Năm 1981, tôi được gọi tên ra khỏi nhà tù Cộng Sản. Hơn sáu năm tù là tiêu chuẩn thấp nhất cho tù quân, cán, chính, đảng phái, tôn giáo Việt Nam Cộng Ḥa
Năm 1981, tôi được gọi tên ra khỏi nhà tù Cộng Sản. Hơn sáu năm tù là tiêu chuẩn thấp nhất cho tù quân, cán, chính, đảng phái, tôn giáo Việt Nam Cộng Ḥa
Thông thường, tù được thả về vào những dịp lễ, tết. Tôi ở tù vùng núi rừng tây bắc Việt Nam, được thả về trước tết âm lịch. Đi xe lửa Hà Nội - Sài G̣n, về đến ga B́nh Triệu th́ đúng vào 29 tháng chạp âm lịch. Tôi đi bộ từ ga B́nh Triệu về đường Vơ Duy Nghi, Phú Nhuận (Sài G̣n). Khi đi tù, tôi có gửi thư về nhà cha mẹ vợ, ở đường Vơ Duy Nghi, là nơi vợ tôi và hai đứa con tá túc, nhưng không thấy trả lời cũng chẳng được thăm nuôi trong mấy năm đi tù. Nhờ sức trai, tôi chịu đựng được chứ mấy ông lớn tuổi mà không có thăm nuôi, bịnh hoạn, đói lạnh, chết gần hết. Tôi từng thấy nhiều ông tù chết, được bó bằng cái chăn rách của ông ta, bỏ lên xe cải tiến, kéo đi trong sân, ra cổng. Hai cái chân khô đét, xanh lét tḥ ra khỏi xe, nhịp lên nhịp xuống theo bánh xe gập ghềnh, tưởng như người chết nằm rung chân khoái trá được vĩnh viễn ra khỏi nhà tù, lên g̣ nằm ngủ khỏe, khỏi phải “lao động là vinh quang"
Khi tôi đến nhà bên vợ, mới bước lên thềm, tôi đă dội ngược. Nghe giọng Bắc Kỳ 75, tôi biết gia đ́nh cán bộ đang ở trong đó. Như vậy, gia đ́nh bên vợ tôi đă bị đánh tư sản, tài sản bị tịch thu, cả nhà bị đưa lên kinh tế mới. Chẳng biết vợ con tôi bây giờ ra sao? Tôi ôm gói đồ tù, gồm quần đùi, khăn lau mặt và bàn chải đánh răng. (Người tù, khi được thả về, tất cả áo quần, mùng màng, lương thực thăm nuôi, thuốc men... đều để lại cho bạn tù, chỉ đem theo vật dụng đi đường) đi lang thang mà chẳng biết về đâu? Anh em ruột thịt chưa chắc đă dám chứa “tù ngụy” trong nhà v́ sẽ bị công an các cấp đến hạch sách, hăm dọa thường xuyên, nên tôi chẳng hi vọng ǵ ở từ tâm của bà con, bạn bè. Có lẽ phải sau tết, tôi đến hàng xóm của gia đ́nh bên vợ hỏi thăm tin tức th́ họa may.
Tôi cứ đi ḷng ṿng trên đường Vơ Duy Nghi, Hai Bà Trưng, Hiền Vương với cái bụng trống rỗng, nh́n ngơ ngáo mấy chậu bông tết người ta bày bán trước nhà thờ Tân Định, chứ không dám nh́n vào mấy tiệm bánh, hủ tiếu, phở. Đói bụng nên mũi rất thính. Mùi thơm của thức ăn từ các tiệm đó làm chảy nước miếng. Khoảng mười giờ tối, đi rả chân, tôi nằm đại vào một hiên nhà người ta, trên đường Hai Bà Trưng, bên kia đường là nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Hai bên lề đường Hai Bà Trưng, giăng đầy mùng của dân kinh tế mới. Họ là dân Sài G̣n, sau năm 1975 bị đánh tư sản. Nhà nước Cộng Sản tịch thu tài sản, đẩy lên kinh tế mới với hai bàn tay trắng, nơi rừng núi hoang vu khai phá đất đai sinh sống, nhưng bịnh và đói, chết dần, họ bỏ về Sài G̣n, ngủ lề đường cùng với dân bụi đời, vô gia cư, cầu bơ cầu bất.
