Những tờ giấy màu trắng thường được gọi chung Fabric Softener dùng bỏ vào máy sấy để cho quần áo thơm tho, mềm mại hơn và không bị dính nhau lại, còn có nhiều công dụng khác nữa. Sau đây là những kinh nghiệm mà nhiều phụ nữ đã chia sẻ để chúng ta biết sử dụng Fabric Softener cho nhiều mục đích khác nhau :
1. Khi bạn đặt một miếng Fabric Softener ở gần nơi có kiến, chúng sẽ chạy đi hết.
2. Tránh được mùi hôi mốc bằng cách kẹp một miếng giấy Fabric Softener vào sách hay cuốn album lâu ngày không mở ra.
3. Vào mùa có nhiều muỗi, khi ra ngoài vườn sinh hoạt, bạn có thể đeo nơi thắt lưng một miếng Fabric Softener thì mấy chàng muỗi sẽ không thèm lại gần.
4. Dùng miếng Fabric Softener để lau những vết xà bông đóng ở cửa kính của bồn tắm.
5. Làm cho đồ ṿật hay áo quần thơm tho và tươi mát bằng cách đặt một tấm Fabric Softener trong mỗi hộc tủ hay treo trong closet.
6. Ðể tránh chỉ bị rối hãy dùng miếng Fabric Softener vuốt sợi chỉ đã xâu vào kim trước khi may.
7. Nếu không muốn vali đựng quần áo bị ẩm, hãy đặt một miếng Fabric Softener dưới đáy trước khi xếp hành lý mang theo.
8. Làm cho không khí trong xe hơi trong lành bằng cách đặt một miếng Fabric Softener dưới ghế ngồi.
9. Muốn rửa sạch những thức ăn dính chặt bên trong xoong nồi thì hãy đặt một miếng Fabric Softener vào trong xoong rồi ngâm nước qua đêm.
Hôm sau mới dùng miếng sponge để chùi rửa. Chất dùng để chống lại sự dính nhau (static) có trong Fabric Softener sẽ làm cho đồ ăn rớt ra khỏi xoong nồi dễ dàng hơn.
10. Ðặt một miếng giấy Fabric Softener dưới đáy của mỗi thùng rác để tránh mùi hôi.
11. Dùng miếng Fabric Softener để lau những nơi có dính lông chó hay mèo, nó sẽ lấy đi những lông rụng đó một cách sạch sẽ.
12. Dưới mỗi giỏ đựng quần áo dơ, bao giờ cũng đặt một miếng Fabric Softener để khỏi có mùa hôi.
13. Làm cho giày không có mùi hôi bằng cách đặt miếng Fabric Softener trong đó qua đêm. Ngày mai, đôi giày sẽ thơm tho để mang đi làm hay đi học.
14. Dùng Fabric Softener để lau mặt kính máy TV sẽ làm cho bụi bặm bớt đóng lớp trên đó.
- Tôi thấy một số món ăn chay trong các tiệm ăn và đôi khi cả trong một vài chùa, có hình thức các con vật và tên gọi giống y nhưcác món mặn, thí dụ như: "cá chiên, cá hấp, thịt quay bánh hỏi, tôm xào chua ngọt.. v..v..". Nếu tâm còn thèm ăn các món mặn thì ăn quách đồ thật còn hơn là giả dối như vậy. Đạo Phật nói trực tâm là đạo tràng cơ mà?
ĐÁP :
- Đây là một câu hỏi có nội dung phức tạp, có thể chia ra làm bốn phần:
(1) Món ăn chay giả thịt cá bán tại các chùa
(2) Món ăn chay giả thịt cá bán tại các tiệm
(3) Ăn chay vì lý do sức khỏe,
và
(4) Người ăn chay chỉ vì có lòng thương súc sinh, không liên quan đến tu tâm theo Phật giáo.
Món ăn giả thịt cá tại các chùa:
Đức Phật dạy rằng "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh", "Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành", chữ chúng sinh ở đây là chỉ tất cả mọi loài động vật có cảm giác, chứ không chỉ riêng loài người.
Cửa chùa là nơi truyền bá đạo Phật, tu sĩ ở chùa là Trưởng tử Như Lai, đem chánh pháp dạy chư Phật tử. Một trong những lời dạy quan trọng, cốt tủy của Đức Phật là phải dùng tâm bình đẳng để đối xử với mọi loài, cả người lẫn vật. Vậy thì chúng ta không nên tạo thói quen xấu là thản nhiên nhìn hình ảnh con cá con tôm nằm cong queo giữa đĩa nước xốt, hoặc cầm muỗng, đũa xắn cắt con cua, con gà, dù chỉ là gà giả.
Ngoài ra chư vị nào đã thọ Bồ Tát Giới thì đừng quên là, khác với giới Thanh Văn, chỉ ràng buộc trong một kiếp người và chỉ phạm khi có hành động, giới Bồ Tát là Tâm Giới, chỉ khởi tâm phạm, chưa hành động, là phạm giới rồi. Vậy thì chư vị Cư Sĩ Bồ Tát Giới chỉ cần nghĩ là : "Ăn con tôm rang muối này ngon quá", dù là tôm giả, tâm của quý vị khởi niệm muốn ăn, là phạm giới rồi.
Món ăn giả thịt cá tại các nhà hàng.
Về các nhà hàng dùng tên giả để gọi các món ăn chay thì chúng ta nên cảm thông rằng họ làm thương mại, họ cần có những phương pháp lôi cuốn khách hàng, là những người đã quen ăn thịt cá nay chuyển sang ăn chay. Nếu món nào cũng chỉ dùng tên vật liệu để gọi thì chỉ còn là: nấm xào rau, đậu om, rau luộc, rau kho..v..v.., rất ít món, khó lôi cuốn khách hàng.
Dầu sao, thực khách khi ăn một món giả, cứ nghĩ đến một con thật đã thoát chết, thì lòng từ bi cũng đang tăng trưởng rồi đó.
Ăn chay vì lý do sức khỏe:
Nhóm người này tránh ăn thịt động vật vì thấy rằng thịt động vật mang đến nhiều chất độc và bệnh tật. Đối với họ, lý do ăn chay hoàn toàn vị kỷ. Nếu một mai khoa học tìm ra rằng ăn vẩy rồng, gân cọp sẽ khỏe mạnh sống lâu, thì họ sẽ lại hỳ hục đi săn rồng, săn cọp.
Tuy nhiên, dù mục tiêu ăn chay của họ vị kỷ, không vì loài vật, nhưng phó sản của nó lại vô tình cứu loài vật bớt chết (có nghĩa là bớt bị sản xuất ra để rồi phải sống tù tội và chết đau đớn), và cũng giúp cho dòng nghiệp lực sinh tử tử sinh của họ bớt nợ máu.
Cho nên, đối với nhóm người này, món ăn giả nếu có làm cho họ cảm thấy hấp dẫn, thích ăn, bớt thèm thịt, thì vẫn có ích lợi cho cả phiá người và vật.
Ăn chay vì lòng thương loài vật:
Nhóm này thuộc đủ mọi thành phần tôn giáo và không tôn giáo. Họ tránh ăn thịt chỉ vì lòng thương xót loài vật, không nỡ đóng góp thêm vào nỗi thống khổ của cuộc sống đầy đau thương, bị hành hạ, chà đạp, đánh đập, sống chen chúc, bị ép cho đẻ nhiều rồi chia rẽ mẹ con, trước khi chết còn bị sống những ngày kinh hoàng trên những chiếc xe chuyên chở khổng lồ, đói khát, dồn ép trong một trạng thái thần kinh rất là khủng khiếp, rồi bị lùa vào hành lang dẫn đến lò sát sinh, để nghe thấy những tiếng thét thất thanh trong giây phút dẫy chết.
Do được thấy tận mắt, hay coi phim, hoặc xem sách báo, tâm những người này đã chuyển, họ cảm thấy ăn thịt là kéo dài những nỗi thống khổ cho loài vật, cũng là những sinh vật có đầy đủ tình cảm, xúc động v..v.. như con người. Nhóm người này ăn chay dễ dàng và còn cổ động mọi người ăn chay để toả rộng lòng nhân từ ra khắp nơi.
Điển hình nhóm này là những hội viên hội PETA (People For The Ethical Treatment of Animals). Đối với họ, khi nhìn tôm thịt cá giả trên bàn, thì họ cũng cảm thông với những người đang từ từ chuyển hướng sang ăn chay, và mừng rằng cứ một con tôm, con cá, con gà "giả" trên bàn ăn là đã cứu một con tôm, con cá, con gà "thật".
