này Adam Smith tổng hợp và hệ thống hóa các tư tưởng kinh tế đương thời và từ cuốn sách này nền Kinh Tế Tư Bản (Capitalism) ra đời. Ông chủ trương chính sách bất can thiệp (Non-interference) hay không nhúng tay vào (Hand-off) của chính quyền vào nền kinh tế. Cơ chế thị trường tự do cạnh tranh (Mechanism of free and competitive market) sẽ hướng dẫn (Guiding) các hoạt động kinh tế và điều chỉnh (Adjusting) các vấn nạn kinh tế (Economic problems) nếu có. Ngày nay, một trong những kinh tế gia nổi tiếng đại diện cho trường phái kinh tế cổ điển là giáo sư kinh tế gia Milton Friedman tại đại học Chicago, tiểu bang Illinois.
Trong thế kỷ XIX xuất hiện một số kinh tế gia có khuynh hướng xă hội cấp tiến như Friedrich Engels (1820–95) và Karl Marx (1818–83) cả hai đều là người Đức. Engels va Marx là đồng tác giả bản “Tuyên ngôn Cộng sản (Communist Manifesto–1884). Marx viết riêng cuốn sách nổi tiếng “Tư Bản Luận” (Das Capital–1867). Hai ông này Engels và Marx đả kích kịch liệt học thuyết kinh tế tư bản cổ điển v́ những bất công xă hội do nền kinh tế tư bản tạo ra, Marx cho rằng các nhà tư bản hay các ông chủ xí nghiệp thời đó bóc lột giới công nhân bằng cách trả mức lương rẻ mạt để kiếm lời tối đa mà ông cho rằng đó là Giá Trị Thặng Dư (Surplus Value) đề cập tới trong tác phẩm Tư Bản Luận của ông. Theo ông, giá trị thặng dư này chính là số lương của công nhân bị chủ nhân ăn cướp, v́ vậy phải trả lại cho công nhân.
Sau đây là những điểm chính yếu của trường phái kinh tế tư bản cổ điển. Trước hết chính phủ hay nhà nước tuyệt đối không được can thiệp vào nền kinh tế và hăy để cơ chế thị trường hướng dẫn các hoạt động kinh tế và điều chỉnh các vấn nạn kinh tế. Nền kinh tế tư bản lúc nào cũng ở thế quân b́nh (Equilibriun) giữa cung cầu và toàn dụng nhân công (Full employment), không có thất nghiệp (Unemployment). Đôi lúc có thiếu hụt (Shortage) hoặc thặng dư (Surplus) tài hóa nhưng chỉ là đoản kỳ, trong trường kỳ cơ chế thị trường sẽ điều chỉnh lại và lập lại thế quân b́nh.
Các kinh tế gia cổ điển đem ra một luận cứ nữa là “số cung tạo ra số cầu” (Supply creates demand), nghĩa là các nhà sản xuất, người cung ứng (Suppliers) thường tạo ra nhu cầu tài hóa mà người tiêu thụ (Consumer) cần, như trong thí dụ điện thoại thông minh trên thị trường hiện nay. Các hăng điện thoại như Apple hay Samsung luôn luôn thay đổi mẫu mă để câu khách, và đó cũng là lư do tại sao ban nghiên cứu thị trường giữ vai tṛ quan trọng trong các công ty sản xuất.
Về tiền tệ và giá cả với phương tŕnh MV = PT trong đó M là khối lượng tiền lưu hành V là tốc độ lưu hành của đơn vị tiền tệ như một đô la chẳng hạn, P là giá cả trung b́nh và T là khối lượng tài hóa trao đổi. Từ phương tŕnh trên, các kinh tế gia cổ điển đi đến kết luận giá cả tăng hay giảm là do khối lượng tiền tệ tăng hay giảm, nói khác đi khối tiền tệ là nguyên nhân của việc tăng hay giảm của giá cả.
Như chúng ta biết Y1 Tổng Lợi Tức Quốc Gia, Y2 Tổng Sản Lượng Quốc Gia là hai mặt của một thực thể, cũng như hai mặt của một đồng tiền trong hai phương tŕnh Y1 = C+S và Y2 = C2+I+G . Trong phương tŕnh Y1 tổng lợi tức quốc gia dùng để tiêu thụ công và tư (C), c̣n lại tiết kiệm (S), và chúng ta đă biết tổng lợi tức quốc gia gồm tiền lương (Wages), tiền lăi (Interests) tiền thuê (Rents) và tiền lời kinh doanh (Business profits) và các loại lợi tức này chính là các loại sản phí của tổng sản lượng quốc gia. Trong phương tŕnh Y2 tổng sản lượng quốc gia gồm chi tiêu hay tiêu thụ tư nhân (Consumption) (C2), chi tiêu cho đầu tư của xí nghiệp (Investment) và chi tiêu hay tiêu phụ của chính phủ (Government).
Như vậy chúng ta có Y1 = Y2 , tiêu thụ tư nhân và chính quyền (C) th́ bằng tiêu thụ tư nhân (C2) cộng với chi tiêu hay tiêu thụ của chính quyền (G)(Government). Từ đó suy ra C = C2+G và tiết kiệm (S) bằng đầu tư (I).
Nói tóm lại, các kinh tế gia cổ điển cho rằng tiền tiết kiệm của dân chúng luôn luôn bằng tiền đầu tư của xí nghiệp, v́ dân chúng gửi hết tiền tiết kiệm vào các ngân hàng và các ngân hàng này cho các xí nghiệp sản xuất vay vốn để đầu tư. V́ vậy nền kinh tế luôn luôn ở thế quân b́nh giữa cung cầu tài hóa và toàn dụng nhân công.
Nền kinh tế Hoa Kỳ có tăng trưởng kinh tế (Economic growth) khá cao trong thời kỳ Đệ Nhất Thế Chiến (1914–1917) nhờ các xí nghiệp quốc pḥng, sản xuất vũ khí, các trang bị quân sự và lương thực. Nền kinh tế đạt được mức toàn dụng nhân công, thất nghiệp kể như không có.
Nhưng những năm sau thế chiến chấm dứt, kỹ nghệ chiến tranh giảm sút, quân nhân giải ngũ đông cộng với gánh nặng thương phế binh, nền kinh tế bắt đầu rơi vào t́nh trạng tŕ trệ (Stagnancy) rồi suy thoái (Recession) cuối cùng rơi vào cuộc Đại Khủng Hoảng ( Great depression) kinh tế vào năm 1929 và kéo dài đến hết năm 1933.
Cho đến nay các kinh tế gia cũng chưa giải thích được những lư do nào dẫn đến cuộc đại khủng hoảng hồi đó. Chỉ thấy rằng đùng một cái thị trường chứng khoán sụp đổ, dân chúng hoảng loạn (Panic) chạy đến các ngân hàng thương mại rút tiền làm các ngân hàng khánh kiệt đưa đến cả hệ thống ngân hàng tan ră. Lúc đó, Hoa Kỳ chưa có Ngân Hàng Trung Ương (Central bank), ngày nay gọi là Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang (The Federal Reserve Bank–The FED). Hàng hóa th́ tràn ngập thị trường nhưng không có người mua v́ không có tiền do thất nghiệp cao, chiếm 20% lực lượng lao động.
The Following 2 Users Say Thank You to phokhuya For This Useful Post:
Trường phái Kinh Tế Keynes.
Vào năm 1936, một cuốn sách nổi tiếng với nhan đề “Lư thuyết tổng quát về nhân dụng, lăi suất và tiền tệ" (The general Theory of employment Interest and money) của kinh tế gia người Anh John Maynard Keynes xuất hiện. Ông là một kinh tế gia và là một chuyên gia tài chánh (An Economist and financial Expert). Keynes là trưởng phái đoàn Anh Quốc tham dự hội nghị Bretton Woods Conference 1944. Ông cũng giữ một vai tṛ quan trọng trong việc thành lập Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund–IMF) và Ngân Hàng Thế Giới (The World Bank). Trong cuốn sách của ông, Keynes đưa ra giải thích mới về Chu Kỳ Thương Mại (Trade cycle). Ông nhấn mạnh về những thay đổi đầu tư nghĩa là mua máy móc, dụng cụ sản xuất (Capital goods) như là ch́a khóa cho những thay đổi của tổng số cầu hay tổng số chi tiêu của giới tiêu thụ. Như những biện pháp kiểm soát kinh tế, Keynes đề xướng sử dụng những thay đổi lăi suất (Interest changes) và các công tŕnh công cộng như sửa chữa đường xá, cầu cống, phi trường, thương cảng v.v… để bảo đảm toàn dụng nhân công. Ông cũng chú trọng tới Tái Phân Phối Lợi Tức để làm sao sức mua (Purchasing power) gia tăng theo tỷ lệ với sự phát triển của các phương tiện sản xuất (Means of production) tức là cơ xưởng, máy móc và dụng cụ. Quan điểm và lập luận kinh tế trong cuốn sách của ông được rất nhiều kinh tế gia hồi đó hưởng ứng và đồng t́nh và từ đó Keynes được coi như là người sáng lập ra Trường Phái Kinh Tế Keynes (Keynesian school of economics)
Tất cả kinh tế gia ngày nay không hẳn chấp nhận hay bác bỏ toàn bộ những giải thích và lập luận các sự kiện và vấn nạn kinh tế của Trường Phái Kinh Tế Cổ Điển và Trường Phái Kinh Tế Keynes. Do đó, có những bổ túc, sửa chữa hay cải tiến trong giải thích và lập luận và đưa đến hai trường phái kinh tế mới xuất hiện gần đây: Trường Phái Kinh Tế Cổ Điển Biến Thái (Neo-classical school of economics) và Trường Phái Kinh Tế Keynes Biến Thái (Neo-Keynesian school of economics). Chữ Neo có nghĩa là gần giống.
Nói chung, trường phái kinh tế cổ điển chính thống hay biến thái đặc biệt chú trọng đến số Cung tức là nhà sản xuất, trong khi trường phái kinh tế Keynes chính thống hay biến thái đặc biệt chú trọng vào số Cầu tức là giới tiêu thụ.
Ngày nay, qua kinh nghiệm thực tế đau thương của cuộc Đại Khủng Hoảng kinh tế (Great Depression) 1929–1933 tại Hoa Kỳ, và nhờ có những dữ liệu thống kê tương đối chính xác, tất cả các kinh tế gia trên thế giới nói chung và tại Hoa Kỳ nói riêng đều phản biện và bác bỏ một số luận cứ của trường phái kinh tế cổ điển.
Trước hết thị trường nói chung không có sự cạnh tranh hoàn hảo (Perfect competition) nên có nhiều khuyết điểm phát sinh ra nhiều vấn nạn kinh tế như thất nghiệp, lạm phát, giá cả bất ổn, tŕ trệ và suy thoái kinh tế. Cơ chế thị trường (Market mechanism) bất lực trong việc điều chỉnh các vấn nạn trên. Do đó, sự can thiệp của chính quyền vào nền kinh tế là cần thiết. Đây cũng là quan điểm của trường phái kinh tế Keynesian.