Vừa thiu thiu ngủ, tôi bỗng bị đá vào người rồi có tiếng nạt “Ông nầy. Chỗ của tụi tôi, ai cho ông nằm đây?” Tôi giật ḿnh, lồm cồm ngồi lên, ôm gói đồ tù “Xin lỗi. Tôi tưởng không có ai”. Qua ánh đèn đường, tôi thấy hai cậu trung niên, khoảng bốn mươi tuổi, tướng bậm trợn, đứng chống nạnh nh́n tôi. Khi tôi bước xuống thềm, đi được mấy bước th́ bị gọi giật lại “Chú!” Tôi dừng lại, yên lặng quay nh́n “Chú có phải đi tù về không?” “Phải. Mà sao?” “Chú cứ ngủ đây đi. Tụi nầy ngủ lề đường cũng được” “Sao cũng được. Cám ơn”
Làm phật ḷng mấy tay nầy chỉ thêm phiền nên tôi phải vâng lời, quay lại, nằm xuống hiên, gối đầu lên bọc tù, nhắm mắt để đó chứ không ngủ tiếp được. Hai tay giang hồ nầy, lẽ ra, có thể nằm phần c̣n lại của hiên nhà nhưng lại giăng mùng ngủ trên lề đường, gần nơi tôi nằm. Cách giăng mùng của họ cũng đơn giản. Mấy cái túi hay xách, bị ǵ đó chắn trên đầu và dưới chân, đ́nh mùng cao độ hai gang tay, không chạm mặt người nằm bên trong, thật nhanh và thuận tiện. Hai cậu nằm trong mùng vừa chuyện tṛ vừa chửi thề rồi cười hắc hắc nghe thật ngang tàng. Tôi nằm nh́n thiên hạ qua lại. Xe gắn máy chạy vù vù, người đi bộ lê dép lẹp xẹp. Tôi không biết ngày mai đi đâu với cái túi trống trơn và cái bụng xẹp lép? Mấy năm tù đă làm cho đầu óc tôi mụ mẫm, chẳng thèm lo nghĩ. Đến đâu hay đó.
Trong tù, sáng nghe kẻng báo thức, dậy ra ngồi trước cửa nhà tù để cán bộ coi tù đếm tù, lănh mấy củ khoai mỳ hay trái bắp, ăn xong chờ kẻng để sắp hàng ra cổng, lao động. Chiều về, lại mấy củ khoai, trái bắp ǵ đó, ăn xong, ngồi cho cán bộ đếm tù rồi vô nhà tù nằm chờ giấc ngủ. Cán bộ khóa cửa nhà tù, bỏ đi. Khuya lại thường có bộ đội (vệ binh) mang súng đi tuần rỏn bên ngoài các nhà tù. Tù kiệt sức sau một ngày lao động, đói và mệt rả rời nên ngủ vùi, có thao thức mà nghĩ đến gia đ́nh cũng vô ích. Trong tù, chẳng ai biết ngày giờ, chỉ khi nào được chén cơm trắng với chút mỡ heo hoặc miếng thịt trâu mới biết là ngày lễ lớn hoặc tết nhất. Nghỉ một ngày lao động, ăn chén cơm là biết một năm đă đi qua nhưng không bao giờ tự hỏi ḿnh đă bao nhiêu tuổi rồi? Càng suy nghĩ càng mau chết v́ mất ngủ. Nhiều ông lớn tuổi, bịnh hoạn, tối nhắm mắt để rồi sáng hôm sau không thèm mở mắt. Cứ thế mà vào cơi hư vô... Đang suy nghĩ linh tinh th́ có hai ông xuất hiện, dừng lại trước hiên, nơi tôi nằm. Thấy mỗi ông một gói đồ tù trên tay, tôi biết ngay là bạn “đồng tù” nhưng làm thinh. Một ông thấy tôi nằm lỏ mắt nh́n, bèn hỏi “Anh ơi. Chỗ nầy c̣n trống, cho tụi tôi nằm đỡ. Được không?” “Đây đâu phải nhà của tôi. Mấy anh cứ tự nhiên” Hai ông bèn bước lên thềm, ngồi xuống, tựa lưng vào tường, duỗi chân, ẹo ḿnh coi bộ mệt mỏi. Họ nói chuyện rù ŕ nhưng tôi nghe rơ và biết họ cũng từ ngoài Bắc về chung một chuyến xe lửa cuối năm với tôi. Họ đối đáp nhát gừng nhưng vẫn đậm đà t́nh thân.
