Thế là những ngày đầu tháng 9 năm 1978, tôi bắt đầu chuyến hành tŕnh t́m cha. Chưa một lần ra miền Bắc. Với tôi tất cả điều xa lạ. Manh mối duy nhất là địa chỉ trên thư :
- K2 Trại Cải Tạo Tân Lập Vĩnh Phú . Phương tiện di chuyển :
Chiếc xe đạp Phượng Hoàng mượn của ông chú.
Sáng mồng 3 tôi bắt đầu ra đi từ nhà chú :
Khu Tập thể Nam Đồng, Đống Đa, Hà Nội.
Trạm đầu tiên :
Ga xe lửa Hàng Cỏ. Hỏi thăm các người bán hàng rong ở ga. Vĩnh Phú th́ nhiều người biết nhưng trại Tân Lập ở đâu th́ không ai hay. Thôi th́ cứ lên tàu đi về hướng Vĩnh Phú trước đă.
Đúng là tàu chợ, xe lửa th́ củ kỹ, hôi hám, trên các toa đông nghịt người, đa số là người lao động và người bán hàng rong. V́ vướng chiếc xe đạp, chật vật lắm tôi mới leo được lên toa cuối cùng khi tàu bắt đầu chuyển bánh.
V́ lên sau cùng, tàu đông kịt người, chỗ đứng chổ ngồi hầu như không c̣n, tôi ngồi xuống một khoảng trống sát vách cầu tiêu. Lần đầu tiên tôi cảm thấy nỗi cô đơn giữa một rừng người cùng tiếng nói, cùng một màu da.
Mỗi một trạm tàu dừng, tôi đều hỏi thăm những người khách và những em bé bán chè xanh nhảy lên từ mỗi trạm. Cuối cùng cũng có được một tin tức mơ hồ từ một em bé:
– Có lần đi bán nước chè, em có gặp một đoàn người h́nh như ở trong Nam ra v́ không giống người ngoài này, đi lao động, h́nh như ở gần ga Ấm Thượng, Vĩnh Phú. Em bé nói thêm h́nh như có trại giam giữ những người miền Nam gần đó…
Tôi bám tàu đi tiếp. Tàu lắc lư đi về hướng Cao Bằng, Lạng Sơn. Mùi hôi thúi bốc lên từ cái cầu tiêu công cộng cộng ḥa quyện vào cái mùi mô hôi của hàng trăm người đứng ngồi lóc nhóc không làm tôi bận tâm. Tôi măi suy nghĩ khi nào th́ đến ga Ấm Thượng ? V́ không nh́n được qua cửa sổ, tôi đành nhờ một bà lăo ngồi sát cửa sổ nhắc giùm khi đến ga.
Xuống được ga Ấm Thượng th́ cũng đă giữa trưa. Phải nói là trạm th́ đúng hơn. Nhà ga là một căn nhà nhỏ, vách lá, trống huơ trống hoác. Vùng đất thật hoang vu, dân di lại thưa thớt. Ra khỏi ga là một con đường đất đỏ duy nhất về một làng nào đó ở xa xa.
Tôi vừa đi, vừa hỏi đường. Hỏi xem có ai biết về trại Tân Lập không? Không ai biết. Phải đến lần thứ 9 hay thứ 10 ǵ đó, khi tôi đă vào sâu khoảng 5, 7 cây số, mới có được câu trả lời tương đối rơ ràng:
– Phải đi thêm 20 đến 25 Km về phía dăy núi, bên này là Trại Tân lập, bên kia là biên giới Trung Quốc.
Đoạn đường đi xa diệu vợi, chân tay ră rời, đôi khi tôi kiệt sức muốn bỏ cuộc quay về. Nhưng nghĩ đến ba, tôi gắng gượng tiếp tục lên đường.