Thứ đến, số Cung không tạo ra số Cầu. Người ta thường nói ngày nay “Người tiêu thụ là vua”. Chính giới tiêu thụ bỏ phiếu quyết định số mạng sống c̣n của bất cứ xí nghiệp sản xuất nào. V́ những bất cập của thị trường, cung cầu tài hóa và dịch vụ trong thị trường không luôn luôn ở mức quân b́nh (Equilibrium) nên thường nảy sinh nạn thừa thăi (Surplus) hay thiếu hụt (Shortage) tài hóa và dịch vụ. Hơn nữa khi nền kinh tế đạt được mức quân b́nh không có nghĩa là nền kinh tế có toàn dụng nhân công, không có nạn thất nghiệp.
Trước cuộc đại khủng hoảng kinh tế, Hoa Kỳ không có Ngân Hàng Trung Ương (Central Bank) để kiểm soát và điều phối khối tiền tệ (M) lưu hành và hoạt động của các ngân hàng thương mại. Sau cuộc khủng hoảng, Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang (Federal Reserve Bank) tương tự Ngân Hàng Trung Ương và Công Ty Bảo Hiểm Kư Thác Liên Bang (Federal Deposit Insurance Corporation) mới ra đời.
Công nhân có thể được lập Nghiệp Đoàn, nhưng ai vào nghiệp đoàn dễ bị chủ nhân sa thải và măi sau đại khủng hoảng, Nghiệp Đoàn Công Nhân mới được chính phủ hợp thức hóa (Legalized) và được phép đ́nh công hợp pháp. Ngày nay có rất nhiều nghiệp đoàn chuyên ngành như nghiệp đoàn sắt thép, nghiệp đoàn công nhân bốc rỡ hàng tại các thương cảng, nghiệp đoàn kỹ nghệ xe hơi, nghiệp đoàn công nhân mỏ than v.v... Tổng Liên Đoàn Lao Động và Kỹ Nghệ (American Federation of Labor – Congress of Industrial Workers) viết tắt là AFL–CIO hiện nay là lớn và quyền lực nhất tại Hoa Kỳ trên b́nh diện kinh tế cũng như chính trị.
Các doanh nghiệp v́ ham danh lợi cấu kết với nhau thành lập các tập đoàn doanh nghiệp độc quyền (Monopolies) giảm mức sản xuất và tăng giá để kiếm lời tối đa; v́ tệ nạn này mới có Luật Chống Độc Quyền (Anti-trust-law) ra đời. Tất cả những diễn biến này xảy ra trong thời kỳ Tổng thống Franklin Rosevelt 1882–1945, vị Tổng Thống duy nhất có ba nhiệm kỳ trong lịch sử tổng thống Hoa Kỳ.
Trong lănh vực tiền tệ và giá cả tổng quát, trường phái kinh tế cổ điển đưa ra phương tŕnh MV=PT như đă giải thích ở trên, đưa ra kết luận số cung tiền tệ có tương quan nhân quả với giá cả. Những thay đổi trong khối tiền tệ là nguyên nhân các thay đổi giá cả. Các kinh tế gia ngày nay hoàn toàn bác bỏ lập luận này v́ phương tŕnh trên là một sự thật hiển nhiên (Truism). Khối tiền tệ (M) nhân với tốc độ lưu hành (V) đương nhiên bằng số lượng tài hóa (T) nhân với giá cả trung b́nh (P).
Một lập luận nữa của trường phái kinh tế cổ điển là tiết kiệm (Saving) của giới tiêu thụ luôn luôn bằng đầu tư (Investment) của các doanh nghiệp. Nói rơ hơn, giới tiêu thụ luôn luôn kư thác tất cả số tiền tiết kiệm vào các ngân hàng thương mại và các ngân hàng này cho các xí nghiệp sản xuất vay hết số tiền tiết kiệm đó. Kinh nghiệm thực tế qua các dữ liệu thống kê không chứng minh được lập luận này. V́ đôi khi không có sự quân b́nh giữa tiết kiệm (S) của giới tiêu thụ và đầu tư (I) của giới sản xuất nên mới có nạn thiếu hụt hoặc dư thừa tài hóa và dịch vụ.
Tóm lại, cơ chế thị trường tự do cạnh tranh có nhiều khuyết điểm, v́ vậy sự can thiệp của chính quyền vào nền kinh tế là bắt buộc. V́ ba vấn nạn nền tảng sản xuất ǵ (What) sản xuất thế nào (How) và sản xuất cho ai (For whom) trong mọi nền kinh tế, nên mới sinh ra các vấn nạn kinh tế phụ. Đó là Tăng Trưởng Kinh Tế (Economic growth), Toàn Dụng Nhân Công (Full employment), Thất Nghiệp (Unemployment), Lạm Phát (Inflation), Ổn Định Giá Cả (Price stability) Suy Thoái (Recession) Thiếu Hụt Ngân Sách (Budget deficit) Nợ Công (Public debt) và Thiếu Hụt Cán Cân Thương Mại (Trade deficit). Người viết sẽ tŕnh bày từng đề tài trên đây và những chính sách kinh tế, tiền tệ và tài chánh mà các kinh tế gia sử dụng để điều chỉnh sau đây.
Vấn nạn cốt lơi là Tăng Trưởng Kinh Tế. Làm thế nào duy tŕ được Tổng Sản Lượng Quốc Gia (GDP) gia tăng mỗi năm, nói nôm na là làm đồng-bánh càng ngày càng to hơn để mỗi công dân được chia miếng bánh càng ngày càng lớn hơn. Đó là mục tiêu chủ yếu và tối hậu của mọi nền kinh tế.
Các kinh tế gia đưa ra nhiều lập luận. Người th́ đưa ra một yếu tố chủ chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như gia tăng đầu tư (Investment) của các xí nghiệp sản xuất, nghĩa là xây cất thêm cơ sở sản xuất, mua thêm các máy móc và dụng cụ hiện đại. Người th́ cho là phải duy tŕ cao mức chi tiêu tổng thể của giới tiêu thụ và nhất là chi tiêu của chính quyền. Người khác chủ trương phải sử dụng một tổng hợp các yếu tố quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng như giảm thuế lợi tức cá nhân và doanh nghiệp, gia tăng các chương tŕnh công cộng (Public works) tăng mức lương tối thiểu (Minimum wage rate), hạ lăi suất tái chiết khấu (Rediscount rate) của ngân hàng dự trữ liên bang khi cho các ngân hàng thương mại vay tiền và cuối cùng là đơn giản hóa luật lệ và thủ tục hành chánh trói buộc các nhà kinh doanh.
The Following 2 Users Say Thank You to phokhuya For This Useful Post:
Hiện nay có rất nhiều kinh tế gia đồng t́nh với lập luận tăng trưởng kinh tế “Con gà đẻ trứng vàng” được tŕnh bày sau đây.
Trước hết, tăng trưởng kinh tế nói riêng (Economic growth) và phát triển kinh tế (Economic development) nói chung chỉ có thể xẩy ra trong một môi trường chính trị ổn định và chính phủ, nếu cần, phải can thiệp vào nền kinh tế để hướng dẫn và điều chỉnh qua việc đưa ra luật lệ kinh doanh mới hoặc thay đổi luật lệ cũ cho phù hợp. Chính phủ có hai công cụ trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế, đó là Chính Sách Tiền Tệ và Tài Chánh. Chính sách tiền tệ gồm những thay đổi khối lượng tiền tệ qua thay đổi tỷ lệ dự trữ của các ngân hàng thương mại, tỷ lệ tái chiết khấu (Rediscount rate) khi các ngân hàng thương mại vay ngân hàng dự trữ liên bang và qua các hoạt động thị trường mở (Open market operations) qua việc mua bán trái phiếu (Bonds) trên thị trường chứng khoán như Down Jones, Nasdaq và S&P. Chính sách tài chánh gồm những thay đổi chi tiêu thuế má của chính phủ.
Lập luận tăng trưởng kinh tế “Con gà đẻ trứng vàng" mang ư nghĩa giới kinh doanh (Entrepreneurs) cần được nâng đỡ và ưu đăi v́ chính họ mang lại công ăn việc làm cho dân chúng. Họ thuê thêm nhân công, mua thêm cơ sở sản xuất, mua thêm máy móc và dụng cụ hiện đại để gia tăng khả năng sản xuất. Họ là những đầu tàu kéo con tàu kinh tế quốc gia tiến lên.
Những doanh nhân này mạo hiểm và liều lĩnh bỏ vốn kinh doanh với mục tiêu duy nhất là kiếm doanh lợi, nếu thất bại chính họ sẽ bị tán gia bại sản. Muốn có nhiều trứng ăn, phải vỗ béo con gà, hay cá nhân nếu muốn có miếng bánh ăn càng ngày càng lớn hơn phải tạo ra đồng-bánh càng ngày càng to hơn. Đây cũng là quan điểm của Trường Phái Kinh Tế Nghiêng Về Số Cung (Supply-side economics) xuất hiện gần đây mà chính Tổng Thống Ronald Reagan áp dụng trong hai nhiệm kỳ của ông và được gọi là Reaganomics, đưa lại mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững suốt trong hai nhiệm kỳ tổng thống của ông. Toàn thể dân chúng có lợi tức cao hơn, nhất là giới trung lưu và có một đời sống sung túc và thoải mái hơn.
Các h́nh thức kinh doanh.
Có ba loại h́nh thức hay công ty kinh doanh:
- Công ty cá nhân hay gia đ́nh (Sole proprietor). Một cá nhân hay gia đ́nh bỏ một số vốn riêng và mượn thêm vốn từ các thành viên trong gia đ́nh hay bạn bè nếu cần để thành lập một công ty kinh doanh sản xuất một hay nhiều tài hóa. Nếu thành công, họ được hưởng toàn số doanh lợi, nhưng nếu thất bại họ mất hết tài sản và nếu mượn nợ họ phải bán hết tài sản riêng để trả nợ. Nếu làm ăn khấm khá, muốn phát triển lớn hơn họ có thể bán trái phiếu (Bonds) đó là giấy IOU (I owe you) để gây vốn thêm.
- Công ty hùn hiệp (Parnership) cũng được thành lập và hoạt động tương tự như công ty cá nhân hay gia đ́nh. Hai hay ba người, có thể là bạn, góp vốn thành lập công ty hùn hiệp. Họ được hưởng toàn số doanh lợi nhưng cũng có những trách nhiệm thanh toán các món nợ đă mượn, tiền mặt hay trái phiếu.
- Công ty cổ phần hữu hạn (Corporation limited). Một người hay nhiều người bỏ một số vốn khá lớn thành lập một công ty cổ phần hữu hạn và bán cổ phiếu (Stocks) và trái phiếu (IOU) để gây vốn thêm. Trái phiếu là một giấy nợ, người mua trái phiếu (Bond holder) cho vay một số tiền, đến kỳ đáo hạn, được hưởng một số tiền lăi (Interests) nhất định như 10% bất kể công ty thành công hay thất bại. Cổ phần (Stocks) cũng là một lối gây vốn nhưng người mua cổ phần (Stock holder) là một sở hữu chủ của công ty. Có hai loại cổ phần, cổ phần thường (Common stock) và cổ phần ưu tiên (Prefered stocks) có quyền lợi khác nhau. Nếu có lời, sở hữu chủ cổ phần ưu tiên được chia cổ lợi (Dividends) trước rồi mới đến sở hữu chủ cổ phần thường. Công ty cổ phần hữu hạn, trước pháp luật là một thực thể pháp lư (Legal entity) giống như một cá nhân. Những người thành lập (Founders) công ty cổ phần bỏ vốn được định giá theo số lượng cổ phần với mệnh giá như 20 đô la một cổ phần. V́ là một thực thể pháp lư, nếu có lời, các cổ đông thường hay ưu tiên chia nhau số doanh lợi dưới h́nh thức cổ lợi (dividends). Nếu thất bại, các cổ đông thành lập công ty và các sở hữu chủ cổ phần chỉ chịu trách nhiệm về số tiền đă hùn mua cổ phiếu. Họ không phải bán tài sản riêng để trả nợ cho sở hữu chủ cổ phiếu, hay ngân hàng nếu họ có vay.