Cho nên, nhóm người này rất ủng hộ những tiệm ăn chay và hoan nghênh những con "tôm cá giả, gà giả" trên bàn ăn đã giúp những "sinh vật thật" khỏi chết thảm. Họ quan niệm rằng:
"Nếu như tật xấu ăn thịt cá đã bám rễ sâu xa trong óc con người, thì những món "chay giả mặn" đã cứu những sinh vật thật thoát chết".
Pháp môn Niệm Phật, vốn là bi tâm triệt để của Thích Ca Thế Tôn độ chúng sanh; pháp môn này tối giản tiện, tối ổn định, tối cao siêu. Nếu như pháp môn này không thể tu được, vậy thì không cần nói đến pháp khác. Chỗ tốt của pháp môn này, bậc đại học vấn càng nghiên cứu, càng cảm thấy cao thâm; người không biết một chữ, cũng có thể làm đến được.
Đáng tiếc người không rõ lý, chỉ đem nó cho là việc của ông già bà lão, thật là quá đổi sai lầm. Mời xem hai vị đại thánh Văn Thù, Phổ Hiền, trên hội Hoa Nghiêm, đều ở trong Kinh khuyến tu; Mã Minh, Long Thụ, hai vị Đại Bồ Tát của Ấn Độ, đều có trước luận hoằng dương Tịnh Độ.
Cổ đức của Trung Thổ, từ Đại Sư Huệ Viễn mãi đến Đại Sư Ấn Quang, những lịch đại tổ sư này, phần nhiều là trước tu các pháp môn khác về sau quy về Tịnh Độ. Đại Sư Loan Đàm có nhục thân Bồ Tát nổi tiếng, Đại Sư Trí Giả là người truyền đăng Phật, đều hoằng dương Tịnh Độ.
Thời cận đại, Đại Sư Đế Nhàn của Tông Thiên Thai, Đại Sư Thái Hư của Tông Duy Thức, Đại Sư Hoằng Nhất của Luật Tông, Hư Vân, Viên Anh, hai vị Đại Sư của Thiền Tông, mỗi vị đều có trước tác, cũng là hoằng dương Tịnh Độ.
Các vị cư sĩ nổi tiếng Lô Sơn triều Tần, Bạch Lạc Thiên của triều Đường, Tô Đông Pha, Văn Ngạn Bác của triều Tống, Viên Hoằng Đạo của triều Minh, Bàng Xích Mộc Vương Nhân Sơn .v.v của triều Thanh, đều là những nhà đại học vấn, họ đều là tức tâm Tịnh Độ, đây là người người đều biết đến.
Còn có rất nhiều người, nhất thời không thể nhớ ra hết, cũng không cần phải nêu ra nữa. Hạng như ta tự hỏi: trí huệ, đức năng, so với những thánh hiền trên đây, ai cao ai thấp? Các ngài đều là chuyên tu chuyên hoằng Tịnh Độ, còn ta thì ngược lại xem thường; tri kiến như vậy, có thể nói là chính xác chăng?
“Thuốc trường sinh” vốn dĩ đã nằm ngay bên trong cơ thể chúng ta?
(Dân trí) Hàng ngàn năm qua, con người đã phải đi đến mọi chân trời góc bể để tìm ra phương thuốc trường sinh bất lão. Thế nhưng theo kết quả của một nghiên cứu khoa học có lẽ “phương thuốc” này vốn dĩ đã nằm sẵn trong người chúng ta.
Sau khi tiến hành phân tích mẫu tế bào của những người siêu bách tuế (những người sống trên 110 tuổi), các nhà khoa học Nhật Bản đã khám phá ra một sự thật thú vị: Những cụ lão này có chứa lượng tế bào T CD4 (một loại tế bào miễn dịch) nhiều hơn hẳn so với người bình thường. Phải chăng chính loại tế bào nằm ngay trong cơ thể chúng ta lại là thứ “thuốc trường sinh”, mà con người đã mải công tìm kiếm suốt hàng ngàn năm qua.
Những người sống trên 110 tuổi rất hiếm trên thế giới. Lấy ví dụ ở Nhật Bản, năm 2015, Đất nước mặt trời mọc (vốn nổi tiếng về sống thọ) có khoảng 61.000 người trên 100 tuổi, nhưng chỉ có 146 người trên 110 tuổi.
Nhiều nghiên cứu được thực hiện trước đây đã chỉ ra rằng, nhóm siêu bách tuế có mối liên quan đến khả năng miễn dịch với rất nhiều loại bệnh, điển hình là nhiễm trùng và ung thư, trong suốt cuộc đời. Điều này cũng đồng nghĩa với việc những cụ siêu bách tuế sẽ sở hữu một hệ miễn dịch cực mạnh, và nghiên cứu mới đây của nhóm tác giải này đã phần nào giải thích được nhân tố tạo nên khả năng tuyệt vời này.
Cụ thể, nhóm các nhà nghiên cứu đến từ Trường đại học Y Keio (Nhật Bản) đã tiến hành phân tích các tế bào miễn dịch từ những siêu bách tuế và nhóm đối chứng là những người trẻ hơn. Trong thí nghiệm này, các nhà khoa học đã thu thập tổng cộng 41.208 tế bào từ 7 siêu bách tuế (trung bình 5.887 tế bào/người) và 19.994 tế bào từ 5 người thuộc nhóm đối chứng (trung bình 3.999 tế bào/người) có độ tuổi 5x đến 8x.
Kết quả phân tích chỉ ra rằng, số lượng tế bào B ở nhóm siêu bách tuế thấp hơn nhưng lượng tế bào T lại gần như tương đương nhóm đối chứng. Đặc biệt, số lượng của một phân loại của tế bào T có sự tăng cao ở nhóm siêu bách tuế. Phân tích sâu phân loại này cho thấy nhóm siêu bách tuế sở hữu số lượng cao vượt trội các tế bào T độc (tế bào T chứa chất độc tế bào có khả năng giết chết tế bào khác). Thậm chí, trong một vài trường hợp, số lượng tế bào T độc này chiếm đến 80% tổng lượng các tế bào T, so sánh với mức 10-20% ở nhóm đối chứng.
Thông thường những tế bào T CD8 mới có khả năng gây độc tế bào và tế bào T CD4 thì không có năng này. Tuy nhiên, trong trường hợp của những siêu bách tuế, những tế bào T độc có số lượng cao vượt trội lại là CD4. Để tìm hiểu xem những tế bào T CD4 đặc biệt ở nhóm siêu bách tuế được sản xuất như thế nào, các nhà khoa học tiến hành phân tích mẫu máu của 2 siêu bách tuế và nhận thấy rằng, những tế bào này là kết quả của sự nhân nhanh vô tính (tế bào tiến hành phân bào tạo ra một lượng lớn các tế bào con cháu).
Tiến sĩ Piero Carninci, đại diện nhóm nghiên cứu cho biết: “Thông thường các tế bào T CD4 sẽ tạo ra cytokines (một loại tín hiệu tế bào) và tế bào T CD8 sẽ tạo ra chất độc tế bào. Trong trường hợp của nhóm siêu bách tuế, những tế bào T CD4 đặc biệt, rất hiếm gặp ở người bình thường có thể chính là nguồn gốc của khả năng chống lại nhiều loại bệnh tật, đặc biệt là sự khởi phát của khối u . Phát hiện này đã mở ra một hướng nghiên cứu mới về khả năng chống lại bệnh tật của những người trường thọ.”
Những Niềm Tin Huyễn Hoặc Liên Quan Sức Khỏe - BS. Hồ Ngọc Minh
(Hình minh họa: Getty Images)
Qua nhiều năm tháng, chúng ta thu thập được khá nhiều kiến thức về các “tập tục” hay thói quen được tin là tốt cho sức khoẻ. Một số khiến thức được truyền miệng từ thế hệ trước sang qua thế hệ sau, gọi là kiến thức “dân gian”. Một số khác thoạt nghe rất ư là khoa học, rất ư là logic, nhưng thật ra không có một bằng chứng khoa học nào hỗ trợ hết, hoặc nếu có thì đã lỗi thời. Ở thời đại Internet và mạng xã hội, kiến thức “dân gian” và kiến thức “khoa học” về sức khoẻ, lẫn lộn với nhau, loạn cào cào, thượng vàng hạ cám, khó phân biệt chính tà. Những quan niệm, tập tục, thói quen về sức khoẻ cần phải được định nghĩa lại cho đúng. Một số niềm tin huyễn hoặc nầy đã được tác giả đề cập qua nhiều bài viết trước đây.
