V̀ SAO SAU KHI ROOSEVELT LÀM TT 4 NHIỆM KỲ, NƯỚC MỸ NGAY LẬP TỨC RA TU CHÍNH ÁN GIỚI HẠN TỐI ĐA 2 NHIỆM KỲ?
* Biết quá khứ, để hiểu thời hiện tại: hiểm họa đặt ra từ "Nhà nước vú em"!
1/ George Washington là vị Tổng thống đầu tiên, đă được bầu làm Tổng thống vào năm 1789-1797 (hai nhiệm kỳ). Sau đó rất nhiều người mong muốn G.Washington tiếp tục tranh cử cho nhiệm kỳ thứ ba, cũng là điều dễ hiểu v́ công trạng vĩ đại của "quốc phụ" khiến ông trở nên thần tượng chánh trị sáng chói.
Nhưng G. Washington đă từ chối, bởi ông xác quyết rơ rành: việc bám riết vai tṛ nguyên thủ, dẫn đến độc quyền độc tôn là PHẢN LẠI TINH THẦN CỘNG H̉A ("Cộng ḥa", nghĩa là mọi người cùng chung vai sát cánh dựng xây đất nước).
2/ Hiến pháp Mỹ từ thời lập quốc không đưa ra hạn định nhiệm kỳ Tổng thống. Nhưng do George Washington đă tạo ra tiền lệ bất thành văn, nên hầu hết các đời Tổng thống sau đó cũng tự nguyện chấp chánh tối đa 2 nhiệm kỳ th́ không tranh cử nữa.
3/ Và rồi... Franklin Roosevelt bên đảng Dân chủ tranh cử TT tới 4 lần (đắc cử TT vào các năm 1932, 1936, 1940, 1944; sau khi đắc cử nhiệm kỳ lần thứ 4 được một thời gian th́ ông qua đời, Phó TT bấy giờ là Truman đă kế nhiệm cho tới năm 1948 dứt nhiệm kỳ). Nói nào ngay, 4 nhiệm kỳ là không sai, là hợp pháp - bởi v́ cho đến lúc bấy giờ Hiến pháp Mỹ vẫn không hạn định về số nhiệm kỳ.
Nhiều người Mỹ đánh giá TT Franklin Roosevelt là "kiệt xuất", đồng thời vẫn có những người Mỹ nhận định về ông bằng sự e dè, cẩn trọng hơn. Ở đây, quí bạn hăy cùng suy nghĩ:
Nếu TT Roosevelt quả giỏi giang, vậy th́ 4 nhiệm kỳ cho một Tổng thống cũng chưa phải là quá đáng để kế sách trị quốc được thực hiện tới nơi tới chốn (chớ nhiệm kỳ ít hơn th́ nửa chừng phải bỏ ngang);
Nếu TT Roosevelt xuất sắc, vậy th́ ...V̀ SAO vào năm 1947 (sau khi Roosevelt qua đời chưa dứt nhiệm kỳ thứ 4), Quốc hội Mỹ đă buộc phải soạn thảo và đồng thuận với Tu Chính Án 22 (Amendment XXII) - theo đó Tổng thống Mỹ từ nay trở đi chỉ được tối đa 2 nhiệm kỳ (8 năm) mà thôi? V́ sao?
4/ Theo cuốn "Sự điên rồ của Franklin D. Roosevelt” ("FDR’s Folly"), sử gia Jim Powell đă đưa ra đầy đủ tư liệu lịch sử chứng minh rằng "Chính sách Mới" (New Deal) của Roosevelt thay v́ văn hồi sự suy thoái kinh tế, thay v́ chấm dứt th́ lại làm cho cuộc khủng hoảng trầm trọng, kéo dài thêm.
Milton Friedman, Nobel Kinh tế, cũng đưa ra nhận xét tương tự: "Chính sách Mới của Roosevelt gây trở ngại cho việc phục hồi kinh tế khỏi cơn suy thoái, làm tăng thêm nạn thất nghiệp, dẫn đến sự can thiệp của chánh phủ ngày càng sâu và bộ máy chánh phủ ngày càng ph́nh to, tốn kém".
Franklin D. Roosevelt (FDR) lấy phiếu cử tri nhờ vào sự hứa hẹn gia tăng những chương tŕnh phúc lợi xă hội như tiền hưu trí, xây cất nhà cửa cho người nghèo, sửa chữa đường xá... Dưới thời FDR cho ra đời hàng loạt nào là "Luật Điều tiết Nông nghiệp”, “Đạo luật Phục hồi Công nghiệp Quốc gia”, rồi “Luật An sinh xă hội”...
Trớ trêu thay, Luật An sinh Xă hội và Luật Lao động gia tăng trợ cấp th́ đồng thời cũng gia tăng tỉ lệ thất nghiệp. Măi đến cuối những năm 1930, tỉ lệ thất nghiệp ở Mỹ vẫn không giảm xuống dưới hai con số.
Để có kinh phí cho các mục phúc lợi, FDR không ngừng tăng thuế. Trước 1932 (thời điểm Roosevelt vào ngồi ṭa Bạch Cung), chỉ có 5% dân Mỹ ("giới nhà giàu") đóng thuế ở mức thuế 25%.
Vào năm 1944 (nhiệm kỳ 4 của FDR), có đến 66% dân số Mỹ phải đóng thuế ở mức 24% (xấp xỉ với mức thuế vào năm 1932 mà lúc đó chỉ có 5% dân Mỹ "nhà giàu" phải đóng thuế ở mức này thôi), c̣n nhà giàu (đại gia) có lúc đóng thuế tới mức 94%, khó tưởng nổi!
