2. Dấu hiệu và triệu chứng nhiễm virus herpes type II (HSV-2)
Virus herpes simplex
Herpes sinh dục thường không có triệu chứng hoặc triệu chứng trung b́nh không được ghi nhận lại. Hầu hết người nhiễm không biết ḿnh đă nhiễm virus. Khoảng 10-20% người nhiễm HSV-2 đă bị herpes sinh dục trước đó.
Khi triệu chứng xảy ra, herpes sinh dục thường có một hay nhiều mụn rộp hoặc vết loét ở vùng hậu môn, sinh dục. Các triệu chứng khác bao gồm sốt, đau nhức người và sưng hạch lympho (sưng hạch bạch huyết).
Sau đợt nhiễm herpes sinh dục HSV-2 đầu tiên, các triệu chứng khi tái phát xảy ra thường xuyên nhưng không nghiêm trọng như đợt đầu. Mức độ tái phát có xu hướng giảm theo thời gian. Người đă nhiễm HSV-2 có thể thấy ngứa ngáy, những cơn đau ngắn ở chân, hông, mông trước khi xuất hiện loét sinh dục.
3. Đường lây nhiễm của virus herpes type II (HSV-2)
Virus herpes simplex
HSV-2 lây truyền chính qua đường t́nh dục, khi tiếp xúc với các bề mặt vùng sinh dục, da, mụn rộp hoặc dịch của người đă nhiễm virus. HSV-2 có thể lây từ da vùng sinh dục hoặc vùng hậu môn mà nh́n vẫn b́nh thường. Virus này vẫn có thể lây truyền ngay khi không có triệu chứng xuất hiện.
Trong trường hợp hiếm gặp, HSV-2 có thể truyền từ mẹ sang con trong lúc sinh.
4. Các trường hợp phức tạp gây ra bởi virus herpes type II
♦ HSV-2 và HIV
Cả 2 loại virus đều đă được chứng minh có ảnh hưởng đến nhau. HSV-2 làm tăng nguy cơ mắc HIV gấp 3 lần. Người mắc cả HIV và HSV-2 thường lây HIV cho người khác. HSV-2 là một trong những bệnh nhiễm phổ biến nhất của người bị HIV, 60-90% người nhiễm HIV cũng nhiễm HSV-2.
Nhiễm HSV-2 ở người nhiễm HIV (và những cá nhân suy giảm miễn dịch khác) thường có triệu chứng bộc phát dữ dội hơn và thường xuyên tái phát hơn. Đối với người đă sang giai đoạn AIDS, HSV-2 có thể gây nên những triệu chứng nghiêm trọng nhưng hiếm gặp như viêm màng năo, viêm thực quản, viêm gan, viêm phổi, hoại tử vơng mạc hoặc nhiễm trùng lan rộng.
♦ Bệnh năo herpes sơ sinh
Xảy ra khi bé sơ sinh tiếp xúc với HSV trong đường sinh dục lúc chào đời. Đây là một trường hợp hiếm gặp, xảy ra khoảng 10 trên 100.000 trẻ mới sinh toàn cầu nhưng có thể dẫn tới di chứng năo hoặc tử vong. Nguy cơ của herpes năo sơ sinh là cao nhất khi phụ nữ nhiễm HSV lần đầu vào cuối thai kỳ. Phụ nữ bị herpes sinh dục trước khi mang thai có nguy cơ rất thấp truyền HSV cho con.
5. Ảnh hưởng tâm lư xă hội
Các triệu chứng tái phát của herpes sinh dục có thể đau đớn và dẫn đến kỳ thị của xă hội. Những điều này có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng cuộc sống và mối quan hệ t́nh dục của người bệnh.
6. Chữa trị virus herpes type II
Thuốc chống virus như acyclovir, famciclovir và valacyclovir là các thuốc có tác dụng cho người bị nhiễm virus herpes. Chúng giúp giảm mức độ nghiêm trọng và thường xuyên của các triệu chứng nhưng không thể chữa khỏi bệnh.
7. Pḥng ngừa virus herpes type II (HSV-2)
Virus herpes simplex
Các cá nhân nhiễm HSV sinh dục nên ngưng hoạt động t́nh dục trong khi triệu chứng của herpes sinh dục đang xảy ra. HSV-2 lây nhiễm mạnh nhất trong đợt bùng phát của mụn rộp, nhưng cũng có thể lây khi không có triệu chứng.
Sử dụng bao cao su thường xuyên và đúng cách có thể giúp giảm nguy cơ lây lan herpes sinh dục nhưng không thể bảo vệ bạn hoặc bạn t́nh một cách triệt để bởi v́ HSV xuất hiện nhiều ở các vùng không được bao cao su bao phủ. Cắt bao quy đầu ở nam có thể bảo vệ một phần khỏi HSV-2, HIV và HPV.
Phụ nữ mang thai có các triệu chứng của herpes sinh dục nên báo cho bác sĩ thăm khám định kỳ. Pḥng ngừa nhiễm herpes sinh dục là đặc biệt quan trọng cho phụ nữ vào 3 tháng cuối thai kỳ v́ đó là thời gian mà nguy cơ bệnh năo sơ sinh do herpes cao nhất.
Y học đang nghiên cứu các loại vaccine chống lại HSV type 2 hoặc thuốc đặt âm đạo, hậu môn để pḥng ngừa các bệnh nhiễm lây truyền qua đường t́nh dục.
|