1.Giải độc và tẩy rửa cơ thể
Những luận cứ về giải độc và tẩy rửa nội tạng của cơ thể là vô căn cứ. Gần đây rất nhiều người trong giới thượng lưu Mỹ, các “ngôi sao” điện ảnh, gọi là celebrities và nhiều công ty sản xuất thực phẩm đã không ngừng cổ xuý cho ý tưởng dùng một số nước trái cây, sinh tố, trà, hay bột dược thảo để tẩy uế, để tẩy độc ra khỏi cơ thể.
Ý tưởng sạch sẽ và mạnh khoẻ, không có độc tố thoạt nghe rất ư là hấp dẫn và quyến rũ, nhưng, thật ra cơ thể của chúng ta đã thường xuyên giải độc từng phút từng giây nhờ vào năm cơ phận chính, lá gan, hai trái thận, đường ruột, lá phổi, và lớp da, trong đó lá gan và trái thận đóng phần quan trọng nhất. Bạn không cần làm một điều gì khác, có chăng chỉ tạo thêm việc cho cơ thể phải… giải độc vì những thứ lằng nhằng nầy.
Để tiết kiệm tiền, nên uống nước lạnh để giúp cơ thể giải độc là đủ.
2.Uống nước trái cây, nước rau cải
Ở đây muốn nói đến loại “máy sinh tố juicer” chỉ vắt nước trái cây nhưng bỏ chất xơ. Thật ra, chất xơ mới là thành phần chính có lợi cho sức khoẻ, giúp ta no lâu, giảm cholesterol, giảm lượng đường trong máu. Nước juice trái lại chỉ chứa nhiều đường trong đó. Tốt hơn hết là ăn và nhai trái cây, rau cải tươi.
Uống nước lạnh có vắt chanh để giải độc và điều hoà độ pH
Hiểu theo thuyết âm dương, ngũ hành, hay hiểu theo sự cân bằng giữa nồng độ acid và kiềm, các tế bào trong cơ thể bao giờ cũng ở mức độ bão hòa, không nóng không lạnh, không âm không dương, không acid hay kiềm tính quá độ. Một cơ thể khỏe mạnh, là một cơ thể không bị mất cân bằng đi xa quá điểm trung hoà, thí dụ như nồng độ acid pH hơi kiềm một chút chẳng hạn.
Nước chanh không thay đổi độ pH, của cơ thể. Chỉ cần nước lạnh là đủ. Có chút chanh để dễ uống nước, nhưng không nhất thiết phải có để giải độc.
4.Uống thuốc vitamin C để trị cảm cúm
Lý thuyết uống vitamin C để trị cảm cúm được đề xuất bởi khoa học gia từng lãnh giải Nobel, Linus Pauling, nhưng không có một nghiên cứu nào chứng minh điều ấy. Có chăng, uống nhiều vitamin C lại tăng oxidant free radicals chứ không giảm đi so với ăn trái cây. Khi cảm thì nên uống nước nhiều, và ăn cam tươi.
5.Uống nhiều thuốc bổ, antioxidants
Khoảng 40% dân Mỹ, rất trung kiên, uống thuốc bổ mỗi ngày. Tuy nhiên nghiên cứu mới năm 2013, cho thấy không có một bằng chứng nào chứng tỏ uống thuốc bổ, thậm chí đa sinh tố multivitamin, có thể giúp chống bệnh tật như đau tim hay ung thư, hay làm cho ta khỏe hơn cả.
Thuốc antioxidants cũng thế. Mặc dù một số thức ăn như trái cây, có chứa antioxidants giúp đỡ cho cơ thể, nhưng uống thuốc thì, ngược lại, có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư, vì chính thuốc làm tăng oxidants do phản ứng dây chuyền.
6.Uống thuốc bổ biotin để bớt rụng tóc và tốt móng tay
Đúng, là những người thiếu chất biotin thì sẽ rụng tóc và móng tay dễ bị gãy. Nhưng, tình trạng thiếu biotin chỉ xảy ra khi chúng ta bị đói dài hạn, lâu ngày. Ở Mỹ, không dễ gì bị đói như ở những nơi bị chiến tranh như Phi Châu hay Syria. Uống thuốc bổ chỉ mắc công cho cơ thể phải, giải độc mà thôi.
7.Sợ ăn bột ngọt
Rất nhiều websites của Mỹ, đả phá, cho rằng bột ngọt là chất độc. Thật ra không có một bằng chứng ngộ độc bột ngọt nào xảy ra cả. Theo những nghiên cứu mới, một số người than phiền bị bị nhức đầu, nôn mửa, tức ngực, hồi hộp vì ăn bột ngọt, trên thực tế họ chỉ ăn đường mà không biết. Dĩ nhiên, cũng không nên nấu nướng quá nhiều bột ngọt, không tốt, nhưng một tí để thêm hương vị cũng chẳng sao.
Hiện nay ở các hiệu thuốc Tây đều có bán các loại thuốc, nước để súc rửa âm đạo. Thật ra, môi trường âm đạo luôn luôn được tự động giữ sạch. Càng súc với rửa, càng làm xáo trộn môi trường ấy, dễ đưa đến bệnh nhiễm trùng.
9.Súc rửa ruột già
Có nhiều người tin rằng phải bơm nước, có khi “tưới vòi” cả 15 gallons, để tẩy rửa ruột già. Thật ra, đường ruột của chúng ta làm việc rất đắc lực để tẩy uế hằng ngày. Xịt nước với áp suất cao vào ruột già, chỉ làm cho ta dễ bị lủng ruột, hại thận mà thôi.
10.Xem nhiều hình ảnh trên mạng xã hội, Instagram về xuống cân
Không thiếu gì những hình ảnh được “ chia sẻ” trên mạng lưới xã hội khoe thân thể gọn, đẹp, eo thon này nọ. Mạng xã hội có thể giúp ta động viên tinh thần trong thời gian ngắn, nhưng sự đua tranh cuối cùng sẽ làm tổn thương về tâm thần, mất tự tin, gây bệnh trầm cảm, vì nghĩ là mình không thể đạt được một thân hình đẹp như người trên mạng.
Người Mỹ có câu “If it ain’t broke, don’t fix it.” và “Keep it simple” có nghĩa là, nếu không hư thì đừng có sửa, và hãy giữ mọi thứ đơn giản. Càng đơn giản càng tốt khi nói đến sức khoẻ.
Vài ngày sau khi nhà chức trách Anh phát hiện 39 thi thể trong xe thùng đông lạnh tại Essex phía đông London hôm 23 tháng 10, được sự cho phép của Bộ Ngoại Giao VN, Thông Tấn Xã BBC và Reuters đều có gửi phóng viên tới xã Đô Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, nơi có nhiều gia đình đã đề nghị lên chính phủ VN liên lạc sang Anh để tìm người nhà mất tích.
Suy nghĩ đầu tiên của người ngoại quốc là người VN vì nghèo đói cực khổ nên họ phải liều mạng để tha phương cầu thực, nhưng hỡi ôi, đến ngay quê hương của bác, Làng Sen Nghệ An thì các phóng viên người Anh này đều bất ngờ đến... ngã ngựa. (1)
Nhà báo Jonathan Head của BBC đã chứng kiến toàn là "nhà lầu và xe hơi" nhan nhản tại huyện Yên Thành - Nghệ An.
Một nhà báo khác, nhà báo James Pearson từ hãng Reuters của Anh trong bài báo có tựa đề “In Vietnam's Billionaire Village, migrant cash can buy a palace” (Tại Làng Tỉ Phú ở VN, tiền người nhà gửi về mua được cả dinh thự), đã dẫn lời của Chủ Tịch UBND xã Đô Thành, Yên Thành, Nghệ An nói 70-80% biệt thự tại đây đều được xây từ tiền gửi từ nước ngoài về!
Tội cho mấy ông Tây mơ màng không biết tí gì về chính sách Xuất Khẩu Lao Động (XKLĐ) của Đảng và Nhà Nước từ 10 năm qua. Đây được xem như là chính sách mang tính chiến lược xóa đói giảm nghèo, đồng thời đem lại nguồn ngoại tệ khủng mà các quan chức cộng sản thèm thuồng từ bấy lâu.