Các công ty lớn nếu thành công, có danh tiếng và muốn gây vốn thêm để phát triển rộng lớn hơn, họ có thể niêm yết trên giàn chứng khoán nội địa như Down Jones, Nasdaq, hay S&P hoặc các thị trường chứng khoán quốc tế như Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật, Singapore v.v…
Ở Hoa Kỳ, hàng tháng có hàng ngàn công ty lớn nhỏ bị phá sản và đóng cửa nhất là các công ty cá nhân và hùn hiệp, nhưng cũng có hàng ngàn công ty lớn nhỏ khác được thành lập, nhảy vào thị trường kinh doanh với hy vọng kiếm lời lớn.
Các công ty kinh doanh cũng phải đối diện với những áp lực nặng nề về những vụ kiện tụng của giới tiêu thụ về những tài hóa kém phẩm chất (Defects) như trong kỹ nghệ xe hơi, túi an toàn không hoạt động hữu hiệu khi có tai nạn giao thông. Những hăng sản xuất thuốc lá cũng thường bị kiện bởi liên bang hay tiểu bang v́ gây tai hại bệnh tật cho giới tiêu thụ, đăc biệt là giới trẻ.
Các xí nghiệp sản xuất y dược hay cung cấp thực phẩm động vật và rau trái cũng phải đối đầu với nhiều vụ kiện. Quan trọng hơn nữa, các xí nghiệp sản xuất c̣n phải đối diện với những áp lực của các nghiệp đoàn lao động bởi các cuộc đ́nh công đ̣i tăng lương, phúc lợi bảo hiểm, và môi trường làm việc thoải mái.
The Following 2 Users Say Thank You to phokhuya For This Useful Post:
Lực lượng lao động.
Chúng ta cũng nên biết qua về Lực Lượng Lao Động (Labor force) và nạn thất nghiệp. Lực lượng lao động Hoa Kỳ gồm tất cả những ai trên 16 tuổi đang t́m kiếm việc làm. Như vậy học sinh Trung Tiểu Học không nằm trong lực lượng lao động. Dân số Hoa Kỳ hiện nay có khoảng 350 triệu người và lực lượng lao động có khoảng 180 triệu người.
Có hai loại thất nghiệp, tự ư (Voluntary) và không tự ư hay bắt buộc (Involuntary or forced). Những người đang có việc làm mà tự ư bỏ để t́m một việc làm có mức lương cao hơn hay v́ môi trường làm việc không thích hợp th́ gọi là thất nghiệp tự ư. Những người đang ở tuổi lao động mà không có việc làm đang đi t́m việc làm với mức lương trung b́nh tương xứng trong thị trường lao động (Labor market) là người thất nghiệp không tự ư hay bắt buộc. Vậy một người lao công muốn kiếm việc làm có mức lương của một kỹ sư không được coi là người thất nghiệp.
Trước đây khi có mức thất nghiệp 4% lực lượng lao động, th́ nền kinh tế được coi như có Toàn Dụng Nhân Công (Full employment). Tiêu chuẩn hiện nay là từ 5,5% tới 6% lực lượng lao động được phần lớn các kinh tế gia chấp nhận. Mức thất nghiệp bắt buộc trong nhiệm kỳ 4 năm đầu của Tổng thống Donald Trump được nhiều người coi như một phép lạ kinh tế thần kỳ. Mức thất nghiệp bắt buộc trung b́nh trong nhiệm kỳ của ông thay đổi từ 3.7% và 3.5% mức thất nghiệp thấp nhất trong 5 thập niên qua.
Năng suất nhân công – Ch́a khóa tăng trưởng kinh tế.
Vấn đề Năng Suất Công Nhân (Worker productivity) cũng nên được bàn tới v́ nó liên quan đến nền giáo dục quốc gia. Năng suất công nhân được hiểu là số lượng tài hóa mà một giờ của công nhân tạo ra. Như công nhân A một giờ sản xuất được 10 cái đinh ốc chẳng hạn, nhưng công nhân B sản xuất được 50 chiếc, như vậy chúng ta có thể kết luận công nhân B có năng suất sản xuất gấp 5 lần công nhân A. Công nhân Hoa Kỳ có năng suất sản xuất vào hàng cao nhất thế giới. Đức và Nhật cũng có năng suất công nhân cao không kém.
Nền giáo dục tân tiến Hoa Kỳ hiện nay nhằm hổ trợ mục tiêu phát triển và gia tăng tiện ích vật chất nên đăc biệt chú trọng đến các khoa học như Toán Học, Vật Lư và Hóa Học Thuần Túy (Pure science) và nhất là các Khoa Học Áp Dụng (Applied science) để tạo ra nhiều kỹ sư (Engineers) và các kỹ thuật viên (Technicians) thuộc đủ ngành. Hai nhóm này là ṇng cốt sản xuất trong nền kinh tế Hoa Kỳ.
Xă hội Hoa Kỳ nghiêng về vật chất, không hẳn là duy vật, nhưng không kém về phương diện tâm linh. Bằng chứng là hầu hết dân chúng Hoa Kỳ theo Thiên Chúa Giáo (Christian) và các tôn giáo khác. Có thể nói dân chúng Hoa Kỳ quan niệm “Có thực mới vực được đạo”. Nền giáo dục Hoa Kỳ hết sức tân tiến và đa dạng, tuy nhiên, khoa học và khoa học áp dụng được đặt nặng hơn v́ chúng là những ch́a khóa cho tăng trưởng và phát triển kinh tế trong xă hội.
Nền giáo dục Hoa Kỳ là một nền giáo dục chuyên sâu (Specialized) nhằm đào tạo ra những chuyên gia (Experts) các khoa học gia (Scientists) nổi tiếng trong mọi ngành. Chắc người đọc cũng biết trong xă hội Hoa Kỳ nếu bạn là người tài giỏi nhất (second to none) trong bất cứ ngành nào cũng có thể trở thành triệu phú. Thí dụ một thợ cắt tóc giỏi làm chủ một tiệm cắt tóc nam nữ, một thợ làm móng tay giỏi mở một tiệm làm móng tay, chă mấy hồi trở thành triệu phú như thực tế chứng minh trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại hiện nay. Trong xă hội Hoa Kỳ, bạn đừng là người cái ǵ cũng biết (Jack of all trades) nhưng chỉ biết lơ mơ mà hy vọng thành triệu phú.
Tuy là đặt nặng phương diện vật chất, nhưng Hoa Kỳ cũng có một nền văn hóa và văn học phát triển và tân tiến không thua quốc gia nào trên thế giới. Về văn chương và nghệ thuật, nhất là nghệ thuật phim ảnh như Hollywood ở Los Angeles và nghệ thuật diễn xuất như Broadway ở New York không có quốc gia nào qua mặt nổi. Hoa Kỳ cũng có rất nhiều nhà văn nổi tiếng như Mark Twain 1835–1910, Ernest Hemingway 1898-1961 và tiểu thuyết gia như Danielle Steel với hàng trăm cuốn tiểu thuyết.
Khi người viết theo học tại đại học Wisconsin, tiểu bang Wisconsin 1959 và đại học Georgetown 1962 tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, các chính phủ như Trung Quốc, Đài Loan, Đại Hàn và Singapore có một chính sách gửi các sinh viên học bổng hay tự túc với mục đích rơ ràng. Các sinh viên này chỉ chuyên học các khoa học như toán, vật lư và hóa học. Người viết quen rất nhiều sinh viên thuộc các quốc gia nói trên, nói chung là người Tàu theo học tại hai đại học trên. Khi hỏi môn học chuyên môn (Major subject) của họ th́ chỉ là Toán Học, Vật Lư và Hóa Học Áp Dụng. Không một sinh viên nào học khoa học xă hôi như Kinh Tế Học, Xă Hội Học hay Chính Trị Học v..v…Duy chỉ có một sinh viên học Quản Trị Khách Sạn (Hotel management) Không lạ ǵ v́ sao mà Trung Quốc, Đài Loan, Đại Hàn và Singapore có nền kinh tế phát triển mạnh như ngày nay chỉ trong ṿng 20 năm qua.
Một điểm son trong nền kinh tế Hoa Kỳ mà ít quốc gia nào có là sự tương quan mật thiết giữa các đại học và các công ty kinh doanh. Cứ mỗi kỳ ra trường cuối năm, các công ty gửi nhân viên đến các trường đại học tuyển chọn các sinh viên tốt nghiệp xuất sắc trong mọi ngành, đặc biệt là các kỹ sư giỏi. Các công ty c̣n tuyển lựa ngay cả các sinh viên giỏi năm chót, cấp học bổng cho họ để khi ra trường vào làm việc cho các công ty đó.
Một điểm son nữa là các doanh nhân thành công, triệu phú cũng như tỷ phú thường hiến tặng các đại học những số tiền rất lớn cho việc nghiên cứu trong nhiều lănh vực. Steve Jobs và Bill Gates là những gương mặt điển h́nh. Gần đây tháng 2 năm 2020 Jeff Bezos, chủ nhân công ty Amazon với tích sản (assets) 180 tỷ mỹ kim đă hứa hiến tặng 10 tỷ mỹ kim cho các chương tŕnh công cũng như tư nhân nhằm kiểm soát và cải tiến những thay đổi khí hậu.
V́ thế rất nhiều phát minh trong mọi lănh vực phát xuất từ các trường đại học. Các cựu sinh viên thành công trong thương trường cũng thường trở về giúp đỡ ngôi trường mẹ đă đào tạo ra họ. Các doanh nhân triệu phú hay tỷ phú Hoa Kỳ có tinh thần xă hội rất cao, v́ xă hội đă ưu đăi họ nên họ cảm thấy có trách nhiệm phải trả lại cho xă hội một phần nào bằng cách giúp đỡ các hội từ thiện hay các trung tâm nghiên cứu bệnh tật như bệnh tim, Parkinson, Alzeimer, Cancers các loại v..v…
Với nền văn hóa đặt trên căn bản độc lập và tự lập, mỗi cá nhân phải đứng trên đôi chân ḿnh để kiếm sống, không được ỷ lại vào cha mẹ. Các nhà giàu Hoa Kỳ thường chỉ để lại một phần tài sản rất nhỏ cho con cái khi quá văng, họ hiến tặng số tài sản c̣n lại cho các đại học, các hội từ thiện và các trung tâm nghiên cứu bệnh tật nói ở trên.