Họ kể về các trận đánh trong đó có bạn bè, người c̣n, người mất. Khi nhắc đến người bạn nào đă ngă gục ngoài chiến trường, họ tặc lưỡi, th́ thầm “... Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Tôi cũng tốt nghiệp sĩ quan nhưng về bộ binh, nghe họ chuyện tṛ, tôi biết hai ông là lính dù, một ông là đại đội trưởng, ông kia là sĩ quan pháo binh tiểu đoàn dù. H́nh như họ cùng tiểu đoàn nên chuyện tṛ rất thân mật. Trong câu chuyện, chẳng ai nhắc đến bóng hồng nào mà toàn chuyện lính tráng, đánh đấm. Tuổi trẻ miền Nam lớn lên, vừa xong trung học, buông bút là vào quân trường cầm súng. Họ, đa số chưa có người yêu. Ba lô, súng đạn như người bạn đời, sinh mạng phó mặc cho viên đạn nhỏ bằng mút đũa hay mảnh pháo có khi chỉ bằng cái móng tay quyết định... Tôi may mắn, có vợ con, nhưng bây giờ cũng như khôngï. Tôi yên lặng nghe hai ông bạn đồng tù tṛ chuyện và nghĩ vẩn vơ. Khi Cộng Sản miền bắc phát động chiến tranh, đánh chiếm miền Nam, hàng triệu thanh niên trai trẻ lên đường chiến đấu để chống xâm lăng, bảo vệ tự do, an lành cho đồng bào miền Nam với sự trợ giúp của nước Mỹ. Nước Mỹ giúp miền nam Việt Nam để “be bờ” Cộng Sản. Đột nhiên, từ năm 1973, viện trợ Mỹ giảm dần rồi đến con số không. Một đô la cũng không có. “Nước Mỹ không có bạn, không có thù. Chỉ có quyền lợi của nước Mỹ”. Nghe nói họ bắt tay với Trung Cộng, để miền nam Viêït Nam cho Cộng Sản, đổi lấy ǵ đó. Thế là miền Nam bị bó tay. Súng không có đạn, máy bay, xe cộ, thiết giáp, tàu bè không có xăng, trong khi đó, cả một khối Cộng Sản quốc tế khổng lồ viện trợ tối đa cho Cộng Sản miền bắc, để họ kéo vào, thoải mái bắn giết quân dân miền nam. Người nào sống sót th́ đưa đi tù cải tạo, không có ngày về...