Tìm đọc báo đảng từ hai năm trở lại như báo Dân Trí hồi 2018 đã mô tả hết sức hồ hởi về xã Đô Thành, Nghệ An như sau: "Xã Đô Thành Nghệ An từng thuộc một trong những xã nghèo nhất huyện, thế mà nay xã đã có đến 1.000 tỷ phú, bậc nhất xứ Nghệ, biệt thự hàng ngàn, ô tô nhiều vô ( kể. Biệt thự, xe con bóng loáng được người dân ở đây xem như là một nhu cầu bình thường trong cuộc sống thường ngày. Nguồn tài chính dồi dào mà xã Đô Thành mang về chính là nhờ người dân Đô Thành kéo nhau đi Tây lập nghiệp"! (2)
Trang web Du Lịch Nghệ An của tỉnh, thậm chí còn có bài viết "Top 5 xã giàu nhất Nghệ An" với lời quảng cáo "Nghệ An được biết đến trước là quê hương của Bác Hồ kính yêu. Nay Nghệ An còn là nơi có các làng xã được xếp hạng giàu nhất nước ta nữa. Mỗi nhà bình quân có 2-3 người, thậm chí có những gia đình có tới 9-10 người đi XKLĐ. Bình quân mỗi lao động gửi về cho gia đình khoảng 700 USD/tháng."
Theo Wiki, số liệu công nhân Việt Nam ra nước ngoài làm việc tổng kết như sau:
Đây chỉ là những con số chính thức XKLĐ, còn số những người đi không chính thức theo các tổ chức vượt biên như vụ 39 người chết trong xe thùng bên Anh thì phải lên đến hàng chục ngàn người mỗi năm. Ước tính sơ bộ vừa đi chính thức vừa đi không chính thức từ 10 năm qua có thể lên đến gần 1 triệu người. Mỗi người gửi về $700 USD/1tháng thì mỗi năm Đảng ta có thể ngồi không thu về $8 tỷ USD là thường.
Người XKLĐ gửi tiền về càng nhiều Đảng ta càng mừng. Gia đình bên này thì nhận ngay tiền tươi, có điều là thứ tiền Hồ do Trung Cộng in giả thật lẫn lộn, in ba tờ tiền có cùng một số seri là chuyện dễ dàng, nên nguy cơ lạm phát đến lúc nào đó cũng vỡ ra hết đường cứu chữa.
Còn tiền Đô, tiền Euro thì các quan chức cộng sản ăn chia với các đường giây rửa tiền ghìm lại bên ấy, cho vào các nhân hàng ngoại quốc đứng tên con cái quan chức để sau này hạ cánh an toàn. Nói có sách mách có chứng, tháng 9 vừa rồi, Tổ Chức Liêm Chính Tài Chính Toàn Cầu (Global Financial Integrity) có trụ sở ở Washington, Mỹ, báo cáo rằng: VN là quốc gia hàng đầu thế giới về hoạt động rửa tiền trong giai đoạn 2006-2015, vượt qua cả đàn anh Trung Cộng!
Còn một góc khuất mà báo đảng ít khi dám nói đến ở các ngôi làng tỷ phú Nghệ An, sự giàu có đó có khi được đánh đổi bằng nước mắt và đôi khi là cả sinh mạng! Việc xin visa đi chính thức ra nước ngoài làm việc ngày càng trở nên khó khăn, tốn kém, nhiều người dân Nghệ An quyết định sang các nước láng giềng tìm cơ hội làm giàu, đó là đi sang Lào buôn ma túy. Một công việc chỉ cần một vốn nhưng lời thành trăm, có điều nguy cơ chung thân hoặc tử hình luôn rình rập ngày đêm! Chỉ cần bấm vài từ khóa “Vận chuyển ma túy từ Lào về VN” thì trong vòng 0.64 giây sẽ hiển thị lên 26 triệu kết quả liền!
Tóm lại, sau vụ cảnh sát Anh khám phá ra 39 tử thi trong xe thùng mà đa số những nạn nhân này có cùng quê hương Nghệ An Làng Sen-Giếng Cốc nổi tiếng vang lừng của bác, bỗng dưng người viết cảm xúc dâng trào đến độ phải thốt lên “Tự hào Nghệ An quê bác, quá bác ơi.”
Xưa bác xuống tàu đi Tây làm bồi, làm cu ly nay con cháu bác cứ theo dấu chân bác mà đi ra nước ngoài làm ô sin, trồng cỏ, đĩ điếm... cứ nghề nào làm ra tiền thì bán thân, bán máu mà làm. Đi chính thức không được thì đi lậu, đi chui bất kể mọi nguy hiểm tính mạng trên đường, miễn sao sang đó làm có tiền gửi về cho gia đình thoát cơn nghèo khó, riêng đảng lại vô cùng tự hào về đường lối lãnh đạo đúng đắn, đưa toàn dân mau tiến lên thiên đường (mù) XHCN!
Vì bác đi Tây đem chủ nghĩa cộng sản về mà dân mình được nếm đủ kiểu chết khủng khiếp, chưa có người dân nước nào phải chịu nhiều đau đớn như vậy: Chết bằng búa đập đầu, chết vì bị chôn sống hồi Cải Cách Ruộng Đất hay Mậu Thân, chết trên biển khi tìm đường vượt biển sau 75, chết bị tra tấn bầm dập trong đồn côn an, chết bệnh tật ung thư vì bị đảng đầu độc dân như hiện nay, chết cóng trong thùng xe -25 độ... Bác chết (mẹ) từ bao đời kiếp nhưng sao hậu hoạn cứ dồn dập đổ lên đầu dân mãi là vì sao vậy bác?
Ăn Để Chết
“Ăn để chết” là tựa đề của một bài báo trong nước về điều thường được gọi là “văn hóa ẩm thực” tại Việt Nam thời xã hội chủ nghĩa.
Ngoài tựa đề ra, bài viết chẳng có gì mới mẻ. Chuyện ăn uống của người Việt Nam trong nước hiện nay là một đề tài không bao giờ cạn.
Thoạt đọc qua tựa đề, tôi không thể không liên tưởng đến bữa ăn cuối cùng của các tử tội trước khi bị đem đi hành quyết. Mà suy cho cùng, dường như cái lối ăn uống của nhiều người Việt Nam trong nước hiện nay chẳng khác bao nhiêu với bữa ăn cuối cùng của các tử tội.
Bài viết nói đến trường hợp của một bệnh nhân tại quận Đống Đa, Hà nội: “Bệnh nhân 54 tuổi này đã rời xa các bàn nhậu từ khoảng gần một năm nay vì bệnh tiểu đường. Trước đây, trong các cuộc nhậu của bạn bè, gần như ông không bao giờ vắng mặt. Bác sĩ trưởng khoa Tim mạch tại Bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội cho biết ông đã gặp nhiều người (nói không ngoa) chết vì ăn, chết vì uống.
Ông bác sĩ này kể lại: “Một bệnh nhân mới 45 tuổi, khi còn nghèo khó thì làm việc cật lực, chí thú kiếm tiền và tiết kiệm. Đến khi có nhiều tiền, anh quay ra ăn uống nhậu nhẹt vô biên, ngày nào cũng nhậu, có ngày nhậu mấy cuộc. Ở tuổi 45, anh chết vì xơ gan sau một thời gian dài phải “đeo ba lô ngược” (bụng quá phệ).
Cũng theo bài viết, có nhiều bệnh nhân ăn uống vô độ, chỉ cao khoảng 1m63, nhưng nặng đến gần một tạ. Gia đình bệnh nhân này lại có tiền sử mấy đời cao huyết áp. Khi được bác sĩ khuyên cần phải giảm cân bằng cách giảm ăn, tăng vận động, bệnh nhân từ chối hợp tác vì nhịn ăn là chuyện không thể.
Bác sĩ trưởng khoa Tim mạch, bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội nhận định: “Nếu cứ như vậy thì anh ta không phải ăn để sống, mà là ăn để chết. Tôi thấy xã hội chúng ta giờ trọng chuyện ăn uống quá. Làm việc gì cũng phải có tiệc chiêu đãi toàn món ngon, bổ béo”.
Bác sĩ này cũng cho biết: đa số những người “ăn để chết” đều là những người giàu có và các bệnh phổ biến hơn cả vẫn là tim mạch, huyết áp, gan, thận, tiểu đường.
Dĩ nhiên, nếu có những người giàu “ăn để chết” thì cũng không thiếu người nghèo bị buộc phải ăn thực phẩm rẻ tiền, không hợp vệ sinh, không an toàn do đó cũng bị mang bản án “ăn để chết”. Tựu trung, người giàu chết vì béo phì, còn người nghèo chết vì thiếu vệ sinh.
Phải nói chẳng có nơi nào trên thế giới, người ta ăn nhậu tưng bừng như ở Việt Nam. Sáng sớm, mới mở mắt đã thấy có người gánh hàng đi ngang trước nhà. Tối đến, khuya lơ khuya lắc, không chỉ các nhà hàng sang trọng, mà các hàng quán rẻ tiền cửa vẫn mở. Tiệc vui, người ta ăn nhậu đã đành, mà ma chay, người ta cũng nâng ly “dzô” tới bến.