Con đường càng vào sâu càng lúc càng khó đi. Khi th́ ngoằn ngoèo, khi th́ lồi lơm. Có những đoạn không đạp xe được v́ mưa trơn trợt, tôi xuống xe dắt bộ. Nhà cửa càng lúc càng thưa thớt, càng ít người qua lại.
Tôi vừa mệt, vừa sợ, vừa đi vừa nh́n chung quanh, dáo da, dáo dác. Nói thật lúc đó có ai nhảy ra, phang cho ḿnh một gậy, cướp xe đạp, vất xác xuống ven đường, chắc cũng không ai hay.
Từ cha sinh mẹ đẻ đến nay có bao giờ tôi đi đâu một ḿnh như thế này đâu. Hồi nhỏ th́ có cha có mẹ, vào trường th́ có bạn có bè. Đi đâu cũng đi với người này hay người khác. Ngay cả khi đi trồng cây si, cũng rủ thêm Trường Thọ hay Quốc Chính (đă mất) cùng đi.
Đi đâu cũng xe đạp hay xe Jeep của Ba. Đi bộ th́ nhiều nhất là một cây số. Chạy th́ nhiều nhất một ṿng sân trường là thở dốc.
Vừa mệt vừa sợ cướp, vừa sợ ma, tôi vừa đạp xe vừa lẩm bẩm cầu nguyện, nhiều lúc nản quá muốn quay về. Rồi lại nhớ đến ba, nhớ đến khuôn mặt buồn thê thảm của ba trước cổng trường Chu Văn An ngày nào, tôi lại lê lết lên đường đi tiếp.
Đúng là lê là lết. Đường càng lúc càng khó đi. Mưa phùn, đường hẹp, đất bùn quyện nước mưa nhăo nhoẹt bám vào bánh xe càng làm nặng nề. Tôi bắt đầu cảm thấy lạnh. Một cái lạnh cắt da cắt thịt. Nhưng nỗi khổ chưa dừng ở đó.
Trên con đường độc đạo duy nhất về trại
“cải tạo” Tân Lập, tôi phải vượt qua hai con sông.
Quen với cái hiền ḥa của gịng sông Hương thuở nhỏ, chưa bao giờ tôi thấy con sông nước chảy dữ dằn như vậy. Ḍng nước đục ngầu và đỏ như máu chảy cuồn cuộn.
Đứng bên này nh́n thấy bờ bên kia nhưng không biết cách nào qua. Không cầu không cống. Không một bóng người. Men theo bờ sông, tôi đi về hướng ánh đèn leo lét xa xa. Hỏi thăm, th́ ra muốn qua sông th́ đi một đoạn nơi có bờ đá dô ra ở mé sông, chụm hai tay gọi lớn sang bên bờ bên kia
] “Đ̣ ơi… ơi”
Thế là từ bên kia bờ, chênh chếch phía trên có một thuyền nhỏ một người chèo qua. Nói th́ rất dễ dàng nhưng để băng qua được bên này không dễ chút nào. Khoảng cách hai bên bờ không lớn lắm, nhưng do nước chảy xiết, từ bên kia muốn qua bên này, người lái đ̣ phải khéo léo dựa theo ḍng nước chảy, từ trên xa trôi xuống, tắp đúng vào kè đá nơi tôi đứng.
Điều khiển không khéo th́ thuyền lật như chơi, c̣n nếu không th́ thuyền tắp xuống quá kè đá, không đúng chỗ đón khách.
Bác lái đ̣ giúp tôi đưa xe đạp và tôi xuống thuyền. Nh́n người lái đ̣, nh́n ḍng nước sông đục ngầu cuồn cuộn chảy, tôi nhớ các đoạn văn của Nhất Linh, của Khái Hưng thời Tự Lực Văn Đoàn kể về các tỉnh miền Bắc xa xôi này.
H́nh như nơi đây, bánh xe thời gian đă ngừng lại. Giống y chang như trong các bài văn ngày nào. Vẫn như xưa, nếu không nói là cũ kỹ hơn, nghèo khổ hơn.