Thủ tướng Việt Cộng Phạm Văn đồng ra lịnh, đại ư “Không giết tên nào cả. Đưa hết bọn chúng lên vùng rừng thiêng nước độc, bắt làm thật nhiều, ăn thật ít, chúng sẽ chết dần, thế giới không thể biết được”. (ngay cả khi tù chết, họ cũng cho vùi xác rải rác trong rừng chứ không chôn một nơi nhất định). Tôi nhớ, sau tháng tư năm 1975. Ngụy quân, ngụy quyền (quân, cán, chính Việt Nam Cộng Ḥa) phải tŕnh diện ủy ban quân quản để được học tập cải tạo trong một tháng. Mấy tháng đầu chỉ lên hội trường học tập, nghe các cán bộ thuyết tŕnh “mười bài”. Một lần, trong một buổi “lên hội trường”, cán bộ đứng trên bục chỉ tay xuống bọn tù ngồi phía dưới chửi “Các anh là rác rưởi của rác rưởi...” Chửi xong cán bộ hỏi “Có ai có ư kiến ǵ không?” Một ông tù xin phát biểu “Việt Nam Cộng Ḥa là một quốc gia riêng biệt, có lănh thổ, có dân, có chính quyền do dân bầu lên, được quốc tế công nhận, không gây thù chuốc oán ǵ với miền Bắc, v́ sao các ông vào bắn giết chúng tôi, bỏ tù chúng tôi c̣n bảo rằng chúng tôi có nợ máu với nhân dân?...” Nghe đúng bài ḿnh đă thuộc, cán bộ vui vẻ giảng rằng “Chúng tôi vào giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ. Các anh tiếp tay với đế quốc Mỹ, làm tay sai cho chúng để đàn áp, đánh phá sự nghiệp cách mạng, thống nhất đất nước của đảng và nhân dân ta. Các anh đáng bị xử bắn hàng trăm lần cũng chưa hết tội. Nay đảng và nhà nước khoan hồng, tập trung các anh vào đây để cách ly các anh khỏi bị nhân dân căm thù, đ̣i nợ máu các anh đồng thời tạo cơ hội để các anh nhận biết tội lỗi của ḿnh mà lập công chuộc tội, ra sức lao động, học tập để tiến bộ thành công dân tốt xă hội chủ nghĩa, đuợc đảng và nhà nước khoan hồng cho về sum họp với gia đ́nh. Các anh hiểu chưa? Có ai ư kiến ǵ nữa không?” Ông tù đó lại giơ tay, đứng lên “Theo như tài liệu cán bộ cho học tập th́. Năm 1959 miền bắc đă mở đường “Trường Sơn 59”, đưa quân vào nam. Năm 1960 đă lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, măi đến năm 1964, Mỹ mới đổ quân vào Đà Nẵng. Như vậy, trước khi Mỹ vào Việt Nam, các ông đă nhận lệnh của Nga, Tàu, nhận súng đạn của Nga, Tàu vào bắn giết, giật ḿn xe đ̣, pháo kích vào trường học, chôn sống đồng bào vô tội miền Nam. Như thế th́ ai có nợ máu với nhân dân?...” Nghe chưa dứt câu, cán bộ giận xanh mặt rít lên “Đem nó đi cùm!” Ông ta bị công an vơ trang bao vây quanh đấy lôi đi. Tối đó ông ta bị công an thay phiên nhau đánh đến chết, vất xác trong rừng... (Sau nầy, trước đền thờ tổng bí thư Lê Duẫn có khắc câu mà Lê Duẫn thường nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô Trung Quốc” Câu nói khiến cho quân đội nhân dân Việt Nam (Việt Cộng) ngỡ ngàng. Cựu đại tá Tư Cúc (Lê Cúc) phải kêu lên “Hóa ra quân đội nhân dân Việt Nam là lính đánh thuê cho Liên Xô, Trung Quốc