Không biết có phải vì điếc mà người ta không sợ súng chăng? Người Pháp thường nói “bụng đói không có tai”. Đây là kinh nghiệm của cá nhân tôi.
Sau năm 1975, cái bụng đói của tôi hầu như không còn tai nữa. Cà phê được pha chế cỡ nào, tôi cũng nốc. Thuốc lá có tẩm thuốc độc cỡ nào tôi cũng rít. Rượu thì khỏi nói. Biết người ta bỏ thêm thuốc rầy Mitox vào để tăng nồng độ rượu, tôi cũng chẳng chê. Còn thịt mỡ có thèm “nhỏ rãi” cũng chẳng có mà ăn, hơi đâu mà quan tâm đến “Cholesterol”, tức mỡ trong máu. Cũng nhờ “được” sống trong thiên đàng xã hội chủ nghĩa mà hầu như thịt gì tôi cũng nếm. Đúng là hễ con gì cựa quậy, nhúc nhích là xơi được ráo!
Người Việt Nam nào đã từng sống dưới chế độ cộng sản có lẽ cũng đều đã trải qua những cảnh phải tranh đấu với thiên nhiên để sống còn chẳng khác gì Bear Gryllss trong chương trình truyền hình “Man vs Wild” (người chống chọi với thiên nhiên).
Ngày nay, sau gần nửa đời người sống ở xứ người, ý thức hơn về những đòi hỏi của phép vệ sinh, nhất là vệ sinh trong ẩm thực, học được đôi chút về nếp sống văn minh, tôi không thể hiểu được tại sao mình đã có thời ăn uống bừa bãi như thế trong 5 năm sống dưới chế độ cộng sản.
Tôi hiểu được phần nào phản ứng, cách suy nghĩ và ngay cả phán đoán gay gắt của ông Joel Brinkley, giáo sư chuyên ngành báo chí thuộc trường đại học Stanford, Hoa kỳ, về cách ăn uống hiện nay của người Việt Nam trong nước. Theo ông giáo sư đã từng đoạt giải Pulitzer này, sở dĩ người Việt Nam “hung hăng, hiếu chiến” là vì ăn nhiều thịt.
Giáo sư Brinkley đã đưa ra nhận xét trên đây sau một chuyến du lịch 10 ngày xuyên qua nhiều nơi tại Việt Nam. Viết trên báo The Chicago Tribune, ông Brinkley cho rằng du khách đến Việt Nam hầu như chẳng còn thấy bóng dáng thú nuôi hay động vật hoang dã nữa bởi vì đa số đều đã bị người Việt Nam hiện nay săn tìm để xơi tái.
Ông viện dẫn những cuộc chiến của Việt Nam Cộng Sản với Trung Quốc và Campuchia để kết luận rằng vì thường xuyên ăn thịt cho nên người Việt Nam hung hăng hơn nhiều so với người dân các nước lân bang.
Dĩ nhiên, bài viết của ông giáo sư của trường đại học danh tiếng Stanford trên đây đã tạo ra một làn sóng phản đối mạnh mẽ từ người Việt khắp nơi trên thế giới, khiến báo The Chicago Tribune phải chính thức lên tiếng xin lỗi.
Không phải quơ đũa cá nắm, nhưng bất cứ người Việt hải ngoại nào về thăm Việt Nam một lần cũng đều nhận thấy người Việt Nam sống dưới chế độ cộng sản hiện nay “khác” với người Việt Nam trước năm 1975.
Khác nhiều thứ lắm. Khác nhất là cách ăn uống. Như ông bác sĩ ở Bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội trên đây đã nói, nhiều người Việt Nam trong nước hiện nay “ăn để chết”. Nghe như một nghịch lý. Nhưng thực tế là như vậy. Không chết dần chết mòn trong thân xác, thì cũng chết từ từ trong nhân cách.
Người Tây Phương có lý để nói rằng “we are what we eat” (tạm dịch: ăn cái gì thì người như vậy). Tính khí của người ăn chay trường chắc chắn khác với kẻ nhậu nhẹt quanh năm ngày tháng. Người ăn uống điều độ hẳn cũng có tư cách khác với kẻ ăn uống bừa bãi, vô độ.
Người Việt Nam chúng ta thường nói: “miếng ăn là miếng tồi tàn”. Kỳ thực, tự nó, miếng ăn là điều tốt. Miếng ăn nuôi thân xác, tạo sự gặp gỡ, giúp thể hiện tình liên đới và chia sẻ. Có tồi tàn chăng là trong tư cách của con người mà thôi. Chỉ biết tới cái bụng của mình, chỉ biết ăn cho sướng cái lỗ miệng mà chẳng màng đến sức khỏe, bệnh tật và những hệ lụy đối với người thân và xã hội, ăn như thế đúng là ăn để chết và chết tồi tàn.
Trong một bài viết về cái ăn, tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc cho rằng dân tộc Việt Nam bị “ám ảnh” bởi cái ăn. Chuyện gì cũng quy về cái ăn. Từ nào cũng có thể được ghép với chữ ăn. Thật ra, ông bà ta không hẳn theo triết lý hiện sinh, nhưng đã có lý để xem cái ăn như chuyện quan trọng nhất trong đời người, cho nên mới xếp việc “học ăn” lên đầu của mọi thứ học. Cứ như “học ăn” được thì chuyện gì cũng học được hết!
Chúa Nhật vừa qua, trong giờ Thánh lễ, tôi đã bị “thu hút” bởi cái miệng của một bé gái khoảng một tuổi, ngồi với cha mẹ ở băng ghế phía trước. Trong các nhà thờ Úc, người ta thường thiết kế một chỗ đặc biệt ở phía cuối dành riêng cho thơ nhi đi cùng cha mẹ. Ngồi trong một “lồng kiếng” như thế, trẻ con tha hồ la hét. Nhưng cũng có nhiều bậc cha mẹ phá lệ, mang trẻ thơ đến ngồi hòa đồng trong đám đông. Gặp lúc muốn nghe bài giảng của vị linh mục thì trẻ thơ, dù có dễ thương cách mấy, cũng làm cho mình khó chịu.
Nhưng khi vị linh mục giảng mà mình có chăm chú cách mấy cũng chẳng hiểu gì thì trẻ thơ, dù có quậy phá cỡ nào, cũng vẫn là “thiên thần” cứu nguy khỏi cơn…ngủ gục. Vị thiên thần ở trước mặt tôi quả đã mang lại cho tôi nhiều giây phút “thoải mái” trong giờ lễ. Cô bé có cái miệng thật xinh. Có lúc cô nói bi bô. Có lúc cô quay xuống cười với vợ chồng tôi. Nhưng động tác chính của cô vẫn là cầm bất cứ món gì cũng cho vào miệng, không riêng miệng mình mà còn nhét vô miệng cha mẹ nữa một cách thật dễ thương.
Tan lễ, khi bàn đến cái miệng của cô bé thiên thần trong nhà thờ, nhà tôi nhắc lại hai điểm nổi bật trong tư tưởng của cha đẻ phân tâm học Sigmund Freud (1856-1939). Theo ông, đời người có hai giai đoạn: giai đoạn tuổi thơ tập trung vào cái miệng; cái gì cũng đưa vào miệng. Giai đoạn trưởng thành lại xoay quanh tính dục; bản năng tính dục chi phối mọi sinh hoạt của con người; động lực đàng sau mọi hoạt động của con người luôn là tính dục.
Vai trò của tính dục trong cuộc sống con người, theo quan niệm của Freud, có thể còn trong vòng tranh cãi. Nhưng về vai trò của cái miệng ở tuổi thơ và ngay cả trong tuổi trưởng thành, thì quả thật tôi thấy khó chối cãi được. Trong thân thể con người, miệng không phải là cơ phận quan trọng nhất sao? Và trong các chức năng của miệng, ăn không phải là sinh hoạt chính sao?
Đâu phải chỉ có người Việt Nam mới xem “chuyện ăn” là điều quan trọng nhất trong cuộc sống con người. Tôi nghĩ đến câu chuyện ông bà nguyên tổ loài người Adam và Eva bị cám dỗ trong vườn địa đàng. Cơn cám dỗ đầu tiên của hai ông bà này, dù có giải thích như thế nào đi nữa, vẫn xoay quanh chuyện ăn. Điều này cho thấy cám dỗ lớn nhất trong đời người có lẽ vẫn là chuyện ăn uống.