Trở lại vấn nạn tăng trưởng kinh tế, khi nền kinh tế có tăng trưởng kinh tế cao và bền vững qua nhiều năm, vấn đề toàn dụng nhân công và nạn thất nghiệp không c̣n là vấn đề nữa. Thâm thủng ngân sách cũng dần dần được cải thiện v́ có tăng trưởng kinh tế hằng năm, chính phủ sẽ thu được càng nhiều thuế, đặc biệt là thuế lợi tức cá nhân và doanh nghiệp chiếm 80% ngân sách quốc gia. Nhờ tăng trưởng kinh tế, chính phủ cũng giảm được chi tiêu cho các chương tŕnh phúc lợi xă hội như Medicaire, phiếu thực phẩm (Food stamp), trợ cấp nhà cửa (Housing) v.v... Tăng trưởng kinh tế cũng dần dà giúp giảm bớt nợ công, nhờ chính phủ thu được nhiều thuế hơn hàng năm. Trong nền kinh tế mở (Open economy) nghĩa là có giao thương quốc tế, cán cân thương mại (Trade balance) sẽ được cải thiện v́ có dồi dào tài hóa các loại bán ra ngoại quốc giúp gia tăng xuất cảng và giảm nhập cảng. Tuy nhiên xuất cảng tăng c̣n tùy thuộc vào tổng lợi tức của các quốc gia nhập cảng. Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế c̣n mang lại sức mạnh quân sự và ngoại giao. Công dân trong nền kinh tế tăng trưởng cũng được thơm lây, được nể trọng và mến phục trên toàn thế giới.
The Following 2 Users Say Thank You to phokhuya For This Useful Post:
Lạm phát và ổn định giá cả.
Vấn đề kế tiếp là Lạm Phát và Ổn Định Giá Cả. Lạm phát (Inflation) có thể được hiểu một cách đơn giản là quá nhiều tiền đuổi theo quá it tài hóa (Too much money chases few goods) hay lạm phát phi mă (Hyperinflation) thường xảy ra trong nền kinh tế độc tài chính trị (totalitairian economic regime) như cộng sản Bắc Hàn, Cuba và Việt Nam hay trong nền kinh tế kiểm soát bởi trung ương (Centrally controlled economy) như trong một số quốc gia theo chủ nghĩa xă hội cấp tiến. V́ trong các quốc gia này, ngân hàng trung ương hoàn toàn theo lệnh của thủ tướng hay tổng thống, các vị này thấy nếu cần chi tiêu thêm chỉ cần ra lệnh cho Thống Đốc Ngân Hàng in tiền thêm tiêu thả cửa và bừa băi, chẳng thèm quan tâm tổng sản lượng quốc gia có tăng trưởng tương xứng không, do đó nhiều tiền đuổi theo ít tài hóa, giá cả tổng quát tăng vọt, đó là lạm phát.
Trong nền kinh tế tư bản tự do, Ngân Hàng Trung Ương (Central bank) hay Dự Trữ Liên Bang (The federal reserve bank-The FED) như ở Hoa Kỳ là một cơ quan độc lập và tự trị có nhiệm vụ điều phối khối lượng tiền tệ cho tương ứng với tổng sản lượng quốc gia để giá cả tổng quát không thay đổi (Price stability). Thống Đốc (The governor) của Ngân Hàng Trung Ương hay Chủ Tịch (Chairman) của FED do thủ tướng hay tổng thống bổ nhiệm và quốc hội chấp thuận với nhiệm kỳ 5 đến 7 năm tùy mỗi quốc gia, không bị thủ tướng hay tổng thống băi nhiệm. Các vị này được hưởng mức lương rất cao và suốt đời, dù chỉ một ngày giữ chức này, ngoài ra c̣n được hưởng nhiều bổng lộc như nhà cửa xe cộ, nhân viên phục dịch để tránh tham nhũng. Các thống đốc hay chủ tịch là những kinh tế gia nổi tiếng, chuyên môn trong lănh vực tiền tệ.
Trong nền kinh tế tư bản tự do, đôi khi có những xung khắc về chính sách tiền tệ giữa thủ tướng hay tổng thống và thống đốc hay chủ tịch thuộc đảng phái chính trị khác nhau. Như người viết được biết có chút xung khắc về chính sách tiền tệ giữa Tổng Thống Trump và Chủ Tịch Ngân Hàng Dự Trữ. Chủ tịch ngân hàng dự trữ hiện nay do tổng thống Barack Obama bổ nhiệm. Xung khắc đó là Tổng T hống Trump muốn chủ tịch ngân hàng dự trữ liên bang hạ mức lăi suất tái chiết khấu (Rediscount rate) khi các ngân hàng thương mại vay tiền từ ngân hàng dự trữ. Ông chủ tịch ngân hàng dự trữ từ chối v́ sợ lạm phát.
Giá cả tổng quát liên hệ với khối lượng tiền tệ và khối lượng tài hóa đang lưu hành trong nền kinh tế, do đó sự ổn định giá cả ảnh hưởng trực tiếp đến mức sống của người dân. Giá cả tăng, mức sống giảm và ngược lại. Một điều tai hại nữa là giá cả có tính cách cứng ngắc (Price stickiness). Nó tăng rồi đôi khi giảm chút đỉnh rồi lại tăng cao hơn mức tăng trước khi giảm và cứ như thế ngày càng cao hơn. Sự duy tŕ ổn định giá cả rất phức tạp, nhiêu khê được tŕnh bày dưới đây. Một đô la chi tiêu thêm của giới tiêu thụ hay của chính phủ, một đô la đầu tư thêm của giới sản xuất, và một đô la giảm thuế chảy vào ḍng hoạt động kinh tế, mỗi đồng đô la thêm này có hiệu ứng kinh tế theo cấp số nhân (Multiplier effect).
Hiệu ứng số nhân.
Dùng một thí dụ cho dễ hiểu. Một ngàn đô la (1000) chi tiêu thêm chảy vào ḍng hoạt động kinh tế nó sẽ tạo ra một tổng số chi tiêu thêm gấp nhiều lần. Giả thử khuynh hướng Tiêu Thụ Biên Tế (Marginal propensity to consume) là 20% th́ tổng số chi tiêu tăng gấp 5 lần chi tiêu lúc ban đầu bằng 5000 đô la. Người tiêu thụ A có lợi tức thêm 1000 đô la, nếu khuynh hướng tiêu thụ biên tế của họ là 20%, họ sẽ chi tiêu 80% tức 800 đô la và để dành 20% tức 200 đô la. Người tiêu thụ B nhận được thêm 800 đô la và theo tỷ lệ như trên họ chi tiêu 80% tức 512 đô la và để dành 20% tức 128 đô la, và cứ tiếp tục như vậy tổng chi tiêu cuối cùng bằng 5 lần tức 5000 đô la. Và ngược lại, 1000 đô la chảy ra khỏi ḍng hoạt động kinh tế sẽ làm giảm chi tiêu gấp 5 lần tức 5000 đô la.
Cùng một lập luận đó, một người tiêu thụ kư thác thêm vào một ngân hàng thương mại A 1000 đô la với luật dự trữ bắt buộc (Reserve requirement) của ngân hàng trung ương hay dự trữ liên bang là 20%, họ phải bỏ vào 20% tức 200 đô la và có quyền cho vay 80% tức 800 đô la. Ngân hàng thương mại B nhận được 800 đô la kư thác phải nộp 20% tức 218 đô la cho ngân hàng trung ương và có quyền cho vay 80% tức 512 đô la và cứ như vậy tổng số tiền cho vay gấp 5 lần kư thác đầu, tức 5000 đô la. Và ngược lại 1000 đô la rút ra khỏi một ngân hàng thương mại có hiệu ứng ngược lại. Đây là sức mạnh tạo ra tiền (Money creation) của cả hệ thống ngân hàng thương mại. Như vậy người đọc thấy được vai tṛ của thống đốc ngân hàng trung ương hay chủ tịch ngân hàng dự trữ quan trọng và khó khăn như thế nào để kiểm soát và điều hướng khối tiền tệ tương ứng với tổng sản lượng quốc gia hiện có và duy tŕ được sự ổn định giá cả.
The Following 2 Users Say Thank You to phokhuya For This Useful Post:
Phân chia lợi tức quốc gia.
Vấn đề kế tiếp là phân phối tổng lợi tức hay tổng sản lượng quốc gia, ai hưởng nhiều ai hưởng ít và làm thế nào đạt được công bằng xă hội tối hảo. Một số người cho rằng sự phân phối lợi tức hay sản lượng quốc gia lư tưởng và công bằng khi 20% dân số được hưởng 20% và 80% dân số được hưởng 80% tổng lợi tức hay sản lượng quốc gia. Điều này thiếu thực tế, không hợp lư và thiếu công bằng theo quy luật Hữu Dụng Biên Tế (Principle of marginal utility). Hữu dụng được tạm định nghĩa là sự thỏa măn hay khoái lạc. Thí dụ người viết đang đói, ăn bát cơm đầu tiên thấy rất khoái, giả định đo được 10 đơn vị hữu dụng, ăn bát thứ hai 8 đơn vị, bát thứ ba 7 đơn vị, bát thứ tư 4 đơn vị, bát thứ năm 0 đơn vị và bát thứ sáu trừ 1 đơn vị (--1), nghĩa là ăn bát thứ sáu người viết không c̣n cảm thấy khoái lạc nữa mà cảm thấy đầy bụng khó chịu, nên ai lấy đi cũng không màng. Qui luật này phải được áp dụng cho việc phân phối lợi tức hay sản lượng quốc gia.
Đối với người triệu phú, ngàn đồng đầu tiên có hữu dụng cao v́ để thỏa măn những nhu cầu cần thiết như thực phẩm, quần áo, y dược, tiện ích công cộng như điện nước, hơi đốt v.v…Những ngàn đồng kế tiếp ngày càng bớt hữu dụng hay giá trị và ngàn đồng cuối cùng, nếu mất đi, cũng không gây ra tiếc rẻ và đau khổ.
Dựa trên lập luận này, chính phủ áp dụng những loại thuế và thuế suất khác nhau trên lợi tức của người dân. Có ba thuế suất khác nhau, Lũy Tiến (Progressive) Tỷ Lệ (Proportional) và Tiệm Tiến (Regressive). Thí dụ ai có lợi tức 200 ngàn đô la một năm, 50 ngàn đô la đầu chịu thuế suất 10%, 50 ngàn đồng kế tiếp 20%, 50 ngàn đồng chót có thể phải trả 50% thuế suất. Theo thuế suất tỷ lệ, mọi người có lợi tức cao hay thấp đều phải chịu một thuế suất như nhau như 25%. Thuế suất tỷ lệ không công bằng theo quy luật Hữu Dụng Biên Tế nói trên.
Không có thuế suất tiệm tiến, nhưng có những sắc thuế tiệm tiến. Thuế lợi tức cá nhân và lợi tức doanh nghiệp là lũy tiến. Thuế tài sản (Property tax) là theo tỷ lệ, thuế được ước tính theo giá trị tài sản, thí dụ thuế suất tài sản 1.1% như ở California hiện nay. Thuế bán lẻ (Sale tax) là thuế tiệm tiến, người giàu hay người nghèo đều trả thuế suất như nhau khi mua một món hàng
Tất cả các chính phủ trong nền kinh tế tư bản đều nhằm phân chia lợi tức quốc gia để có giới trung lưu lớn, chiếm 90% dân số, c̣n lại hai đầu, người nghèo chiếm 5%, và người giàu chiếm 5% dân số. Như vậy 90% dân số tức giới trung lưu hưởng 90%, 5% dân số giàu và nghèo hưởng 5% tổng số lợi tức quốc gia mỗi nhóm.