Và có lẽ v́ vậy người dân ở miền đất sát biên giới Việt Trung này hiền lành và chơn chất gấp vạn lần những con người tôi gặp ở Hà Nội. V́ vậy, may mắn tôi vẫn c̣n cái mạng quay về.
Đi thêm một đoạn dài, vượt qua thêm một nhánh sông tương tự th́ trời đă tối đen. Lúc này tôi không c̣n đạp xe được nữa… Tôi dắt xe, vừa đi vừa run cầm cập. Dân thành thị như tôi, lần đầu tiên mới cảm thấy nỗi sợ hăi cùng cực khi một ḿnh giữa đồng không mông quạnh, âm thanh là tiếng côn trùng ếch nhái, thỉnh thoảng là những ánh đom đóm lập loè. Lại thêm cái lạnh cắt da của ban đêm và mưa phùn miền Bắc.
Khổ không thể cực khổ hơn. Sợ không thể nào sợ hơn. Nếu không v́ ba tôi đă bỏ cuộc từ lâu. Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng gặp được một căn cḥi trống ven đường. Đây có thể là nơi tạm trú của những nông dân hay của những em bé chăn trâu nào đó.
Căn nhà (cái cḥi th́ đúng hơn) nhỏ xíu, trống không, có một cửa bằng tre nhỏ xíu. Đặt chiếc xe đạp sát vách, tôi ngồi xuống tựa lưng nghỉ mệt.
Có thể nói trong đời đây là căn nhà ấm áp nhất mà tôi từng ở dù rằng những giọt mưa vẫn từ các khe hở nhỏ xuống lạnh buốt. Bây giờ mới cảm thấy đói. Bữa ăn tối đầu tiên trên miền đất tận cùng biên giới của người con đi t́m cha đang
“học tập cải tạo” là một cái bánh bao không nhân mua vội trên tàu.
Cái gọi là bánh bao thật ra chỉ là một cục bột hôi mốc nhờ mưa ẩm ướt làm mềm đi nếu không chắc sẽ cứng như đá. Nhưng không sao, khi đói th́ đất cát vẫn thấy ngon như thường. Vừa ăn tôi vừa cố nuốt đi những giọt nước mắt.
Cùng với cơn lạnh ban đêm, dù trải qua một ngày không ngủ, mệt lă, tôi vẫn không tài nào chợp mắt được. Tôi ngồi bó gối co ro ở một góc nhà. Lần đầu tiên tôi thấy cái vô tận của đêm dài.
Trời vừa hơi sáng là tôi lên đường ngay. Đi thêm một chặng đường đất khá dài, khoảng hơn 2 tiếng đồng hồ, cuối cùng tôi cũng đến được trại Tân Lập.
Thật ra cái tôi gặp đầu tiên ở giữa cái đồng không cô quạnh này là một ngôi nhà tranh, tương đối lớn, phía trước có treo một tấm bảng nhỏ
“K10 Tân Lập”.
Bên trong là một cái bàn dài có hai dăy ghế bằng tre. Không thấy có ai canh gác. Tôi nghĩ đây là nhà khách. Đợi một lúc quả nhiên tôi thấy một công an đi ra. Tôi tŕnh giấy tờ, ghi rơ là
“cán bộ Bưu Điện” ra Hà Nội công tác luôn tiện thăm cha đang học tập tại K2 Tân Lập.
Mừng hụt. Trại
“cải tạo” Tân Lập th́ đúng rồi nhưng đây là nhà khách thuộc K10. Toàn trại gồm có 10 khu vực. Nếu tính từ ngoài vào trong th́ bắt đầu từ khu K10, K9… cuối cùng sát biên giới là khu K1.