Cũng trong Kinh Thánh, tôi đọc được rằng cơn cám dỗ đầu tiên mà Chúa Giêsu phải trải qua sau 40 đêm ngày chay tịnh cũng chính là về cái ăn. Ma quỉ dụ dỗ Ngài: hãy biến những hòn đá trước mặt thành bánh mà ăn!
Tôi không biết Chúa Giêsu có phải là một người thích ăn uống nhậu nhẹt không. Nhưng rất nhiều những sinh hoạt chính của Ngài được ghi lại trong Kinh Thánh lại liên quan đến chuyện ăn uống. Hẳn Ngài cũng đã nhiều lần ngồi vào bàn nhậu để chén thù chén tạc với phường thu thuế cho nên những kẻ chống đối Ngài rêu rao rằng Ngài là một tên “bợm nhậu”. Chắc chắn Chúa Giêsu phải xem chuyện ăn uống là điều quan trọng trong cuộc sống con người cho nên trong rất nhiều bài giảng, Ngài thường xử dụng hình ảnh của bữa tiệc hay tiệc cưới. Rõ ràng nhất là trước khi chết, nghi thức mà Ngài muốn trối lại cho các môn đệ để cử hành và tưởng nhớ đến Ngài cũng chính là một bữa tiệc (thường gọi là Tiệc Ly).
Ngày nay, mỗi lần gặp nhau trong các thánh lễ Chúa Nhật, các tín hữu Kitô cũng lập lại nghi thức “ăn uống” ấy. Đỉnh điểm của đời sống tôn giáo của họ là một bữa ăn. Họ lập lại bữa ăn ấy không chỉ để tưởng niệm Đấng Cứu Độ, mà còn để tự nhắc nhở rằng cuộc sống tự nó phải là một bàn ăn trong đó mọi người đều được mời gọi ngồi bên nhau và chia sẻ cho nhau. Cuộc sống vẫn mãi mãi là một trường dạy “học ăn”.
Trong lúc trà dư tửu hậu, khi chia sẻ với bạn bè thân quen, tôi thường nói rằng, với tôi, trong các thứ học thì học làm người là điều khó nhất. Người, theo một định nghĩa mà tôi vẫn cho là xác đáng nhất, là “một con vật có lý trí”. Xét dưới nhiều phương diện, con người chẳng khác con thú bao nhiêu.
Có khác chăng là bởi con người có lý trí và luôn phải hành động theo lý trí. Vứt cái lý trí đi thì con người sẽ hành động chẳng khác gì thú vật. Cụ thể là chuyện ăn uống. Hãy thử tưởng tượng: khi ta tạm nghỉ chơi với lý trí để được tự do ăn uống như súc vật, chuyện gì xảy ra nếu không phải là: con người chỉ còn biết “ăn để chết”.
Có lẽ vì học làm người là chuyện khó nhất trong cuộc sống và trong học làm người thì ăn lại là chuyện phải học suốt cả một đời, cho nên trong tôn giáo nào cũng có chuyện ăn chay. “Ăn chay” chính là “học ăn”. Ăn như thế nào để “ăn không phải để chết” mà là để sống và sống sung mãn trong nhân cách vậy.
“Không Ai Trong Chúng Ta Có Thể Tránh Được Cái Chết..."
“Không ai trong chúng ta có thể tránh được cái chết...””:
Nam diễn viên từng đoạt giải Oscar "Richard Gere" luôn là tâm điểm chú ý của người hâm mộ. Ông là thần tượng ở mọi nơi trên thế giới và về ông không cần tới bất kỳ một quảng cáo nào. Gần đây, một đoạn nhật ký của ông trong Facebook đã gây ra một cơn bão về cảm xúc. Hàng trăm ngàn người đã chia xẻ bài viết của ông, rất nhiều người trong số đó không phải là các fan hâm mộ của Richard. Tòa soạn của chúng tôi: Strength-Mind xin cung cấp cho các bạn một bản dịch của đoạn hồi ký tuyệt vời này:
1.- "Mẹ của một trong những người bạn của tôi luôn luôn duy trì một lối sống lành mạnh. Bà chỉ ăn những thức ăn sạch và bổ dưỡng, không uống rượu và không hút thuốc lá, thường xuyên tập thể dục và rất sợ ra nắng mặt trời mà không có kem bảo vệ. Bà thường xuyên tham khảo ý kiến chuyên gia dinh dưỡng và vật lý trị liệu, sinh hoạt đúng theo quy định của họ. Có thể nói rằng bà luôn chăm chút cho sức khỏe của mình.
Bà bây giờ 76 tuổi, và bà được chẩn đoán là bị ung thư da và ung thư tủy xương. Hơn nữa, bà còn mắc thêm chứng loãng xương ở giai đoạn nghiêm trọng..."
2.- "Cha của bạn tôi không hề từ chối bất kỳ một điều gì đối với bản thân. Ông chưa bao giờ chơi thể thao và rất thích ăn ngon, ông thậm chí còn phết bơ trực tiếp lên những miếng thịt hun khói. Ông tự cho phép mình uống rượu và tắm nắng trên bãi biển cho đến khí da bắt đầu bong ra như bánh nướng.
Có thể nói rằng trong cả cuộc đời của mình, ông ấy không hề đếm xỉa đến những lời khuyên của các bác sĩ và sống tự do theo sở thích của mình. Hiện nay ông đang ở tuổi 81, và bác sĩ nói rằng nhiều người trẻ còn phải ghen tỵ với sức khỏe của ông".
Dù có cố gắng đến đâu đi chăng nữa thì bạn cũng không thể thoát khỏi chất độc bên trong mình. Sớm hay muộn nó sẽ quật ngã bạn. Nói như người mẹ bị bệnh nan y của bạn tôi: “Nếu như tôi biết trước cuộc sống của tôi sẽ kết thúc thế này, tôi sẽ không bao giờ nghe các bác sĩ, và sẽ sống hạnh phúc.”
Đó là cuộc sống, và không ai trong số chúng ta sẽ thoát khỏi định mệnh. Vì vậy, không nên coi bản thân mình như một cái gì đó thứ cấp. Trong khi có thời gian, hãy sống trong niềm vui của mình. Bởi vì ngày mai có thể sẽ quá muộn.
Vì vậy, hãy làm những gì bạn muốn. Hãy ăn ngon, hãy tắm nắng dưới ánh mặt trời, hãy lười biếng nếu muốn. Hãy là ngớ ngẩn và kỳ lạ, nhưng là chính mình. Bởi vì, không ai trong chúng ta có đủ thời gian cho tất cả mọi thứ còn lại!"
Trong những lời đơn giản này ẩn chứa ý nghĩa sâu sắc. Nếu những dòng này làm bạn có một cái nhìn mới về cuộc sống của bạn, hãy chia sẻ chúng với bạn bè của mình.
P/s : Cứ hồn nhiên như cô tiên và sống theo những gì trái tim bạn, cơ thể bạn mách bảo. Làm việc thiện tâm giúp người, giúp đời sống vui vẻ . Hãy luôn nhớ rằng khi chết chả ai mang theo được cái gì cả...
Mỗi năm, khi lá Thu đã không còn rụng nữa, khí lạnh tràn về cùng với những đợt mưa nhỏ, lòng người Việt lưu vong ở hải ngoại lại bùi ngùi, xúc động, muốn dâng lên Trời Đất lời Tạ Ơn chân thành.
Điều đầu tiên mà chắc chắn chúng ta sẽ cùng nhau nhớ tới để dâng lên lời Tạ Ơn là Đất Mẹ Việt Nam, nơi sinh ra chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta qua nhiều giai đoạn huy hoàng, bình yên, hay loạn lạc, để chúng ta trưởng thành với những biến chuyển ấy, từ đó mà lòng yêu Tổ Quốc, yêu Dân Tộc mỗi ngày mỗi dâng cao trong máu, trong tim chúng ta không rời.
Chúng ta cũng tạ ơn Các Đấng Anh Hùng, Các Vị Vua Dũng Cảm đã tạo ra giải giang sơn gấm vóc này. Sau đó là Tạ Ơn ngàn triệu chiến sĩ, quân dân, đồng bào đã chiến đấu không ngừng để bảo vệ đất tổ, từ những ngày mà quần đen, áo vải, chân đất, với tầm vông vạc nhọn cho đến ngày mà quân phục trang nghiêm, với quân cụ tối tân, đã xông pha ngoài trận tuyến, cương quyết không để một tấc đất lọt vào tay giặc, thi hành lời Vua Lê Thánh Tông đã phán: “Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất của tổ tiên làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di!"