Lúc đó đă về khuya, đường phố vắng tanh, hai cậu bụi đời đă im tiếng, h́nh như đang nằm lắng nghe hai ông bạn tù của tôi tṛ chuyện. Bỗng cái mùng động đậy và hai cậu chui ra, đứng dưới thềm, trước hai ông bạn tù, người thẳng đơ, đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh. Một cậu nói lớn “Trung sĩ nhất Nguyễn văn..., đại đội..., trung đội..., tŕnh diện đích thân” Cậu kia cũng đứng nghiêm xưng tên họ, cấp bậc, đơn vị nhưng lại “Tŕnh diện thẩm quyền”. Thông thường, lính gọi sĩ quan cấp trên trực tiếp bằng cấp bậc hoặc các chức danh tùy ư “Ông thầy, đích thân hoặc thẩm quyền...” Th́ ra các cậu đều là lính dù. Như một phản xạ, hai ông bạn tù cũng chào tay “Chào hai anh. Hai anh ngồi xuống!”. Hai cậu ngồi trên hiên nhà, chân tḥng xuống lề đường. “Tụi em nằm nghe mấy ông thầy nói chuyện mới biết là sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Ḥa đi tù về”. Một cậu ngậm ngùi “Từ ngày mất nước, các cấp chỉ huy đi tù, tụi em tan hàng, bơ vơ, buồn muốn chết. Tụi em nhớ đơn vị, nhớ cấp chỉ huy, nhớ súng đạn, ba lô... nhớ đủ thứ. Lúc năy, nằm nghe hai ông thầy nói chuyện, tụi em mừng quá, tưởng như c̣n đang ở đơn vị”. “Bộ mấy cậu không bị tù cải tạo sao?” “Có, nhưng ở địa phương, tụi em bị tập trung một thời gian để nghe chửi là tay sai đế quốc Mỹ, rồi bắt đi nông trường làm thủy lợi, sau đó được đưa sang Căm Bu Chia vác đạn cho bộ đội làm nghĩa vụ quốc tế, đánh nhau với Khờ Me đỏ. Tụi em bỏ trốn về Sài G̣n” Tôi ngồi lên “Ḿnh nói chuyện có làm phiền chủ nhà không?” “Ông thầy khỏi lo. Họ ngủ trên lầu. Hai ông bà chủ nhà có con là đảng viên làm lớn, được cấp nhà tịch thu của tư sản. Tụi em ngủ ở đây, giữ ǵn sạch sẽ, khỏi sợ trộm cắp nên họ để yên”. Hai cậu bụi đời th́ thầm với nhau rồi cậu trung sĩ đứng lên, trịnh trọng thưa “Thưa, mấy khi thầy tṛ được gặp lại nhau, tụi em có ư kiến như thế nầy. Tụi em đi kiếm rượu và mồi nhắm để mấy ông thầy và tụi em lai rai đón giao thừa...” Một ông cười khan “Nghe văn chương của cậu là hiểu ư rồi đó. Tụi nầy vô sản, mấy cậu kiếm xị đế là đủ rồi, khỏi mồi miết phiền phức, tốn kém” “Không bao nhiêu đâu. Mấy tiệm phở sắp đóng cửa, họ bán xí oách rẻ đui. Ḿnh không lấy họ cũng đổ bỏ” “Khuya rồi, ai mà c̣n bán rượu nữa?” “Ông thầy khỏi lo. Tụi em là mấy con ma, chỗ nào không biết!”.
Buổi “tiệc đón giao thừa” gồm hai xị đế và thau xí oách (xương ḅ, xương gà) với một cái ly nhỏ để trên một tờ báo được trải ra. Người nầy “dzô” xong một ly th́ rót cho người kế tiếp, cứ thế xoay ṿng. Nhờ hơi men, những câu nói nhát gừng đă thành rôm rả. Những người lăn lộn chiến trường thường lầm ĺ, ít nói, chỉ khi có tiếng súng nổ mới kích động được họ xông lên phía trước. Trong chiến trận, chính những người trực tiếp chỉ huy trung đội, đại đội mới là người quyết định chiến trường. Sống chết bên nhau, họ thương yêu nhau c̣n hơn ruột thịt. Giờ đây, chiến trường đă im tiếng súng, họ là kẻ chiến bại, là kẻ mất nước, bị đối phương khinh miệt, tù đày, hành hạ để trả thù. Người lính Việt Nam Cộng Ḥa đă biến mất, chỉ c̣n lại những con người sống ngoài lề xă hội, vất vưởng, bơ vơ. Nhưng trong tâm tưởng người dân miền Nam, người lính Việt Nam Cộng Ḥa vẫn là những người con thân yêu của đồng bào. Ḷng biết ơn không hề phai nhạc.