Điều này dễ hiểu v́ giới trung lưu lớn bảo đảm sự ổn định chính trị và kinh tế trong một quốc gia.. Đây cũng là cái nôi xuất hiện các nhà lănh đạo quốc gia tài đức như George Washington, Winston Churchill, De Gaule và những lănh đạo độc tài, gian ác như Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh.
Tiền tệ và số cung tiền tệ.
Một vấn đề quan trọng nữa, nếu không được đề cập tới, th́ quả là một thiếu sót, đó là vấn đề Tiền Tệ. Người viết sẽ lần lượt tŕnh bày về lịch sử, vai tṛ, giá trị, tốc độ lưu hành và số cung tiền tệ.
Thời cổ xưa, khi chưa phát minh ra tiền tệ, người ta trao đổi tài hóa với nhau qua việc trao đổi bằng hiện vật (Barter exchange). Thí dụ một người tiêu thụ nào đó muốn trao đổi một đôi giày mới lấy một con gà để nuôi, họ phải t́m một người tiêu thụ nào khác muốn có một đôi giày mới. Việc trao đổi này quá bất tiện về thời gian và không gian. Cả hai phải mất thời gian đi t́m ở đâu. Vă lại đổi theo tỷ lệ nào, v́ đôi giày mới trị giá 5 đô la, nhưng con gà trị giá 10 đô la, không lẽ chặt đôi con gà ra. Việc trao đổi này được gọi là trao đổi bằng Tiền Tài Hóa (Commodity money)
Sự trao đổi hay mua bán bằng tiền tài hóa xuất hiện từ xa xưa, khi các hoạt động kinh tế tập trung vào nông nghiệp. V́ vậy người ta đă dùng súc vật (Cattle) để làm tiền trong các giao dịch thương mại. Trao đổi bằng tiền tài hóa gây bất tiện như trên, nên qua thời gian, một loại tiền khác xuất hiện. Đó là tiền Giấy Biên Nhận (Money receipts). Tiền thân của tiền giấy (Paper money) sau nầy là những biên nhận của các chủ nhân đúc tiền và giữ dùm kim loại vàng bạc (Goldsmiths)
Những người có quư kim như vàng bạc đến nhà đúc tiền thành những đơn vị nhỏ tùy theo sức nặng để dễ trao đổi và nhận một giấy biên nhận (Receipt). Những chủ quư kim này dùng giấy biên nhận để trả khi mua vật dụng nào đó. Người bán vật dụng chấp nhận các biên nhận này v́ họ biết rằng có thể đổi thành quư kim nơi các chủ đúc tiền hay giữ hộ quư kim. Một số chủ đúc tiền khôn ngoan nhận thấy chỉ khoảng 35% số quư kim gửi phải trả ra, nên họ cho mượn 65% quư kim c̣n lại để kiếm lời. Những người này trở nên rất giàu có hồi đó.
Sau này, thấy có lời, các ngân hàng thương mại tư nhân nhảy vào kinh doanh và từ từ thay thế các tiệm đúc và giữ kim loại và cũng phát hành các biên nhận. Để thống nhất và kiểm soát việc lưu hành các biên nhận của các ngân hàng thương mại tư nhân, ngân hàng trung ương quốc gia được thiết lập để thu mua quư kim trong dân chúng và phát hành một loại tiền giấy hợp pháp và thống nhất (Legal tender} có mệnh giá (Face value) khác nhau và tiền giấy bắt đầu chính thức lưu hành từ đó.
Lúc đầu, khi các nền kinh tế chưa phát triển mạnh, khối tiền tệ được bảo đăm 100% bằng quư kim bởi ngân hàng trung ương. Từ lúc này, tiền giấy được phát hành theo Kim Bản Vị (gold standard). Các nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh, tổng sản lượng tài hóa và dịch vụ ngày càng tăng, nên cần thêm nhiều tiền hơn tương ứng với tổng sản lượng quốc gia và duy tŕ ổn định giá cả. Sự bảo đảm 100% bằng quư kim của ngân hàng trung ương giảm xuống 35% và sau cùng bị bỏ hẳn.
Tiền tệ có ba vai tṛ. Trước hết là một phương tiện trao đổi (Medium of exchange). Hai là đơn vị đo lường (Standard unit). Thí dụ một quả cam giá 50 xu, một đôi giày giá 5 đô la. Ba là vai tṛ tồn trữ tài sản (Store of wealth). Cá nhân nào cũng giữ tài sản bằng một số tiền mặt (Cash) trong nhà hay trong ngân hàng pḥng hờ những bất trắc chứ không tồn trữ tài vật nhiều.
Vậy trong nền kinh tế, trị giá đích thực của tiền tệ là ǵ? Đó không phải là khối quư kim vàng bạc hay khối ngoại tệ (Foreign currency) giữ trong ngân hàng trung ương. Giá trị của khối tiền tệ đích thực là tổng sản lượng quốc gia (GNP), v́ tiền tệ là để mua tài hóa và dịch vụ. Một nền kinh tế nếu không tiếp tục gia tăng khả năng hay tiềm năng sản xuật nội địa sẽ thiếu hụt tài hóa và dịch vụ mà dân chúng cần, th́ cũng lấy vàng hay ngoại tệ cứng (Hard foreign currency) để nhập cảng thêm hàng hóa để tránh lạm phát. Ngoại tệ cứng như đô la Mỹ có thể mua tài hóa dồi dào và đa dạng trong nền kinh tế phát triển Hoa Kỳ. Không ai dại tồn giữ ngoại tệ mềm (Soft foreign currency) như tiền đồng Việt Nam hiện nay.
Tốc độ lưu hành (Velocity) tiền tệ là số lần chuyển tay một đơn vị tiền tệ như một đô la trong một thời gian thường là một năm. Số lần chuyển tay này làm tăng tổng số chi tiêu của giới tiêu thụ, nên giá cả trung b́nh tăng. Ngược lại, khi nền kinh tế ở trong t́nh trạng tŕ trệ hay suy trầm, tốc độ lưu hành giảm, gây nên tổng chi tiêu của giới tiêu thụ giảm và làm giá cả trung b́nh có thể giảm. Khi nền kinh tế tăng trưởng mạnh, tổng chi tiêu của giới tiêu thụ tăng, tạo áp lực trên giá cả trung b́nh hay lạm phát v́ tổng sản phí do tiền lương lao động, tiền lăi, tiền thuê và giá phí nguyên liệu đều tăng. Nói tóm lại sự tăng trưởng kinh tế và áp lực lạm phát thường biến đổi song hành cùng chiều với nhau. V́ vậy, ngân hàng dự trữ liên bang phải điều chỉnh khối lượng tiền tệ thích ứng qua tỷ lệ tái chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và các hoạt động thị trường mở (Open market operations). Điều này cho thấy sự tương giao và cộng tác giữa chính phủ và vị chủ tịch ngân hàng dự trữ liên bang tối quan trọng. Tuyệt đối tránh cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược.
Giá trị của một đồng tiền như đô la Mỹ, đồng Yen của Nhật, đồng Euro của u châu v.v.. là sức mua (Purchasing power) của nó. Thí dụ một đô la Mỹ mua được một ổ bánh ḿ, nhưng phải mất 23 ngàn đồng Việt Nam mới mua nổi v́ hối suất hiện nay là một đô la Mỹ ăn 23 ngàn đồng Việt Nam.
Người viết c̣n nhớ năm 1979, một đồng tiền Bắc Việt trị giá bằng 5 trăm đồng thời Việt Nam Cộng Ḥa trong lần đổi tiền lần thứ nhất, và 100 đồng Bắc Việt có thể đổi được một trăm đô la Mỹ hay mua được gần một lượng vàng. Quư vị người đọc nh́n thấy đồng bạc Việt Nam hiện nay mất giá thảm thiết như thế nào ? Đó là t́nh trạng lạm phát phi mă. Không có ǵ lạ ! Ở Việt Nam, người ta đă từng gọi là tiền cụ Hồ, v́ chính phủ cộng sản độc tài thả cửa in tiền bừa băi, mà không lo gia tăng sản xuất tài hóa nội địa, ỷ lại vào nhập cảng và giết chết các xí nghiệp sản xuất nội địa.
Điểm cuối cùng là khối lượng hay số cung tiền tệ (Money supply) gồm tiền mặt (Cash), tiền cắc kim loại (Coins) đang lưu hành và tiền kư thác chi phiếu (Checkable deposit) trong hệ thống ngân hàng. Cũng cần biết tiền mặt, tiền cắc và tiền chi phiếu có sức thanh khoản 100% (Liquidity) nghĩa là có thể mua tài hóa trực tiếp. Cổ phiếu (Stocks) trái phiếu (Bonds) như công khố phiếu (Treasury bonds) v..v…là loại tiền gần giống như tiền (Near money) v́ phải đổi ra tiền mặt hay chi phiếu (Checks) mới mua được tài hóa và dịch vụ.
Trong tương lai, người ta dự đoán có một loại tiền mới “Electronic money” hay “E-cash” xuất hiện. Với kỹ thuật điện tử ngày càng phát triển, người ta sẽ trang trải các chi tiêu, mua bán, chuyển tải tiền tệ qua hệ thống chuyển khoản (Money transfer) qua hệ thống điện thoại thông minh trên mạng.
The Following 2 Users Say Thank You to phokhuya For This Useful Post:
Chủ thuyết Kinh Tế Toàn Cầu Hóa.
Chủ đề chót là “Chủ thuyết kinh tế toàn cầu” (Economic globalization) Chủ thuyết này mới xuất hiện trong khoảng 10 năm qua, chủ trương và khuyến khích mở rộng giao dịch thương mại giữa các nền kinh tế, như mở rộng thị trường tiêu thụ, di động công nhân, bỏ hoặc giảm các loại quan thuế, bỏ chế độ giới hạn khối lượng (quota) trong xuất nhập cảng, bỏ chế độ quốc doanh và chính sách trợ gíá (Price subsidy), khuyến khích thành lập công ty đa quốc gia, đầu tư ngoại quốc qua việc xây dựng các công ty hợp doanh (Joint venture) giữa tư nhân hay giữa chính quyền sở tại với tư nhân ngoại quốc như hăng giày Nike, quần vợt Wilson và trao đổi các nhà bác học, chuyên viên và sinh viên du học. Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (World Trade Organization) là định chế kiểm soát, điều hướng các hội viên thi hành nghiêm chỉnh các điều khoản nêu trên.
Chủ thuyết toàn cầu hóa kinh tế có lợi hay hại cho ai? Các nền kinh tế kém phát triển hay đang phát triển (Underdeveloped or developing economy) tích cực ủng hộ chủ thuyết này v́ nhờ có lực lượng lao động dồi dào với mức lương nhân công rẻ mạt. Quan trọng hơn cả là các nền kinh tế này có cơ hội tiếp nhận kỹ thuật cao cấp (High technology) và ăn cắp sở hữu trí tuệ. Điển h́nh là Trung Quốc là ông tổ tài bắt chước và ăn cắp sở hữu trí tuệ từ các nền kinh tế tân tiến như Hoa Kỳ, Đức, Anh, Pháp và Nga.
