R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,791
Thanks: 7,446
Thanked 47,084 Times in 13,133 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 161
|
Hiện tại vì sao không có chỗ ngộ? Vì khi bạn đọc kinh, hàm hồ lướt qua, sơ sài qua loa, không tỉ mỉ quan sát, thể hội. Trong Tàng Kinh Lầu thấy được “Đại bổn Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, mười đại thiên thế giới vi trần kệ, một bốn thiên hạ vi trần phẩm”. Lời nói này của Bồ tát Long Thọ là thật, bạn phải nghe hiểu. “Mười đại thiên thế giới vi trần kệ” không phải là chữ số. Hoa Nghiêm dùng mười để biểu thị, đại biểu đại viên mãn, có nghĩa, biến pháp giới hư không giới, tánh, tướng, lý, sự, nhân quả, có thứ nào không phải là kinh Hoa Nghiêm? Kinh Hoa Nghiêm sống ngay trước mặt chúng ta. Thiện Tài Đồng tử may mắn gặp được 53 vị thiện tri thức, còn chúng ta thì sao? Từ sớm đến tối không hề kém Thiện Tài, nhưng vì sao không khai ngộ? Vì tâm bạn không phải tâm của Thiện Tài, nếu là tâm của Thiện Tài thì bạn đã sớm khai ngộ. Cho nên phiền não của chúng ta là thật, chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước quá nặng.
Vọng tưởng, thông thường trong đại thừa giáo đã nói, “vô minh phiền não”, “trần sa phiền não”, “kiến tư phiền não”. Thiên Thai tông cũng nói, vô minh phiền não chính là vọng tưởng trong kinh Hoa Nghiêm. Trần sa phiền não chính là phân biệt. Kiến tư phiền não chính là chấp trước. Ở đây, có phiền não, có sở tri chướng, chỉ là nặng nhẹ không như nhau. Trong vô minh, sở tri chướng nhiều, phiền não chướng ít. Trong phân biệt, sở tri chướng cùng phiền não chướng có thể bằng nhau. Trong chấp trước, sở tri chướng nhẹ, phiền não chướng nặng. Cho nên vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều có sở tri chướng, đều có phiền não chướng, vô minh. Trên kinh Hoa Nghiêm, vọng tưởng thuộc về căn bản vô minh. Đại kinh nói, “một niệm bất giác mà có vô minh”, đó là nói ban đầu, vì sao bạn bị mê? Vấn đề này trong Đại thừa giáo gọi là “căn bản Đại vấn”. Ta vốn dĩ là Phật, nhưng vì sao ta khởi một niệm vô minh, lúc nào khởi lên một niệm vô minh, và nguyên nhân gì khởi lên nó?.
Khi chúng tôi mới học Phật có gặp vấn đề này, tôi liền hỏi lão sư Lý. Lão sư Lý nghe rồi mỉm cười không trả lời cho chúng tôi, vì sao? Trả lời cũng không hiểu, vẫn không bằng không trả lời. Ông bảo chúng tôi xem kinh Lăng Nghiêm. Ồ! Trong quyển thứ tư của kinh Lăng Nghiêm, thì ra Phú Lâu Na tôn giả cũng có vấn đề tương tự, ngài hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni vì sao hay khởi lên niệm này, và bao lâu mới khởi lên một niệm. Kinh Lăng Nghiêm có một đoạn kinh văn rất dài, rất nhiều người đọc kinh Lăng Nghiêm nhưng có mấy người hiểu được. Nếu thật hiểu thì bạn liền thành Phật, còn chưa thật hiểu thì vẫn là phàm phu.
Trước tiên bạn phải nhận biết đó là vọng, vọng là giả, “một niệm bất giác” là hư vọng. Cái niệm này sau khi bất giác, bạn vẫn cho là thật, đó là mê. Nếu bạn hỏi mê từ lúc nào, kinh Hoa Nghiêm nói thời gian: “Niệm kiếp viên dung”, niệm là một niệm, thời gian của một niệm rất ngắn; kiếp là đơn vị thời gian rất dài. Một niệm cùng vô lượng kiếp không khác biệt, vì một niệm là vọng, vô lượng kiếp cũng là vọng. Một niệm bằng như không, vô lượng kiếp cũng bằng như không. Không cùng không phải chăng đều vọng? Sau khi hiểu rõ, chúng ta hơi có chút thể hội. Thì ra sự việc này không có trước sau, không có xa gần, ngay nơi đó một niệm bất giác cũng giống như trong mộng tỉnh lại. Khi tỉnh lại thì gọi là thành Phật. Vốn dĩ là Phật, vừa vào mộng, trong mộng liền rơi vào mười pháp giới. Bạn ở trong mộng làm Bồ tát, làm Phật là pháp giới bốn thánh; bạn ở trong mộng làm trời làm người là pháp giới trời người; bạn ở trong mộng gặp được ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục thì là pháp giới ba đường, không rơi ngay trong một niệm. Đó là chân tướng sự thật, thế nhưng ngày trước thầy giáo không nói ra, vì sao?