K10 là khu vực đầu tiên của trại Tân Lập. Từ đây sẽ không có nhà dân mà chỉ có những trại giam,
“cán bộ” và tù nhân. Sau này tôi mới biết khu trại Tân Lập không chỉ giam giữ các tù nhân từ trong Nam mà c̣n là nơi giam giữ các thành phần bất hảo ăn cắp ăn trộm ngoài Bắc. Thành phần này được giam ở các khu K10, K9 gần phía nhà dân.
Các tù nhân sĩ quan từ miền Nam được phân loại và giam giữ theo thứ tự, chức vụ càng cao, càng
“ác ôn” th́ được đưa về các khu số nhỏ K1, K2 sát núi gần biên giới,
khí hậu khắc nghiệt và rất khó trốn thoát.
Nếu có vượt thoát được công an ở các khu vực K1, K2, K3… th́ chắc không qua được các thành phần bất hảo của K9, K10. Ai nói Việt Cộng ngu. Có đào thoát khỏi trại, mặc áo tù đi lang thang 30 km, ra khỏi đây không bị bắt trở lại mới lạ.
Lại tiếp tục lên đường. Hai bên đường là nhũng cánh đồng khoai ḿ, những cánh đồng trà cằn cỗi. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp từng toán người mặc áo tù đang cuốc đất. Từng nhóm làm việc lặng lẽ. Lúc này đường đất tương đối dễ đi hơn. Tôi cúi thấp người cố gắng đạp thật nhanh. Đi riết rồi cũng đi qua hết khu K3 và bắt đầu vào địa phận K2.
Có lẽ khoảng 10 giờ sáng, mưa phùn vẫn c̣n rơi. Tính ra từ sáng tới giờ tôi đă đi một lèo gần 4 tiếng đồng hồ. Không ăn uống ǵ nhưng tôi vẫn không cảm thấy đói. Tôi đang náo nức với cái cảm giác sắp được gặp lại ba.
Vừa đi tôi vừa suy nghĩ những chuyện sẽ hỏi ba, chuyện ǵ sẽ kể cho ba. Tự nhủ phải thật b́nh tĩnh, phải không được xúc động, phải không được khóc. Nghĩ tới lúc sắp gặp ba, quên cả mệt nhọc, tôi ráng sức đạp thật nhanh.
Qua khỏi khúc quanh cuối K3 để vào K2, tôi thấy cách đường đất đỏ khoảng 5 đến 10 mét một nhóm khoảng mươi người áo quần lam lũ, người đang cuốc đất, người đang vác những bó củi khô, cạnh đó mấy tay mặc áo vàng đội mũ cối, cầm súng đi qua đi lại. Tôi biết chắc chắn đó là những tù nhân đang lao động cải tạo.
Như một phản xạ tự nhiên, tôi đạp xe chậm lại, đưa mắt nh́n quanh. Cùng lúc một tù nhân đang đội nón lá lui cui gần vệ đường ngước mắt nh́n về phía tôi. Dù đă bao năm qua không gặp, dù bây giờ đă quá khác xưa, gầy g̣, mặt mày đen thui, râu tóc dài bạc phơ,
nhưng tôi vẫn nhận ra đó là Ba.
Nhảy ra khỏi xe, tôi thảng thốt kêu lên một tiếng Ba thật to. Tiếng kêu làm nhiều người quay lại hướng về phía tôi trong đó có mấy tên công an cầm súng đứng ven đường.
Trong khoảnh khắc, tôi bắt gặp đôi mắt hoảng hốt của ba, cặp mắt ngây dại và đầy vẻ lo sợ, ba vừa chớp mắt vừa lấy tay xua lia lịa như muốn tôi đứng lại và chỉ về phía căn nhà xa xa.
Tôi khựng lại, tôi biết tôi không được quyền đứng lại hay tṛ chuyện với ba. Nuốt giọt nước mắt đang chực chờ chảy, tôi lên xe phóng nhanh về căn nhà khách, không quên nh́n lại ba.