Buổi “tiệc” cuối năm càng về khuya càng thân mật, thỉnh thoảng có tiếng cười. Trong cái gia đ́nh nhảy dù nhỏ đó với bốn thầy tṛ cùng nhắc lại những ngày chiến đấu đầy gian khổ, sát cánh bên nhau, giúp đỡ, che chở nhau trong những giây phút hiểm nguy, đối diện với kẻ thù... Tất cả đă là dĩ văng, đă là những kỷ niệm mà họ cố quên. Cả cuộc đời với tuổi thanh xuân đẹp đẽ, sung sức nhất, họ đă dâng cho Tổ Quốc để rồi thành kẻ mất nước. Họ hỏi thăm nhau, ai c̣n, ai mất, những “ông thầy” trong đơn vị nầy, đơn vị kia. Cấp chỉ huy không thể nhớ hết binh sĩ dưới quyền, nhưng lính th́ không bao giờ quên những “thẩm quyền” đă chỉ huy ḿnh.
Ngoài đường đă vắng bóng người. Đường phố như ngủ say dưới ánh đèn vàng vọt. Lúc đó đă vào khuya. Đột nhiên, trong đêm vắng, vài tiếng pháo nổ lẻ tẻ, vang đến từø chợ Tân Định. Rồi như cùng hẹn trước, tiếng pháo đồng loạt nổ vang khắp nơi. Giờ giao thừa. Mọi người đón mừng chúa Xuân bằng những tràng pháo và lễ vật trên bàn thờ, trước cửa nhà. Bọn lính tráng chúng tôi, trước đây không bao giờ biết đến năm mới, năm cũ v́ thường xuyên hành quân nơi rừng sâu, núi thẩm, họa hoằn đi ngang qua một xóm làng xơ xác nào đó, nh́n đồng bào nghèo khổ v́ chiến tranh, thấy họ chẳng có ǵ để đón xuân mà ngậm ngùi, nay bỗng nhiên nghe tiếng pháo mà tưởng như thời c̣n chiến tranh, nhất là mùi thuốc súng mà người ta lấy thuốc đạn ra làm thuốc pháo. Suốt dọc hai bên đường Hiền Vương, đường Hai Bà Trưng tiếng pháo nổ liên tục chen lẫn với tiếng pháo tống, pháo đại khiến bản năng người lính bị kích động. Chúng tôi tưởng như ḿnh đang bị bao vây bởi kẻ thù với những họng súng đang hướng về chúng tôi mà khạc đạn. Từ trên lầu, nơi chúng tôi đang ngồi, chủ nhà tḥng xuống một dây pháo dài, nổ rang, những viên pháo đại rơi xuống đất, nổ chát chúa, xác pháo bắn vào chúng tôi, khói pháo mịt mù, nồng nặc mùi thuốc súng. Mùi thuốc súng khiến thần kinh những người lính chúng tôi càng thêm căng thẳng. Hai cậu cựu binh như bị đồng nhập, tay nắm lại, cằm bạnh ra, mắt trừng trừng nh́n hai ông cựu sĩ quan. Một cậu chồm tới, thét lên trong tiếng nổ hỗn loạn “Đích thân! Đích thân ban lệnh đi. Chả lẽ nằm đây chịu chết sao?”. Tôi quay nh́n. Hai ông cựu sĩ quan dù lắc đầu, mắt nh́n trừng trừng vào khoảng không trước mặt. Rồi nước mắt họ ứa ra, trào xuống g̣ má xương xẩu, long lanh ánh chớp của pháo nổ. Bỗng, một ông (sĩ quan dù) kêu lên, giọng điềm tỉnh.