Vì sau khi nói, làm cho cửa ngộ của bạn bị bít mất. Đó là cách dạy học rất tàn khốc, cho nên thiền tông nhất định không nói, mà khuyên bảo bạn chính mình chứng. Chính bạn sau khi ngộ đem cảnh giới này nói lại với lão sư. Lúc đó lão sư gật đầu ấn chứng cho bạn. Bạn chưa vào được cảnh giới này thì tuyệt đối không nêu ra. Điểm này đặc biệt không giống giáo hạ. Giáo hạ luôn nói ra, sau khi nói, bạn chính mình phải chứng thật. Nếu không chứng thật, như vậy bạn vẫn đang ở trong mộng, chưa tỉnh ra được. Cho nên, bạn cần phải thân chứng, vậy thân chứng bằng cách nào?
Nhất thiết buông bỏ
Đại sư Chương Gia dạy tôi bí quyết chư Phật Bồ tát tu hành chứng quả, đó là "nhìn thấu, buông bỏ", buông bỏ từ thô đến tế. Thô thì buông bỏ trước, tế bỏ sau. Cái thô nhất là chấp trước, tế hơn một chút là phân biệt, tế nhất chính là vọng tưởng. Đại sư Thiên Thai nói bốn giáo “Tạng, Thông, Biệt, Viên”, Phật của Tạng giáo cùng Biệt giáo không là Phật của Tạng giáo cùng Thông giáo, mà đều là Phật trong mười pháp giới, vô minh chưa phá, vọng tưởng chưa đoạn, phải đến Biệt giáo Phật mới phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân. Phật của Biệt giáo so với Viên giáo là Bồ Tát Nhị hành vị, Thập trụ, Thập hạnh. Trong Thập hạnh, đầu tiên là Sơ hạnh, Nhị hạnh, ở Biệt giáo chính là Phật. Sơ địa của Biệt giáo cũng đồng Sơ trụ của Viên giáo, vừa mới phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân. Đó là gần đây chúng ta ở trong Hoa Nghiêm đã đọc thấy, đã tu được.
Vậy chúng ta phải nên biết, khi mê ban đầu là vô minh, là vọng tưởng. Từ trong vọng tưởng lại hiện phân biệt, chính là từ vô minh mới có trần sa phiền não, có phân biệt. Kế đó mới xuất hiện chấp trước, cho nên chấp trước là thô. Trong chấp trước cũng có căn bản, gọi là “Câu sanh ngã chấp”. Câu sanh không phải một đời này mà từ đời quá khứ mang đến. Quá khứ vẫn còn có quá khứ, quá khứ vô cùng, vị lai vô tận. Chỉ khi mê mới có hiện tượng này, còn khi ngộ thì không có. Hiện tướng này là huyễn tướng. Cũng giống như chúng ta xem điện ảnh vậy, trên màn bạc có thanh niên, trung niên, đến sau có tuổi già, từ từ diễn biến. Nằm mộng, trong mộng cũng có cảnh giới này. Thế nhưng, nếu bạn đến chỗ máy chiếu phim, xem qua phim trường, bạn liền thấy được chân tướng. Nếu thông minh hơn một chút, chính ngay trong màn bạc xem thấy nó không có trước sau, cái đèn chiếu từng tấm từng tấm riêng biệt. Trước sau là gì, hiện tướng tương tục tương tợ. Trên màn bạc không có thứ gì. Màn bạc là tự tánh, trong tự tánh tuy có những hiện tướng này, nhưng những hiện tướng này là huyễn tướng, không phải thật, đó gọi là chân tướng sự thật. Vậy chúng ta có nên chấp trước những huyễn tướng này hay không? Nếu chấp trước là sai rồi.
Lục tổ Đàn Kinh nói rất nhiều “nếu là chân tu, không thấy lỗi thế gian”, vì sao? Vì thế gian là huyễn tướng, làm gì có lỗi. Chỉ có người đọa lạc ở thế gian mới thấy lỗi thế gian. Một người siêu việt, họ liền không xem thấy, họ biết là giả cũng giống như xem phim. Trên màn bạc, nhân vật đó làm rất nhiều việc sai, tạo rất nhiều tội nghiệp, bạn xem rồi sanh tức giận. Nhưng nếu là người sáng suốt, biết đó là giả không phải thật, tuy tiếp xúc cảnh giới này mà vẫn như như bất động; biết được đó là hình ảnh, “mộng huyễn bào ảnh”, trong đó không có công tội. Đó mới là một người sáng suốt, một người giác ngộ.