Tạ ơn các chiến sĩ, đồng bào, quân dân các cấp, địa phương quân, hay nghĩa quân, những chiến sĩ vô danh đã hiên ngang trước mũi súng quân thù, chấp nhận hy sinh oanh liệt, chỉ để bảo vệ một góc phố, một con đường. Tạ ơn các Thương Binh, những người đã để lại trận địa một phần thân thể, và tuy đời sống hiện tại vẫn là tù ngục, là bỏ quên, nhưng vẫn sống hiên ngang như thuở nào. Tạ ơn những người mẹ lính, vợ lính đã cùng chia sẻ với con hay chồng, không một lời trách móc, than thở, chỉ âm thầm chịu đựng những đau thương, khốn khó hay tang tóc.
Tạ ơn những người phụ nữ, đi lính không lương, nhưng cũng lao vào chiến trận, tiếp đạn cho chồng, và đã ngã gục trên chiến hào, với những dòng máu đỏ Lạc Hồng tươm trên áo trắng. Tạ ơn những người thiếu phụ, dấn thân vào chợ trời, bán dần đồ đạc trong nhà, thậm chí bán cả nhà để mua lon gạo xấy, gói bột, thuốc men, rồi lặn lội đường xa, núi thẳm, bất chấp sinh mệnh mong manh, để tiếp tế thực phẩm, thuốc men cho người chồng sống sót, chờ ngày trở về, cho dù thân tàn ma dại. Tạ ơn những người vợ kiên trinh, cương quyết từ chối những mời mọc, cám dỗ của quỷ đỏ, thà chết đói theo chồng, chứ không chịu làm vợ quân cướp nước.
Tạ ơn các Chiến Sĩ Hải Quân Việt Nam Anh Hùng đã hy sinh khi bảo vệ Hoàng Sa, một phần máu thịt của Tổ Quốc, đồng thời cũng ghi ơn tất cả những chiến binh đã bị đạn quân xâm lược hạ gục khi làm nhiệm vụ giữ gìn đảo xa. Tạ ơn dân Việt, đã không ngừng hát vang những lời “Hoàng Sa – Trường Sa Là Của Việt Nam” trên các góc phố, con đường đầy bọn quỷ đỏ không còn tính người, với tay đấm, chân đá, với dùi cui và súng đạn.
Tạ ơn những người Dân Oan, những người tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ, các thanh niên, thiếu nữ, Luật Sư, Linh Mục, Mục Sư, các Hòa Thượng, Thượng Tọa Phật Giáo hay các Tu sĩ Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài vẫn không ngừng kêu gọi Tự Do Tôn Giáo cho Việt Nam, bất chấp thủ đoạn tàn độc của bọn quỷ đỏ, bất chấp bị bắt cóc, bị tù đầy, bị những bản án khắc nghiệt hơn thời Thực Dân, Phong Kiến. Quý vị, dù tay không tấc sắt, dù không phải là lính chiến nhưng tính anh hùng không kém những tráng sĩ Việt Nam. Quý vị đã làm sống lại tinh thần Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Triệu Quang Phục, Lý Bôn, Lý Bí, Đinh Tiên Hoàng, Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Quang Trung. Một số các thanh niên, thiếu nữ trẻ đã làm cho dân Việt thấy lại hình ảnh Trần Quốc Toản hiên ngang, tay kiếm vung lên chặt đầu quân cướp nước.
Đặc biệt, năm nay, tạ ơn những Anh Linh Thiên Thần Mũ đỏ, đã lặng lẽ hy sinh từ nhiều thập niên, xương cốt bị di chuyển nhiều nơi, mãi cho đến ngày hôm nay, mới được nhận thức và an nghỉ tại quê người, trong nỗi cảm phục lẫn đau đớn, xót xa của chiến hữu và đồng bào hải ngoại.
Sau hết nhưng không phải chót hết, là lời Tạ Ơn Nước Mỹ đã mở rộng vòng tay, đón tiếp trên cả triệu người Việt Nam bị buộc phải rời bỏ quê hương. Tạ Ơn Nước Mỹ đã tạo ra chương trình Di Tản Nhân Đạo để đón những người được thân nhân bảo lãnh, trốn chế độ bạo tàn Cộng Sản. Và chúng ta, những cựu quân nhân, cựu tù Cộng Sản, không thể không dâng lời Tạ Ơn Nước Mỹ, với chương trình H.O. đã giúp chúng ta rời khỏi nhà tù lớn của Cộng Sản, để tìm lại cuộc sống mới nơi xứ người, đem lại tương lai cho thế hệ hậu duệ, giúp cho thế hệ thứ hai và những thế hệ tiếp nối rạng danh xứ người.
Từ đó, tên tuổi Việt Nam không những vang dội trên nước Mỹ mà còn trên toàn thế giới. Xin ngả mũ, nghiêng mình kính chào Tượng Nữ Thần Tự Do, biểu tượng của tính nhân đạo của người Mỹ, đã cho chúng tôi, những người còn sống sót qua các trại tù khổ sai của Cộng Sản, một tương lai không ngờ tới, khi mà thân thể, tinh thần của chúng tôi, tưởng đã suy sụp, cạn kiệt qua năm tháng tù đầy, một hạnh phúc nhìn con cháu chúng tôi phát triển tươi đẹp trên xứ sở này.
Một lần nữa, Tạ Ơn Nước Mỹ. Thanks to America. We owe you our lives.
Ba tôi mất sớm, để lại cho mẹ một đàn con côi cút. Được bốn năm, thì đất nước xảy ra cơn chính biến. Những tháng ngày đen tối, mẹ tôi vất vả, xoay sở buôn bán bấp bênh, trong một xã hội không an bình. Anh Tư tôi bàn với mẹ tìm đường vượt biên.
Anh Tư và em út, ra đi vào đầu thập niên 1980. Được cô tôi nhanh chân làm “người di tản buồn” năm 1975, bảo trợ hai anh em từ trại tỵ nạn Thái Lan vào Pennsylvania. Mười năm sau anh Tư bảo lãnh mẹ tôi qua đoàn tụ, được hai năm thì gia đình chị Hai Nhàn định cư diện HO.24, tại California nắng ấm, mẹ tôi ở với chị từ ngày đó. Rồi lần lượt người trước rước người sau, chúng tôi đến Hoa Kỳ theo diện O.D.P. để được quây quần bên mẹ.
*
Hiệp Định Genève ngày 20/7/1954 chia đôi đất nước. Ba mẹ tôi vai đeo tay nải, lưng cõng chị Nhàn theo hàng triệu người miền Bắc di cư, xuống tàu há mồm vào Nam. Ba tôi tiếp tục nghề “gõ đầu trẻ” một thời gian, rồi nhập ngũ theo lệnh động viên của chính phủ VNCH. Tôi không nhớ năm nào, chỉ biết ba tôi thuyên chuyển đến nhiều nơi khác nhau. Chị em chúng tôi được sinh ra ở những nơi ba đến làm việc, đứa thì ở Biên Hòa, đứa Bình Dương. Có đứa ở Kontum, thuở thiếu thời mộc mạc như cánh lan rừng. Đứa thì ở Pleiku, thành phố đầy lính, người dân luôn sống trong không khí của tiền đồn, của lửa đạn và chiến tranh. Tại phố núi này ba tôi bị thương, chuyển từ nhà thương Quân Đoàn II về Bệnh Viện Cộng Hòa, mẹ tôi đi theo để nuôi ba. Được hai tháng, thì Tết Mậu Thân 1968, thừa lúc mọi người nghỉ Tết không đề phòng, Cộng Sản đã bất ngờ tấn công những nơi xung yếu và quan trọng của quân lực VNCH. Nhà tôi nằm ngay tầm giao tranh, cháy thành tro. May mà chị Hai Nhàn dắt chúng tôi chạy thoát. Ba được giải ngũ. Mẹ trở lại Pleiku, đem chúng tôi vào Sai gòn và dừng chân tại đây luôn.
Ba mẹ tôi có mười người con, chết một còn chín, sáu gái ba trai. Sau mẹ, chị Nhàn là người tôi yêu quý nhất. Mẹ tôi kể, Ba chọn tên Nhàn cho chị, để vần với tên An của mẹ. Chị Nhàn là cả, nhưng theo người miền Nam, chúng tôi gọi là chị Hai. Tôi là con thứ năm, có nước da ngăm ngăm, nên được gọi là Năm Đen.