Hăy lấy một thí dụ. Anh em ông Erville Wright 1871-1948 và Wilber Wright 1867-1912, hai kỹ sư Hoa Kỳ sang chế chiếc máy bay thô sơ đầu tiên năm 1903 tại tiểu bang North Carolina. Qua thời gian từ 1903 đến nay 2020, các kỹ sư Hoa Kỳ đă bỏ ra biết bao tiền, thời gian và công sức để có được một chiếc máy bay quân hay dân sự tiên tiến và hoàn hảo như ngày nay. Trung Quốc chỉ cần mua một chiếc Mig của Nga, đem về tháo ra nghiên cứu trong ít năm đă sản xuất được các loại chiến đấu cơ không kém phẩm chất là bao và c̣n rất nhiều tài hóa kỹ thuật cao, quân cũng như dân sự nữa (đọc cuốn Dead by China – Peter Perron). Các quốc gia được lợi nhất là Trung Quốc, Nam Hàn, Đài Loan và Singapore. Thật là một cuộc đốt giai đoạn thần tốc đáng sợ.
Qua chủ thuyết hoàn cầu hóa kinh tế, các quốc gia tân tiến được lợi ǵ? Đó là thị trường tiêu thụ mở rộng, nguyên liệu dồi dào, tài nguyên thiên nhiên nhiều như các mỏ dầu hỏa, khí đốt và kim loại v.v... Giới tiêu thụ được hưởng nhiều tài hóa gíá rẻ bán la liệt trong các siêu thị như Macy, Costco, Walmart, gồm quần áo , giày dép, dụng cụ nhà bếp v..v… Ngày nay các quốc gia tân tiến như Hoa Kỳ không thể cạnh tranh nổi trong lănh vực này nên chú trọng chuyển sang sản xuất tài hóa có kỹ thuật cao, để xuất cảng như máy bay quân và dân sự, thiết bị y tế như máy chẩn đoán bệnh lư như MRT-scan, CAT-scan, Muga-scan, vũ khí, thiết bị không gian v.v…
Tổng thống Donald Trump kịch liệt chống đối chủ thuyết này nhất là giao thương với Trung Quốc. Chiến tranh thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc mà Tổng Thống Trump khai hỏa không phải v́ vấn đề siêu nhập trong cán cân thương mại, một lư do thứ yếu, nhưng là chủ yếu v́ sự ăn cắp sở hữu trí tuệ, là ch́a khóa cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, theo quan điểm của ông.
Kinh Tế Học – Khoa Học Xă Hội
Kinh Tế Học nói chung và Kinh Tế Học Vĩ Mô không hẳn là một môn học cao siêu và khó hiểu. Tuy nhiên là một Khoa Học Xă Hội rất phức tạp có liên hệ với nhiều khoa hoc xă hội khác nhất là khoa Tâm Lư, Tâm Lư Cá Nhân của người tiêu thụ.
Các kinh tế gia có vai tṛ như một bác sĩ, t́m hiểu nguyên nhân gây ra bệnh rồi cho đúng thuốc, và chờ kết quả. Các kinh tế gia, dựa vào các nguyên lư và qui luật kinh tế qua hai phương pháp qui nạp và diễn dịch để giải thích một sự kiện hay một vấn nạn và đưa ra các chính sách tiền tệ hay tài chánh để điều chỉnh và chờ kết quả. Sự khác biệt chính là vấn đề thời gian. Một viên thuốc aspirin có thể chữa bệnh nhức đầu ngay tức thời, nhưng một chính sách kinh tế đ̣i hỏi hàng năm mới nh́n thấy kết quả. Các kinh tế gia cũng như một khoa học gia, họ không có ư kiến chính sách kinh tế này tốt hay xấu, sẽ thành công hay thất bại. Quyết định chọn chính sách này hay chính sách kia nằm trong tay các chính trị gia có thẩm quyền như thủ tướng hay tổng thống.
Để tổng kết lại, người viết muốn tóm tắt lại nền kinh tế tư bản tự do vận hành như thế nào và có những thành phần nào cấu tạo nên nó qua phương tŕnh dưới đây.
Trong phương tŕnh Y = C + I + E. Y là Tổng Số Sản Lượng bằng hiện vật, là Tổng Lợi Tức của giới tiêu thụ và cũng là Tổng Sản Phí của giới sản xuất, có thể ví như ba cạnh của một h́nh tam giác cân. Từng thành phần trên đây tiêu thụ tư nhân (Consumption) chi tiêu cho tài hóa trung gian (Intermediate goods) tức cơ xưởng sản xuất, máy móc dụng cụ, gọi là đầu tư (Investment) và chi tiêu chính phủ (Government) cũng c̣n được gọi theo ba b́nh diện nói trên. Ba thành phần này chuyển đổi lên xuống hàng năm tức là nền kinh tế có tăng trưởng hay suy thoái kinh tế qua tác động thay đổi của giới tiêu thụ tư nhân, nhà sản xuất và chính phủ và nhất là các chính sách tiền tệ và tài chánh áp dụng. Câu hỏi cốt lơi ở đây là thành phần nào trên đây là đầu tàu kéo nền kinh tế lên hay xuống, nghĩa là Y tăng hay giảm. Câu trả lời này sẽ được trả lời qua hai trường phái kinh tế, Trường Phái Kinh Tế Cổ Điển Biến Thể (Neo-classical school of economics) hay c̣n gọi là trường phái nghiêng về số Cung (Supply side economics) được đảng Cộng Ḥa Mỹ áp dụng và Trường Phái Keynes (Keynesian school of economics), cũng c̣n gọi là trường phái nghiêng về số Cầu (Demand-side economics) mà đảng Dân Chủ áp dụng. Đảng Dân Chủ tích cực chủ trương các điểm sau đây: Chính phủ phải tích cực can thiệp vào các hoạt động kinh tế qua thành phần chi tiêu của giới tiêu thụ và nhất là chi tiêu của chính quyền. Họ chủ trương một chính phủ trung ương ph́nh to với nhiều cơ quan nhiều khi thiếu hiệu năng hay dư thừa, đặc biệt trong lănh vực an sinh xă hội. Họ chủ trương đánh thuế thực cao trên doanh lợi của các doanh nhân giàu, chia bớt cho giới nghèo. Họ đặt ra nhiều luật lệ, thủ tục hành chánh trói buộc các nhà kinh doanh.
Đảng Cộng Ḥa chủ trương chính phủ bớt can thiệp vào nền kinh tế, để cơ chế thị trường hoạt động tự do. Họ muốn có một chính phủ trung ương nhỏ gọn, cắt bớt các cơ quan công quyền kém hữu hiệu hay dư thừa, gỉảm thiểu các luật lệ và thủ tục trói tay các nhà kinh doanh. Ngoài ra đảng Cộng Ḥa chủ trương một quân đội hùng mạnh và tân tiến và một nền ngoại giao cứng rắn, không để quốc tế coi thường.
Nhưng đặc biệt đảng Cộng Ḥa chú trọng nhất vào thành phần đầu tư (Investments) của giới doanh nhân v́ giới này là đầu tàu đưa nền kinh tế lên hay xuống. Giới doanh nhân được ưu đăi qua việc giảm thuế doanh lợi và thuế trên tiền lời (Capital gain) khi bán các máy móc dụng cụ phế thải để đầu tư thêm vào cơ xưởng sản xuất, máy móc và dụng cụ v.v… nhằm tăng tổng sản lượng quốc gia (GNP hay Y) tức là tăng trưởng kinh tế.
Dưới mắt đảng Cộng Ḥa, các doanh nhân là “những con gà đẻ trứng vàng” tạo ra công ăn việc làm, thuê công nhân thêm kết hợp với tăng đầu tư vào cơ sở sản xuất, máy móc, dụng cụ cùng với tài quản trị (Entrepreneurship ability) làm tăng sản lượng quốc gia, tức là tăng trưởng kinh tế. Tóm lại đảng Cộng Ḥa chú trọng đến tăng trưởng kinh tế hơn là tái phân phối tổng lợi tức, phải làm đồng-bánh ngày càng to hơn để mỗi cá nhân có được miếng bánh ngày càng lớn hơn, trong khi đó đảng Dân Chủ cứ loay hoay trong việc tái phân chia lợi tức.
The Following 2 Users Say Thank You to phokhuya For This Useful Post:
Thành quả kinh tế trong 3 năm đầu của Tổng Thống Donald Trump
Trong thương thuyết, Tổng Thống Donald Trump luôn luôn đặt ra những điều kiện và đ̣i hỏi thật cao, và từ sự đánh giá chính xác các phản ứng của đối phương để nhân nhượng, nhưng cuối cùng phải đạt được phần lợi hơn (đọc The Art of the Deal - Donald Trump). Ông là một mưu lược gia lỗi lạc. Ông thả bong bóng bằng những tuyên bố lung tung, tiền hậu bất nhất để ḍ xét phản ứng quần chúng. Ông thả hỏa mù để ḍ xét phản ứng của địch thủ và ông đă có câu trả lời trong đầu mà địch thủ không thể đoán được. Như vậy, Donald Trump không phải là nhà mưu lược cao tay hay sao? Nếu ở trong quân ngũ, ông là một vị tướng giỏi. Tổng Thống Donald Trump c̣n là một nhà quản trị tài ba, biết dụng người. Ông tuyển dụng những thuộc cấp tài ba, có khả năng thực sự và trung thành cùng với ông hoàn thành mục tiêu tối hậu mà ông theo đuổi. Ông rất rộng lượng và khoan hồng đối với thuộc cấp có khả năng và cầu tiến. Nếu ai phạm lỗi, ở bất cứ cấp bậc nào, ông luôn luôn cho họ một cơ hội thứ hai.
Tổng Thống Donald Trump, v́ đă được nhào luyện trong một trường quân đội trong thời niên thiếu, đặt nặng vấn đề kỷ luật và gương mẫu. Ông sống một cuộc sống đơn giản, một người cha gương mẫu cho con cái, không rượu chè, hút xách.
Cuối cùng, Tổng Thống Donald Trump là một người yêu nước thương dân chân thực. Ông đă có danh vọng, là một tỷ phú, tiền bạc dư thừa chi tiêu cả đời không hết, vậy ông ra tranh cử chức tổng thống làm ǵ, để đảng Dân Chủ thổ tả, tham nhũng và mị dân, được chỉ đạo bởi cặp bài trùng Obama-Hillary đầy âm mưu đen tối và nhóm truyền thông thiên tả, vừa lưu manh và tham nhũng vùi dập tả tơi trong suốt ba năm qua. Bọn này quyết tâm đánh gục ông chỉ hai tuần sau khi ông thắng cử vẻ vang năm 2016 như tờ báo Washington đă đăng tải cuộc chiến truất phế ông thực sự đă bắt đầu. Phải chăng cặp bài trùng Obama-Hillary và đảng Dân Chủ có tật giật ḿnh v́ đang sống béo mập trong đầm lầy tham nhũng?
Như Tổng Thống Donald Trump đă trả lời trong một cuộc phỏng vấn năm 1988, hỏi bao giờ ông ra ứng cử tổng thống. Ông trả lời khi nào ông thấy đất nước và dân tộc Hoa Kỳ ở trên bờ vực thẳm đen tối và sống trong đầm lầy tham nhũng tại Hoa Thịnh Đốn, ông sẽ làm cho Hoa Kỳ vĩ đại trở lại, tát sạch đầm lầy tham nhũng, bắt hết những con cá vồ béo mập lớn nhỏ chuyên ăn phân dơ bẩn. Ông quả là một vị cứu tinh (Savor) vĩ đại.