Chúng ta hiện tiền chân thật phải có công phu, phải từ phá chấp trước, chính là buông bỏ chấp trước, ngay chỗ này mà hạ thủ. Trước tiên phải đoạn kiến tư phiền não, kiến hoặc, một loại trong chấp trước. Bạn thấy cái sai của người, vì sao thấy sai? Vì khi ấy, bạn đem cái thân cho là chính mình, chấp trước thân này là chính mình. Phật pháp thấu triệt, trong Tướng tông nói, tám thức, chấp trước nghiêm trọng nhất là thức thứ bảy, phân biệt nghiêm trọng nhất là thức thứ sáu. Vọng tưởng chính là từ A Lại Da Thức, rất vi tế. Phật ở Tạng giáo cùng Phật trong Thông giáo đều không biết đó là thức thứ bảy. “Tứ đại phiền não thường tướng tùy” đó là chúng ta, chúng ta không thể không biết.
Trong bốn phiền não lớn, thứ nhất là “Ngã kiến”. “Kiến” chính là kiến giải, hiện tại chúng ta gọi là nhận biết. Cái nhận biết này sai lầm, nhận sai ngã. Ngã kiến chính là chấp trước có ta. Có ta thì liền có tham sân si, dẫn đến có ta tham, ta sân, ta si. Mạt Na là tướng thường tùy trong bốn phiền não lớn, tức căn bản phiền não. Chỉ cần có ngã kiến, tham sân si ba độc nhất định liền kéo theo sau. Thỉnh thoảng kinh nói ngã ái, ngã ái chính là tham: tôi thấy, tôi yêu, tôi si, tôi mạn. Cũng có kinh nói là tôi thấy, tôi tham. Cái tham cùng ái đó là một ý nghĩa tôi tham, tôi si, tôi mạn. Hiện tại chúng ta hạ thủ từ đâu? Lão sư dạy buông bỏ, chúng ta hiểu rõ đạo lý này, buông bỏ từng li từng tí. Trước tiên phải hạ thủ từ “tôi tham, tôi mạn”.
Đối với tất cả pháp của thế gian, đặc biệt là hưởng thụ trên vật chất, kinh Hoa Nghiêm nói, không cầu ngũ dục. Ngũ dục là “tài, sắc, danh, thực, thùy”, nếu không thể triệt để buông bỏ thì từ từ mà buông. Tóm lại, không buông không thể được, đó là “tham”, tham sân si đều nằm trong đó. Phải buông bỏ ngã mạn, tính tình nông nổi, cống cao ngã mạn, xem thường người khác, lỗi lầm này đều rất nghiêm trọng. Cho nên phải học cái gì? Học tôn trọng người khác, học quan tâm đến người. Những nhà khoa học Tây phương khuyên bảo chúng ta phải học yêu thương người, điều đó hoàn toàn đúng. Thế nhưng họ nói không được thấu triệt.
Trường hợp thân chứng của Lục Tổ Huệ Năng
Chúng ta phải hiểu rõ chân tướng sự thật việc “buông bỏ chấp trước” mặc dù không dễ dàng để hiểu rõ. Chỉ có Phật Thích Ca Mâu Ni nói trong kinh điển là tuyệt đối chính xác, vì Ngài đã thân chứng. Ba ngàn năm trước, người y theo dạy bảo của Phật đà mà học tập, qua nhiều đời trong nước ngoài nước, cũng có không ít người thân chứng. Ở Trung Quốc, người thân chứng rất nhiều, nhưng nổi tiếng nhất, danh tiếng tiết độ lớn cũng không qua được Đại sư Huệ Năng, tổ thứ sáu của thiền tông. Ngài chứng đắc ở tuổi 24, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều buông bỏ. Có lần hòa thượng Hoằng Nhẫn, ngũ tổ giảng kinh Kim Cang cho ngài, giảng đến “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, nếu ngài giống người bình thường, làm sao có thể đại triệt đại ngộ. Sau khi nghe giảng, ngài trả lời lão sư “Nào ngờ tự tánh, vốn tự thanh tịnh”, “Nào ngờ tự tánh, vốn không sanh diệt”, Ngũ tổ nghe xong biết ngài đã chân thật triệt ngộ, vọng tưởng buông bỏ, vô minh đoạn. Nếu vô minh không đoạn, ngài đã không thể nói ra được mấy câu này.
|