5/ Cũng do mức thuế cao đánh vào các nhà sản xuất mà kinh tế nước Mỹ tŕ trệ kéo dài. Việc thu thuế cao đă hủy hoại mô thức kinh doanh lành mạnh.
Trong tác phẩm “Lời nói dối lớn: Vạch trần gốc rễ Quốc xă Đức của cánh tả Mỹ ”, D’Souza cho biết:
"Đạo luật Phục hồi Quốc gia do Roosevelt ban hành, đây là trung tâm của Chính sách Mới (New Deal). Về cơ bản, Đạo luật này đă gióng lên hồi chuông báo tử cho kinh tế thị trường tự do của Mỹ.”
Nghĩ ǵ, nếu quí bạn biết rằng, Chính sách Mới (New Deal) của Franklin Roosevelt được Adolf Hitler của Quốc xă Đức và Mussolini của phát xít Ư ca ngợi tán thưởng (ghi chú: lúc đó chưa nổ ra Đệ nhị thế chiến)!
Bởi v́ về mặt kinh tế - xă hội, trên đây đều đồng dạng theo công thức: "Thu thuế cao / thu thuế tràn lan + Chánh phủ cồng kềnh, can thiệp sâu vào các hoạt động xă hội".
Tắt một lời, đó là những "NHÀ NƯỚC VÚ EM".
6/ Bất luận trong lịch sử nước nào, cũng đều có những giai đoạn mà cử tri trở nên thụ động, ù ĺ, sẵn sàng bỏ phiếu cho "Nhà nước vú em".
Cử tri sẵn sàng trao quyền tự do chọn lựa vào trong ḷng bàn tay "Nhà nước vú em" để Nhà nước tùy nghi quyết định, bù lại là được bảo bọc, trợ cấp đă được hứa hẹn từ ứng viên Tổng thống, và từ các chính khách chuyên nghiệp (kiếm sống bằng nghề làm chính khách).
Erich Fromm gọi đây là hiện tượng tâm lư "chạy trốn khỏi tự do" ("Escape from Freedom").
7/ Để vực dậy nền kinh tế Mỹ tŕ trệ v́ lún quá sâu vào mô thức "Nhà nước vú em", vào ngày 8 tháng 11 năm 1945 (lúc này DFR đă qua đời dù chưa dứt nhiệm kỳ lần 4) tại Mỹ đă ra đời Đạo luật về doanh thu (US Revenue Act of 1945), mạnh tay cắt giảm thuế!
Sau Đạo luật Revenue Act, năng lực sản xuất của nước Mỹ trỗi dậy. Tăng trưởng đến mức dư thừa để viện trợ cho toàn châu Âu (kế hoạch Marshall và giúp phục hồi Nhựt Bổn hậu chiến.
8/ Tới đây, ắt quí bạn hiểu v́ sao nước Mỹ không thể "buông tay" cho những chính khách lăo luyện rót mật vào tai cử tri đi theo mô h́nh "Nhà nước vú em". Lợi cho cử tri trước mắt rơ rành, nhưng "lợi th́ có lợi, nhưng răng không c̣n"!
Thành thử buộc phải có sự hạn định nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ chỉ được tối đa 2 nhiệm kỳ mà thôi (theo Tu Chính Án thứ 22, ngày 21/3/1947)!
9/ Nếu chẳng may vai tṛ nguyên thủ quốc gia rơi vào ứng viên của "Nhà nước vú em", giỏi lắm cũng chỉ cầm trịch 8 năm là phải stop.
Đó, tỉ như Barack Obama lăo luyện trong ngón nghề "tổ chức cộng đồng", cũng 8 năm chớ không được tái tranh cử nữa, không được ngồi ĺ để "phục vụ dân suốt đời".
Ắt sẽ có quí bạn hỏi: nếu một tổng thống giỏi giang thực sự, có tầm hoạch định quốc kế dân sinh mang lại hiệu quả rỡ ràng, mà ... chỉ được tại vị 2 nhiệm kỳ thôi, có uổng phí quá không?
* Quyền lực nắm càng lâu th́ càng tăng nguy cơ bị tha hóa bởi quyền lực. Đó là nguyên tắc chung trong nền tảng chánh trị CỘNG H̉A tại Mỹ.
* Một Tổng thống giỏi th́ phải nh́n xa hơn 8 năm tại vị (2 nhiệm kỳ tối đa), bằng cách tạo dựng uy tín để cử tri sẽ tiếp tục bỏ phiếu cho ứng viên gần gũi với đường lối của TT tiền nhiệm.
Như hồi TT Ronald Reagan thành công với chủ thuyết kinh tế "Reaganomics" và xóa sổ chiến tranh lạnh khi đẩy khối Soviet Đông Âu vào sự ră rời.
TT Reagan làm được 2 nhiệm kỳ (1981-1989), kế đó Reagan hậu thuẫn cho Phó TT của ông là George H. W. Bush ra tranh cử, và kết quả là ông Bush ("Bush cha") đắc cử ./.
(bài Nguyễn- Chương Mt)
----------------------------------------------------------------
H́nh ảnh (hàng trên): TT George Washington;
(hàng dưới): Chính sách New Deal của TT Roosevelt (đảng DC) nhận được sự tán thưởng từ Hitler, Mussolini;
TT Roosevelt được sự hỗ trợ của giới truyền thông thiên tả.