Tổng Thống Donald Trump, theo người viết biết rất kính phục tổng thống Ronald Reagan, có lẽ v́ một vài điểm tương đồng trong cá tính, quả quyết và cứng rắn. Ông theo chủ thuyết kinh tế (Reaganomics) thuộc trường phái kinh tế nghiêng về số Cung (Supply-side economics) đặc biệt nâng đỡ và ưu đăi các nhà sản xuất qua việc giảm thuế lợi tức đánh trên doanh lợi và đơn giản hóa luật lệ và thủ tục hành chánh rườm rà làm nản ḷng các nhà kinh doanh.
Kết quả là trong cả hai đời tổng thống, nền kinh tế phát triển mạnh và bền vững. Tổng Sản Lượng Quốc Gia (GDP) tăng đáng kể, nạn thất nghiệp thấp và giá cả ổn định. Công tâm mà nói, Tổng Thống Donald Trump gặt hái được thành quả tốt trong nhiều lănh vực như nhiều tờ báo đă đăng tải và quư vị người đọc đă nghe trong Thông Điệp Liên Bang (State of Union) trước Lưỡng Viện Quốc Hội của Tổng Thống Donald Trump gần đây.
Để kết luận, cả hai Tổng Thống Ronald Regan và Donald Trump đều áp dụng chủ thuyết kinh tế “Con gà đẻ trứng vàng” để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nói nôm na, ngày càng làm cho đồng-bánh to hơn. Trong ba năm đầu Tổng Thống Donald Trump đạt được những thành quả trong nhiều lănh vực sau đây: Trước hết, như một vơ sĩ, với hai cú đấm nặng kư ông đă đo ván địch thủ “Sự tŕ trệ kinh tế” (Economic stagnancy). Ông bỏ thuế đánh trên tiền lời do bán cơ sở, máy móc và dụng cụ sản xuất phế thải của giới sản xuất năm 2017 và ngay năm sau đó 2018, ông hạ thuế suất lợi tức cá nhân cho toàn dân để kích cầu và quan trọng nhất là giảm thuế suất lợi tức doanh nhân nhằm khích lệ họ gia tăng đầu tư vào cơ sở, máy móc và dụng cụ sản xuất là đầu tàu kéo nền kinh tế tiến lên. Tổng Thống Donald Trump đă thành công, nền kinh tế tăng trưởng mạnh và bền vững với tỷ lệ tăng trưởng tổng sản lượng quốc gia (GDP) hàng năm tăng trong khoảng từ 3.5% đến 4%. Mức thất nghiệp có lúc xuống tới 3.5% lực lượng lao động, mức thấp nhất trong năm thập niên qua. Gần bảy triệu việc làm được tạo ra nhờ hàng trăm xí nghiệp lớn nhỏ rời bỏ Trung Quốc trở về nước v́ hạ thuế suất doanh lợi từ 35% xuống 21%, một mức giảm lớn nhất trong lịch sử, đưa tới gia tăng gần bảy triệu việc làm chỉ trong ba năm như nói ở trên. Giá cả tổng quát ổn định chỉ số ở mức 2% trong suốt ba năm đầu. Trên giàn chứng khoán trong ba năm đầu, Down Jones tăng gần 10.000 điểm. Nasdag và S&P cũng tăng đáng kể.
Việc tăng thuế quan trên ba trăm tỷ đô la trên hàng hóa nhập cảng từ Trung Quốc gần đây làm giảm siêu nhập và đưa về hàng ngh́n tỷ đô la. Việc hủy bỏ thương ước cũ bất lợi và kư thương ước mới Bắc Mỹ với Mễ Tây Cơ và Gia Nă Đại cũng tạo thêm nhiều công ăn việc làm và tiết kiệm hàng ngh́n tỷ đô la mỗi năm. Quyết định của Tổng Thống Donald Trump rút ra khỏi hiệp ước quốc tế về thay đổi khí hậu toàn cầu tránh được những bất lợi cho nền kinh tế Hoa Kỳ.
Đ̣i hỏi khối đồng minh NATO, Nam Hàn, Nhật Bản và Đài Loan đóng góp thêm chi phí quân sự pḥng thủ tại các quốc gia này. Yêu cầu các thành viên trong Liên Hiệp Quốc và Ngân Hàng Thế Giới đóng góp thêm chi phí để bớt gánh nặng cho Hoa Kỳ. Những yêu cầu trên giúp Hoa Kỳ tiết kiệm được không biết bao nhiêu tiền mà kể.
Trong tương lai gần, Tổng Thống Donald Trump dự tính hai chương tŕnh quan trọng nhằm giảm 1/2 giá thuốc men cho dân chúng và phát động chương tŕnh công cộng (Public work) như sửa chữa đường sá, cầu cống, thương cảng và sân bay v.v…Thật là một thành quả kinh tế vĩ đại trong lịch sử Hoa Kỳ.
Trên mặt trận quân sự, Tổng Thống Donald Trump quyết định rút khỏi thỏa ước nguyên tử với Nga và Iran làm suy yếu khả năng pḥng vệ và an ninh quốc gia. Ông tăng chi phí quốc pḥng để duy tŕ một quân đội hùng mạnh với những vũ khí ngày càng tối tân hơn. Ông đă loại bỏ được ba trùm khủng bố nguy hiểm và tàn ác nhất thế giới, một ở Syria, một ở Iraq và một ở Iran, một địch thủ không đội trời chung với Hoa Kỳ.
Trên mặt trận ngoại giao, Hoa Kỳ đă thực sự vĩ đại trở lại không c̣n bị khinh miệt và bắt nạt. Tập Cận B́nh của Trung Quốc và Kim Chung Ủn của Bắc Hàn phải nể nang và kính phục và có phần khiếp sợ trước một lănh đạo cương quyết, cứng rắn, mưu lược như Tổng Thống Donald Trump. Đất nước và dân tộc Hoa Kỳ có quyền ngẩng cao đầu hănh diện và kiêu hănh v́ có một nhà lănh đạo tài ba và một nền kinh tế thịnh vượng số một trên thế giới.
The Following 2 Users Say Thank You to phokhuya For This Useful Post:
Thành quả kinh tế trong nhiệm kỳ của tổng thống Barack Obama.
Chúng ta cần nh́n lại trong tám năm cầm quyền lănh đạo quốc gia, tổng thống Barrack Obama đă có những thành quả trên b́nh diện kinh tế, quân sự và ngoại giao ra sao.
Trong lănh vực kinh tế, nền kinh tế tŕ trệ, tăng trưởng kinh tế hàng năm thấp, khoảng 1.5%. Mức thất nghiệp giảm từ 8% lúc mới nhậm chức xuống 4,8% ở cuối nhiệm kỳ hai qua sắc luật phục hồi kinh tế (Economic Recovery Act) với khối kích cầu (Demand booster) 760 tỷ đô la giúp nền kinh tế phục hồi một phần nào.
Khối kích cầu 760 tỷ đô la tạo ra một số việc làm bán thời gian, phần lớn số c̣n lại chi cho các chương tŕnh phúc lợi xă hội làm tăng số người lười biếng, ỷ lại, có sức khỏe nhưng không chịu đi kiếm việc làm mà nằm nhà chờ sung rụng qua các chương tŕnh như phiếu thực phẩm, trợ giúp nhà cửa, y tế v.v...
Quư vị người đọc thử tưởng tượng chính phủ phải chi tiêu biết bao nhiêu tiền để nuôi 11 triệu di dân bất hợp pháp và những ḍng người khác tiếp tục hàng ngày chạy vào Hoa Kỳ qua băi đáp Mễ Tây Cơ từ các quốc gia nghèo Nam Mỹ như Bolivia, Columbia, Chile và Peru v..v… Tổng thống Barrack Obama đă chẳng đưa được chính sách nào để cải tổ nhằm chận đứng hoặc giảm bớt ḍng di dân bất hợp pháp này.
Chi tiêu của chính quyền Barrack Obama tăng gấp đôi thời George Bush con, đă đẩy mức nợ công từ 10 ngàn tỷ lên đến 20 ngàn tỷ, tính ra số nợ công dười thời Obama bằng tổng cộng số nợ công của các tổng thống tiền nhiệm gộp lại.
Trong thời tổng thống Barrack Obama, nổi bật nhất là chương tŕnh Obamacare. Chính phủ phải chi trả một số tiền trợ cấp rất lớn, nhưng cho tới giờ, kết quả thế nào, lợi hay hại, chưa ai đánh giá nổi. Quân sự th́ dậm chân tại chỗ. Quân đội không được cải tiến, vũ khí cũng thế. Đặc biệt, Obama đ́nh chỉ chương tŕnh Không Gian, nên mỗi lần đưa các phi hành gia Hoa Kỳ lên Trạm Không Gian Quốc Tế, Hoa Kỳ phải mướn phi thuyền của Nga chuyên chở, mỗi chuyến tốn 81 triệu mỹ kim/ một người (giá cả năm 2018). Obama chủ trương chính sách ḥa hoăn, sống chung ḥa b́nh, hay v́ bất tài và khiếp nhược?
Trên b́nh diện ngoai giao, Tổng Thống Barrack Obama nhún ḿnh xin lỗi khắp nơi, cho dù Hoa Kỳ không mắc lỗi ǵ với thế giới! Obama bị Tập Cận B́nh coi thường, không thể xuống Air Force One bằng cửa trước với thảm đỏ mà phải xuống cửa sau, trong khi sang Trung Quốc dự hội nghị thượng đỉnh G20 tại Hàng Châu, Chiết Giang vào ngày 4 tháng 9 năm 2016. Đây là một hội nghị quốc tế gồm toàn các nguyên thủ quốc gia đă được Trung Quốc đón tiếp với đầy đủ nghi lễ ngoại giao dành cho các nguyên thủ quốc gia, ngoại trừ TT Mỹ Obama! Thật là mối nhục quốc thể, chưa từng xảy ra trong lịch sử tổng thống Hoa Kỳ. C̣n nữa, vào ngày 3 tháng 8 năm 2016, Obama phải cho phi cơ chở qua Iran 400 triệu tiền mặt (cash) để chuộc 4 công dân Hoa Kỳ bị Teheran bắt giữ! Thật là nhục nhă, tủi hổ !
Barrack Obama c̣n là một tổng thống vô trách nhiệm, không giải cứu Christopher Stevens, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Benghazi bị quân khủng bố tấn công vào tháng 9 năm 2012. Trong cuộc tấn công này, quân khủng bố phá hủy ṭa đại sứ, hành hạ vị đại sứ tàn nhẫn rồi lôi kéo ra đường đau đớn cho đến khi tắt thở, để dân chúng địa phương đứng coi vổ tay, sau 13 giờ kêu cứu với hàng trăm cú điện thoại gọi về ṭa Bạch Ốc, nhưng Obama và ngoại trưởng Hillary phớt lờ, coi như không biết ǵ, trong khi lực lượng tiếp viện của Không Quân và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ sẳn sàng ứng phó đang đồn trú tại các quốc gia láng giềng gần đó. Thật là một thái độ đốn mạt, khiếp nhược và vô trách nhiệm đối với thuộc cấp.