Vẫn kịp thấy ba đang cúi xuống, tấm lưng gầy g̣ yếu đuối run run ngă quỵ bên đường !
Tiếp tôi trong căn nhà khách K2 là một công an mặt áo vàng, gương mặt gầy nhọn, non choẹt và giọng nói rặt Bắc Nghệ An. Tôi đưa giấy tờ chứng nhận là :
“cán bộ giáo viên trong Nam ra công tác Hà Nội tranh thủ thăm cha đang học tập cải tạo” ngoài này.
Sau khi xem giấy tờ, tên cán bộ hỏi tại sao tôi biết nơi này. Không lẽ nói do tự t́m kiếm, tôi nói do chú là trung tá chính ủy chỉ đường. Thái độ có vẻ nhă nhặn hơn nhưng gă ta cho biết là
tôi không thể thăm được ba tôi lần này được với lư do :
“Ông nhà đang trong thời kỳ bị kỷ luật do vi phạm nội quy của trại, đang bị biệt giam”.
Thú thật nếu không gặp mặt ba ngoài kia, chắc chắn tôi đă phải tin lời quay về. Tôi biết hắn đang làm khó dễ. Tôi nắm chặt bàn tay dằn cơn giận dữ. Xuống nước:
– Nhưng thưa cán bộ tôi mới gặp ba tôi ở ngoài kia.
Tên cán bộ gằn giọng:
– Anh có chắc không? Ông đang bị biệt giam, ai cho ra ngoài, chắc anh nh́n lầm.
Sao có thể lầm ba với ai được… Dù có bị đày đọa cỡ nào, dù ba có thay đổi bao nhiêu, th́ tôi vẫn không bao giờ lầm ba với ai khác. Cặp mắt ấy, con người ấy với tôi là duy nhất. Đuối lư nhưng tay công an
vẫn khăng giữ vững ư định không cho tôi gặp ba. Nhiều lư do được đưa ra :
Thứ nhất đây không phải là mùa thăm nuôi, thứ hai tôi cũng không có giấy phép (hèn chi các nhà khách tôi đi qua vắng như chùa bà đanh).
Tôi cố gắng tŕnh bày là đi công tác
“đột xuất”, hơn nữa đường đi xa xôi, đă lỡ đến đây rồi, xin cán bộ thông cảm. Làm ra vẻ tử tế, lăo cán bộ chép miệng:
– Thật ra tôi cũng muốn thông cảm cho anh, không phải tôi làm khó dễ nhưng thú thật không thể cho anh gặp được.
Tôi càng năn nỉ, tên cán bộ càng cứng rắn. Lăo nỗi nóng :
– Nhưng tôi nói không gặp được là không gặp được, anh về khi nào có giấy tờ thăm nuôi th́ chúng tôi sẽ giải quyết.
Nh́n khuôn mặt tên
“cán bộ” mặt mày lấc cấc, máu tôi sôi lên, tôi muốn đấm cho nó một cái, ra sao th́ ra.
Nhớ đến ánh mắt của ba ngoài kia, cặp mắt ngây dại
của ba đang co cụm dẫy chết.
Nhớ đến đôi vai gầy g̣
run rẫy trong gió lạnh ngoài kia, ḷng tôi dịu lại, tự nhiên tôi bật khóc, khóc ngon khóc lành. Vừa khóc tôi vừa năn nỉ tên cán bộ đáng tuổi em ḿnh.
Tiếng khóc động đến ḷng trời, đúng lúc một tay cán bộ nữ bước vào. Có lẽ khuôn mặt một người đàn ông đang khóc nh́n thê thảm, xấu xí và cảm động quá, sau khi bàn bạc, cán bộ nữ đồng ư cho tôi được gặp ba nhưng chỉ được gặp đúng 15 phút mà thôi. Dù sao đàn bà vẫn là đàn bà, vẫn t́nh cảm hơn.
C̣n tiếp ,