Chị Hai hơn tôi tám tuổi, ngày ấy càng lớn trông chị càng xinh đẹp, với đôi mắt đen và mái tóc dài thả ngang vai. Vì ba tôi là nhà giáo, nên ba luôn quan tâm vấn đề học vấn cho con cái. Chị Hai Nhàn ở vào cái thời mà con gái phải chịu ảnh hưởng Nho Giáo “Tam Tòng Tứ Đức” và lập gia đình ở lứa tuổi đôi mươi, nên mười bảy, mười tám tuổi, chị đã có nhiều đám mai mối dạm hỏi, vì tính nết đoan trang và siêng năng. Nhưng ba tôi vẫn cho chị được phép cắp sách đến trường, không phải đi “gánh vác” sớm như các bạn cùng trang lứa.
Sau này dù chị em chúng tôi đều đã có gia đình riêng. Nhưng những năm tháng gian nan vất vưởng, chị em đùm bọc nhau để sống, mẹ cũng lao đao vì cuộc mưu sinh, đã thành vết ký ức in hằn trong tôi.
Ngày ba tôi mất, chị Nhàn hai mươi, em út mới hai tuổi. Chị thương mẹ vô cùng, chị bỏ học để đi làm và sát cánh bên mẹ lo toan mọi bề. Đêm đêm nhìn mẹ ngồi lặng lẽ trước hình ba trên bàn thờ, không gian như chùng xuống, chị Hai đến bên mẹ an ủi trò chuyện, ôm đôi vai gầy, cầm bàn tay khẳng khiu của mẹ, chị hứa không đi lấy chồng để ở bên mẹ suốt đời.
Năm đó mẹ tôi mới bốn mươi hai, có một bác bạn thân của ba, vợ chết từ ngoài Bắc, chỉ có ba bố con di cư vào Nam. Bác nói với mẹ tôi rằng: “Tôi với anh nhà là chỗ thân tình, không may anh ấy đã ra đi. Tôi muốn được ghé vai gánh bớt gánh nặng cho chị”. Mẹ tôi nghĩ đến cảnh con anh, con tôi, con chúng ta. Lành ít, dữ nhiều, nên mẹ cảm ơn bác, rồi ở vậy nuôi đàn con mồ côi cho đến hết đời.
Chị Hai tôi tốt nghiệp, khóa Tu Nghiệp Công Chức tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Năm 1970 chị trúng tuyển vào làm thư ký Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa, nằm trên đường Alexandre de Rhodes Saigon, gần nhà thờ Đức Bà, nên sáng nào trước khi vào làm việc, chị cũng ghé nhà thờ viếng Mình Thánh Chúa và cầu nguyện. Chị cần kiệm, không chưng diện, lãnh được bao nhiêu tiền đưa hết cho mẹ. Hàng tháng Bộ NG bán cho nhân viên, một bao gạo 50 ký theo tiêu chuẩn chính phủ, chị ràng sau xe Honda Dame chở về, để mẹ nuôi các em. Bốn đứa bé nhất: Giáo 9 tuổi, Hường 7 tuổi, Vy 5 tuổi, Út Trí 3 tuổi, đó là lứa tuổi mà các em cần sự dạy dỗ, giám sát của người lớn, mà mẹ thì mải buôn bán đầu tắt mặt tối từ sáng sớm tới chiều muộn mới về, chỉ có chị em chúng tôi thay nhau, đứa lớn coi đứa bé, nên các em quấn quýt bên chị.
Ngoài những lúc đi làm, chị dành thời giờ chăm sóc các em, chị ngồi cặm cụi may cho từng đứa, từ chiếc áo, chiếc quần mới, để ngày cuối tuần, chị dẫn các em đến công viên chạy tung tăng, hoặc vào sở thú cho các em xem voi xem khỉ, rồi ôm các em vào lòng mà ứa nước mắt. Ngày Tết Trung Thu, chị chở ba em nhỏ đến nơi chị làm việc, để lãnh bánh Trung Thu, mà Bộ NG dành cho con em của nhân viên. Ngày lễ nghỉ, chị hay đổ bánh xèo cho chúng tôi ăn, đó là món bánh vừa rẻ vừa ngon mà chúng tôi rất thích. Nên chúng tôi còn gọi là chị Hai bánh xèo.
Vì nhà tôi ở Bảy Hiền sau chợ Tân bình, nên thuận tiện việc học hành cho các em, chỉ được một hai người lên đai học, còn lại đều tốt nghiệp cấp ba. Đó là vốn liếng quý giá cho các em bước chân vào đời. Chúng tôi thật may mắn được làm em của chị. Nhưng tiếng lành đồn xa, vừa mãn tang ba đã có hai ba đám ngỏ lời, cũng là chỗ người làng quen biết. Họ rỉ rón với mẹ: “Tôi thấy cháu vừa được người được nết, nên muốn kết tình thông gia với bà ?...”.
Mẹ trả lời: “Cảm ơn bà đã để ý đến con tôi, để tôi dò ý cháu xem”.
Nhưng chị đều từ chối, không nhận lời. Vì còn trách nhiệm với đàn em…
Rồi một hôm, cậu Năm em họ của mẹ, biết chị Hai tôi đang làm việc tại Bộ NG, trong Nha Nghiên Cứu Sưu Tầm, phụ trách việc gửi đến các nơi cần thiết, những cuốn sách “Ngoại Giao Kỷ Yếu”. Có tựa đề: “Hiệp Định về Chấm Dứt Chiến Tranh, Lập Lại Hòa Bình ở Việt Nam” (Ký tại Paris ngày 27-01-1973) nên cậu đã dẫn một người bạn là sĩ quan an ninh, đang làm việc tại Bộ Tổng Tham Mưu, đến nhờ chị dẫn vào ông Giám Đốc, xin cuốn sách đó. Cuộc gặp lần ấy đã kết thành duyên phận giữa chị Hai tôi và anh Rể. Vì từ đó anh theo cậu đến nhà tôi, để tìm hiểu chị, mà những đứa em nhỏ bé, đứa thì ôm vai đứa bá cổ, như người anh đi xa mới về. Vài tháng sau bố anh đến, nói chuyện với mẹ tôi thật lâu. Để đêm về, tôi thấy chị hay trở mình, đôi lúc thở dài. Rồi mẹ khuyên chị: “Thân con gái chỉ có một thời! Anh em thì ‘kiến giả nhất phận’. Mai sau các em khôn lớn, chúng phải lo bổn phận gia đình. Về già con vò võ một mình cô đơn”. Và chị đã vâng lời mẹ
Sau này, nói về cuốn sách “Ngoại Giao Kỷ Yếu” mà anh chị quen nhau, đối với chị buồn nhiều hơn vui.
Tại sao? Chị Hai giải thích: Cuốn sách “Hiệp Định Ba Lê, là một Hiệp Định không có lợi cho miền Nam. Vào giai đoạn ấy các bên tham chiến và Hoa Kỳ, đều muốn mưu tìm một giải pháp hòa bình. Tuy nhiên, Sau năm năm trời thương thuyết (1968 tới 1973), nhằm chấm dứt chiến tranh. Buộc các bên ngưng bắn, để Mỹ rút về nước trong danh dự. Nhưng thực chất Cộng Sản Việt Nam đã không thi hành nghiêm chỉnh, không thực hiện những điều khoản đã thỏa thuận. Chỉ vài tháng sau khi Hiệp Định Paris 27-01-1973 được ký kết, CS Bắc Việt đã vi phạm, xua quân tấn công Việt Nam Cộng Hòa.
Vì chủ trương thay đổi chiến lược của chính phủ Hoa Kỳ và quyền lợi riêng tư, mà Mỹ đã không giữ lời hứa, là sẽ phản ứng mạnh mẽ, nếu Bắc Việt vi phạm Hiệp Định. Mỹ cũng không giúp VNCH chống đỡ những cuộc tấn công từ miền Bắc. Không tiếp tục viện trợ vũ khí, đạn dược. Để rồi miền Nam thiếu súng đạn, thiếu tất cả mọi thứ. Trong khi miền Bắc được tiếp tế bởi Liên Xô và Trung Cộng. Sự chênh lệch về phương diện quân sự, là điểm khởi đầu dẫn tới sự cáo chung của miền Nam, đưa đến thảm họa năm 1975”. Gieo bao đau thương cho dân lành. Trong đó có gia đình chị Hai tôi.
*
Chị Hai tôi tên là Nhàn, nhưng chị lại vất vả lắm, chị cứ mải miết ở nhà nuôi các em. Khi bạn bè cùng tuổi đã tay dắt, tay bồng, chị mới lập gia đình. Giáng sinh năm 1973, chị tôi lên xe hoa theo chồng. Bước chân đi mà nước mắt lưng tròng, chị quay lại dặn dò:
“Em ơi! Em ở lại nhà,
Vườn dâu em đốn mẹ già em thương.
Mẹ già một nắng hai sương,
Chị đi một bước trăm đường xót xa…” (NB)
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.