Một điểm son nhỏ trong thời tổng thống Barrack Obama là loại bỏ được trùm khủng bố quốc tế khét tiếng Bin Laden. Thực ra, kế hoạch hạ sát này đă có từ thời Bush con sau cuộc khủng bố 911, nhưng phải đợi đến thời cơ thuận lợi mới thi hành. Ông cũng đích thân chỉ huy và theo dơi cuộc truy kích như Donald Trump trong cuộc hạ sát 2 tên trùm khủng bố khát máu ở Bagdad. Trong pḥng làm việc, ông được vây quanh bởi các tướng chỉ huy các cấp của bộ Quốc Pḥng, các bộ trưởng liên hệ và giám đốc các cơ quan t́nh báo, đích thân theo dơi, chỉ huy và cho lệnh ra tay trên màn h́nh T.V.
Nhưng ghê gớm và đáng sợ là cặp bài trùng Barrack-Hillary c̣n bán một phần Uranium 1 cho một địch thủ quân sự Nga và Nga đă chuyển 145 triệu đô la vào quỹ Clinton Foundation, trong khi Hoa Kỳ đang thiếu Uranium 1. Đây là một hành động phản quốc cần phải đưa ra ṭa án liên bang để hỏi tội.
Riêng Hillary Clinton là một người đàn bà thủ đoạn, tham nhũng và tàn ác. Bà đă thủ tiêu trên 40 địch thủ (đọc The Clintons’ war on women - Roger Stone) phần lớn là những t́nh nhân của chồng bà và những người biết rơ sự bê bối của Bill Clinton để bịt miệng v́ ghen tương hay sợ những nạn nhân này khai ra những việc làm sai trái, phi pháp của bà và chồng bà. Hillary là một người đàn bà tàn nhẫn và nhỏ mọn đối với cô Lewinsky. Cô này sau vụ bê bối với Bill Clinton đă phải sống một cuộc sống chui lủi và bơ vơ, đi xin việc làm ở đâu cũng bị từ chối. Lư do tại sao, chắc quư vị người đọc đă rơ.
C̣n Obama, với chút tài ăn nói, ông ta là một chính trị gia mị dân. Xuất thân từ một gia đ́nh tầm thường và nghèo, hẳn nhiên tiền bạc là một miếng bă hấp dẫn. Sau khi rời Bạch Ốc, vợ chồng Obama đă thủ đắc một gia sản 70 triệu, so với thời điểm trước khi đắc cử, tài sản chưa tới 2 triệu. Obama cũng là một tổng thống sử dụng công quỹ, chi tiêu phung phí nhất trong các đời tổng thống gần đây. Ông từng xuất ngoại v́ công vụ hay nghỉ dưỡng trên 48 quốc gia bằng chiếc Air Force One với bầu đàn thuộc cấp hay thành viên gia đ́nh, tất cả 80 người, dĩ nhiên ở trong những khách sạn năm sao sang trọng.
Tổng Thống Barrack Obama là một trong những tổng thống tồi nhất hay tốt nhất trong lịch sử tổng thống Hoa Kỳ? Theo nhiều quan sát viên nhận xét th́ có hai ư kiến đối nghịch, thiết tưởng câu trả lời sẽ đến trong thời gian tới đây.
The Following 2 Users Say Thank You to phokhuya For This Useful Post:
Kinh nghiệm chính trị - Khà năng quản trị kinh doanh.
Điểm cuối cùng mà người viết muốn bàn tới là sự quản trị một quốc gia và một đại công ty kinh doanh như công ty Apple của doanh nhân Hoa Kỳ, ông tỷ phú Bill Gates, có khác nhau ǵ không. Một tổng thống vây quanh bởi các Tổng Bộ Trưởng chuyên ngành, được trợ giúp bởi các hội đồng như Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (Council of National Security) Hội Đồng Cố Vấn Kinh Tế (Council of Economic Advisers) Hội Đồng Bang Giao Quốc Tế (Council of Foreign Relations) và c̣n bao nhiêu các Giám Đốc cơ quan t́nh báo và trung tâm nghiên cứu các chính sách đủ ngành như công ty Rand Corporation, mà không phải bỏ tiền túi ra trả lương, ông chỉ có trách vụ duy nhất là lấy quyết định đúng hay sai chỉ ảnh hưởng đến thanh danh của ḿnh.
Nhưng quản lư một công ty sản xuất khổng lồ trong một môi trường kinh doanh cạnh tranh tự do khốc liệt trong một nền kinh tế tư bản như Hoa Kỳ, Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị với Tổng Giám Đốc Điều Hành (Chairman of Executive Officers) phải đương đầu với biết bao khó khăn và thử thách trong mọi lănh vực như kế hoạch sản xuất, nhân viên, cơ sở, máy móc và dụng cụ sản xuất, nghiên cứu thị trường và quảng cáo v.v…
Các doanh nhân phải bỏ tiền túi và vay mượn thêm, liều lĩnh và phiêu lưu nhảy vào thương trường với hy vọng kiếm doanh lợi. Một quyết định của ban giám đốc điều hành, nếu đúng th́ mừng, c̣n sai th́ có thể sập tiệm, vỡ nợ mà c̣n tán gia bại sản. Quư vị người đọc nghĩ sao, câu trả lời dành cho quư vị. Chỉ có người cùng hoàn cảnh mới thông cảm với giới doanh nhân, ở trong chăn mới biết chăn có rận. Tổng Thống Donald Trump sống trong hoàn cảnh đó trong mấy chục năm qua nên ông hiểu tại sao phải giúp đỡ và ưu ái giới doanh nhân để đưa lại tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Tổng Thống Trump đă thất bại, vỡ nợ ba lần nhưng ông không bỏ cuộc. Với sự kiên tŕ vô song và một ư chí sắt đá ông đă đứng dậy xây dựng lại cơ đồ huy hoàng như ngày nay. Ông quả là một doanh nhân đại tài. Khác với chủ nhân CNN, cũng kinh doanh trong lănh vực địa ốc, nhưng thất bại, bỏ cuộc v́ cạnh tranh không nổi, nên đă đổi nghề. Cũng v́ vậy mà trở nên ghen ghét Trump và t́m mọi cách moi móc, chỉ trích Tổng Thống Trump bằng cách đưa những tin sai lạc, bóp méo sự thật để hạ thanh danh Tổng Thống Trump. Quư vị người đọc cho việc quản trị nào khó hơn?
Mới giữ chức tổng thống được vài tuần, Tổng Thống Donald Trump đă bị một số người cho là ngu dốt, điên khùng, phát ngôn tứ tung, thiếu kinh nghiệm chính trị. Thật tội nghiệp cho ông! Đối với người viết, những kẻ đả kích ông mới là đồ ngu ngốc và dốt nát, phải cho ông một thời gian thử thách mới đánh giá chứ, chưa chi đă miệt thị ông. Donald Trump là một chính trị gia tay ngang, bất đắc dĩ, sau 3 năm cầm quyền đă trở thành một chính trị gia lỗi lạc, và nhất là yêu nước, thương ṇi chân thực.
Để tổng kết lại, sau những tŕnh bày và giải thích trên mọi khía cạnh kinh tế vĩ mô trong một nền kinh tế tư bản như Hoa Kỳ, hai chủ thể cốt lơi là chính phủ, đại diện bởi một thủ tướng hay tổng thống và hệ thống ngân hàng dự trữ liên bang điều hành bởi một vị chủ tịch, quyết định số mạng thịnh và ổn định hay suy và bất ổn của nền kinh tế quốc gia. Nhưng trên hết, hai chủ thể trên cũng nằm dưới quyền lănh đạo tuyệt đối của một nhà lănh đạo chính trị đương quyền. Phần lớn các chính trị gia Cộng Ḥa hay Dân Chủ Mỹ hiện nay là những nhà chính trị hoạt đầu và mị dân, hứa thật nhiều khi ra tranh cử, bất cứ vị thế nào, nhưng chẳng thực hiện được bao nhiêu. Họ ra tranh cử các chức vụ v́ tiền, v́ quyền lực, danh vọng và v́ nhiều tiền hơn. Họ thiếu cái tâm yêu nước thương ṇi.
Ch́a khóa cho tăng trưởng kinh tế.
Thưa quư vị người đọc, sau khi đă đọc tất cả những ǵ về kinh tế vĩ mô mà người viết đă tŕnh bày, bây giờ quư vị có lẽ sẽ đặt câu hỏi ch́a khóa cho một nền kinh tế tăng trưởng mạnh và bền vững là ǵ ? Người viết xin trả lời là một chùm ch́a khóa phải mở các cửa cùng một lúc như sau.
Một cá nhân có tâm lư riêng, nhưng một tập thể như các doanh nhân có một tâm lư chung. Một cá nhân, nói rơ hơn một người đi làm kiếm lợi tức khi đă đạt được mức lợi nào đó cho là tạm đủ, họ sẽ cân nhắc giữa lợi tức và thời gian nhàn rỗi để hưởng thụ. Không ai dại ǵ cắm đầu đi làm sáu chục tiếng đồng hồ một tuần, hay làm thêm các giờ phụ trội trong tuần để rồi chịu thuế suất lợi tức cá nhân 50% áp đặt bởi chính phủ. Các sở hữu chủ công ty cá nhân, hùn hiệp hay công ty hữu hạn cũng có cùng một tâm lư này. Không chủ nhân nào muốn đầu tư thêm để phát triển thêm, khi doanh lợi của họ bị chính phủ đánh thuế 50%, vă lại đầu tư thêm đă chắc ǵ thành công. Đó là ch́a khóa thứ nhất.
Ch́a khóa thứ hai là một nền chính trị dân chủ tự do và ổn định, các doanh nhân sợ nhất là việc quốc hữu hóa doanh nghiệp khi có một cuộc đảo chính do một chính phủ xă hội cấp tiến độc tài như cộng sản.
Ch́a khóa thứ ba là một môi trường kinh tế sáng sủa và thuận lợi trong đó viễn tượng doanh lợi khởi sắc và bảo đảm.
Ch́a khóa thứ tư là hai chủ thể Thủ Tướng hay Tổng Thống và Thống Đốc Ngân Hàng Trung Ương hay Chủ Tịch Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang phải giao lưu và cộng tác chặt chẽ với nhau qua các chính sách tiền tệ và tài chánh hướng về cùng một mục tiêu kinh tế.
Ch́a khóa cuối cùng và quan trọng nhất là một nhà lănh đạo chính trị đương quyền có cái tâm yêu nước thương dân đích thực, đặt quyền lợi dân tộc trên hết để đạt được một nền kinh tế phú cường nhất với một dân tộc hạnh phúc nhất về vật chất cũng như tinh thần, đáng tự hào và kiêu hănh với toàn thế giới.
Như vậy, kết luận cuối cùng là, muốn có một nền kinh tế phồn thịnh bền vững, một quốc gia hùng cường và dân chúng được hạnh phúc về vật chất cũng như tinh thần, cần phải có một nhà lănh đạo chính trị tài đức và yêu nước thương dân đích thực. Kỳ vọng này có phải là Donald Trump, vị Tổng Thống đương nhiệm hay không. Quư vị người đọc nghĩ sao ?
Để tổng kết, quư vị sẽ bầu cho ai làm tổng thống nhiệm kỳ 2020, c̣n tôi, có lẽ quư vị đă rơ, tôi bầu cho ai cho tôi miếng bánh càng ngày to hơn và được sống trong một môi trường ngày càng an toàn hơn bên trong bức tường vĩ đại và kiên cố có một không hai trên trái đất này.
Kính chào.
The Following 2 Users Say Thank You to phokhuya For This Useful Post:
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.