- “418, đây 314, xin tác xạ, hết”
Ông ngồi bên cạnh (sĩ quan pháo binh), trả lời.
- “314, đây 418, xin tác xạ, hết”.
Thế rồi cuộc trao đổi truyền tin diễn ra.
- “Lệ Hằng, phải 1.5, lên 2.3 một khói nổ chạm.Bắn khi sẵn sàng, hết”
-“Lệ Hằng, phải 1.5 lên 2.3, một khói, hết”
- “Hướng 800, gần lại 100. Một khói, hết”.
- “Hướng 800, gần lại 100, một khói, hết”
- “Hỏa tập cận pḥng. Năm tràng, bắn hiệu quả, hết.
- “Năm tràng, bắn hiệu quả, hết” ...
Giọng hai ông bạn tù của tôi vẫn mạch lạc, điều động nhịp nhàng pháo binh yểm trợ như trong một trận chiến sắp nổ ra. Tôi h́nh dung một đại đội dù đóng quân trên một ngọn đồi, địch quân theo dơi, bao vây và t́m cách tràn ngập. Các toán tiền đồn gọi về báo động. Toàn đơn vị đă sẵn sàng chờ địch. Hai ông cựu sĩ quan dù như đang cùng hồi tưởng lại một một kỷ niệm chiến đấu nào đó đă xảy ra và hai cậu cựu binh cũng là những người đă từng tham dự những trận đánh đẫm máu...
Cuộc trao đổi truyền tin trong tiếng pháo giao thừa vẫn tiếp tục. Hỏa tập như càng lúc càng kéo gần vị trí đóng quân trong khi tiếng pháo vẫn chát chúa, khi xa, khi gần. Rồi tiếng pháo cũng lơi dần. Người chủ nhà trên lầu đă đốt hết dây pháo, nhưng ông ta lại gắn thêm một dây pháo nữa, lần nầy ba bốn phong pháo được chập vào với nhau nên pháo nổ càng dữ dội, và như cao hứng, những căn nhà kế bên cũng đem pháo ra đốt tiếp. Tiếng nổ càng dồn dập, khói súng càng mịt mù. Ông bạn tù lại cao giọng
-“Các hỏa tập cũ đều kéo vào 50, sẵn sàng bắn, vị trí sắp bị tràn ngập -“Hỏa tập cũ kéo vào 50, bắn, hết” ...
Cuộc trao đổi trở nên căng thẳng, gấp rúc khiến tôi nhớ lại những trận tấn công biển người của đối phương. Hỏa tập thường được kéo vào sát vị trí pḥng thủ để chặn địch tràn ngập. Hai cậu cựu binh ngồi chết sửng, thỉnh thoảng cựa quậy như không chịu đựng được các bắp thịt và thần kinh đang căng lên hết mức.
Vẫn giọng b́nh tỉnh.
-“418, đây 314, địch tràn ngập vị trí. Hỏa tập tối đa, nổ chụp ngay trên đầu tôi, hết”
-“Xin 314 nhắc lại, hết”
-“418, đây 314, địch tràn ngập vị trí, hỏa tập tối đa ngay trên đầu tôi, hết”
Giọng ông pháo binh khàn khàn, nghẹn ngào.
- “Bắn trên đầu bạn ư?”
-“418, đây 314. Có bao nhiêu ông phang hết lên đầu tôi. Đó là lời cuối cùng”
-“314, đây 418, xin xác nhận lại. Nghe tôi không? Xin 314 trả lời... Vâng, hỏa tập tối đa trên đầu bạn. Vĩnh biệt 314”...
Tiếng pháo giao thừa đă dứt. Cả thành phố im lặng như đang mặc niệm tử sĩ. Vẳng lại từ xa vài tiếng nổ lẻ tẻ, rời rạc rồi lịm dần, tưởng chừng như chiến trường đă bị kéo trôi đi xa, chỉ c̣n lại cảnh b́nh địa hoang tàn.
Tác Giả người lính