R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,119 Times in 13,135 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 161
|
Triệu chứng
Khác với suyễn gây tắc phổi cấp tính, nhất thời, tấn công cả các trẻ em, bệnh tắc phổi kinh niên (tức COPD, tên tắt các bác sĩ hay dùng), thường chỉ xuất hiện ở người lớn, đã hút thuốc khoảng 30 năm. Nhưng một khi nó xảy ra, thường nó sẽ từ từ tiến tới, trở nặng dần.
Đa số người bệnh bắt đầu đi thăm bác sĩ trong khoảng tuổi 40-50, vì ho có đàm. Thế rồi, đến tuổi 50, 60, họ cứ vận động một chút, lại thấy khó thở. Rồi lâu lâu bệnh lại trở nặng: ho, khạc đàm đặc vàng, khò khè như suyễn, khó thở, nóng sốt. Căn bệnh hiện nguyên hình. Bỏ thuốc lá sẽ khiến căn bệnh tiến triển chậm lại nhiều lắm. Không bao giờ quá muộn để bỏ thuốc lá.
Khi bệnh nặng dần, các cơn trở nặng (ho, khạc đàm vàng, khò khè, ngồi chơi không thôi cũng khó thở), không còn lâu lâu mới xảy ra nữa, nhưng xảy ra luôn.
Người tắc phổi kinh niên do viêm ống phổi kinh niên, có triệu chứng xảy ra sớm hơn người phế thủng, ho ra đàm đặc, vàng nhiều hơn, nhưng ít khó thở hơn người phế thủng. Người viêm ống phổi kinh niên trông mập mập, tai tái. Ngược lại, người tắc phổi kinh niên do phế thủng có triệu chứng muộn hơn người viêm ống phổi kinh niên khoảng 10 năm. Khi triệu chứng xảy ra, họ ho ít hơn, song khó thở nhiều hơn, có khạc ra đàm, đàm không đặc, vàng nhưng trăng trắng, trong như nhớt. Người phế thủng trông còm, gầy, hồng hồng.
Có điều, việc đời thường không trắng ra trắng, đen ra đen rõ như vậy. Đa số người tắc phổi kinh niên vừa có viêm ống phổi kinh niên, vừa có phế thủng trộn lẫn. Có người còn bị cả suyễn. Nên triệu chứng nhiều khi cũng không rõ rệt hẳn như tả trên, bác sĩ cần tinh ý, dựa vào sự thăm khám kỹ, đồng thời dựa vào các phương tiện định bệnh như phim ngực (chest X-ray, hay bị gọi không đúng là "phim phổi"), hoặc đo cơ năng phổi (pulmonary function test) để phân biệt.
Định bệnh
Người tắc phổi do viêm ống phổi kinh niên, như đã nói, trông mập mập và tai tái, xanh xanh (cyanosis). Trông họ có vẻ bình tĩnh, không khó thở, cũng không thở nhanh. Khám phổi nghe thấy những tiếng khò khè, lúc to lúc nhỏ, lúc nghe thấy ở chỗ này, lúc lại hiện diện chỗ khác, nếu bảo họ thở sâu và ho.
Người tắc phổi do phế thủng trông gầy gầy, hồng hồng. Trông họ như phải dùng sức để thở, mỗi hơi hít vào là một khó khăn, các bắp thịt ở cổ, ở ngực gồng cả lên, cố giúp phổi nở ra để hút lấy dưỡng khí quí báu vào phổi. Họ thở nhanh, môi chúm lại (pursed lips), mỗi lần thở ra lại gừ lên một tiếng nhẹ. Ngực người phế thủng khám thấy to phình, khi hít thở, không chuyển động nhiều như ngực người bình thường. Ngực gõ nghe bung bung như tiếng trống (hyperresonant). Hít vào thở ra có hai thì: thì hít vào (inspiratory phase) và thì thở ra (expiratory phase). Thì thở ra ở người phế thủng dài hơn bình thường, tiếng động phổi lại nghe xa xôi, mơ màng có chút khò khè với âm giai cao (high-pitch rhonchi) vào cuối thì thở ra. Vì ngực người phế thủng phình to, khiến tim bị đẩy lui vào sâu bên trong ngực, nên khi khám tim, tiếng tim cũng thoang thoảng xa xôi.
Phim ngực (chest X-ray) cũng cho thấy nhiều điểm khác biệt. Phim ngực người viêm ống phổi kinh niên cho thấy bóng các ống phổi và mạch máu (bronchovascular markings) tăng nhiều bất thường ở đáy phổi, bóng tim to lên. Trong khi phim ngực của người phế thủng cho thấy ngực phình to như thùng tô-nô (barrel chest), phổi trong bất thường, ít các bóng ống phổi và mạch máu, tim lại dài ra, thỏn nhỏ.
|