Thread: Your's Health
View Single Post
Old 05-12-2019   #769
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,150 Times in 13,135 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 161
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
Default

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 114 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (20/2/2009)

2/ NGHẼN MẠCH PHỔI ĐƯỢC PHÁT HIỆN TỐT HƠN Ở CÁC THIẾU NIÊN

Măi đến nay việc xác nhận chẩn đoán huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde) hay nghẽn mạch phổi (embolie pulmonaire) ở trẻ em và thiếu niên là điều khó khăn. Nhờ sự sử dụng các scanner multidétecteur thuộc thế hệ mới nhất, người ta có thể đánh giá rằng nguy cơ này nằm trong khoảng 15% và 20% sau vài can thiệp ngoại khoa chỉnh h́nh hay khi có những rối loạn đông máu.
(SCIENCES ET AVENIR 2/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 119 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (31/3/2009)

7/ VỚI NGÀY CÀNG NHIỀU NHỮNG CHUYẾN BAY ĐƯỜNG DÀI, TỶ LỆ MẮC CÁC BỆNH LƯ NGÀY CÀNG BAY CAO

Hiện nay, số hành khách hàng không đạt gần 2 tỉ mỗi năm. Các nguy cơ huyết khối nghẽn tĩnh mạch (thromboembolie veineuse) trong các chuyến bay đường dài, sự tiếp xúc với các bức xạ vũ trụ, những tác dụng do lệch giờ giấc và những thiếu sót về chất lượng khí trong các cabine, kết hợp lại để làm gia tăng những vấn đề sức khỏe liên kết với những chuyến không hành. Từ nay, vấn đề năng lực vật lư để thực hiện một chuyến không hành được đặt ra một cách gay gắt, đứng trước số lượng rất quan trọng các cá nhân, các khách du lịch hay những hành khách đi công tác ; Các hành khách ngày càng ư thức những vấn đề liên quan với các chuyến bay. Các thăm ḍ cho thấy rằng 95% các cá nhân vốn có những vấn đề sức khỏe, thích được nhận nhiều lời khuyên về y tế trước khi bay.

ĐỘ CAO TỪ 1524 ĐẾN 2438 m

Đâu là những vấn đề sức khỏe liên kết với những chuyến bay thương măi? Danielle Silverman và Mark Gendreau (Hoa Kỳ) đă điểm lại các tư liệu y học trong The Lancet.
• Áp suất bên trong cabine : sự điều áp (pressurisation) tương ứng với một độ cao 1524 đến 2438m, điều này khả dĩ gây nên những triệu chứng của bệnh ở độ cao (mal de l’altitude) ngay sau 3 giờ bay. Một điều áp ở cao độ 2.438 m làm giảm Pa02 từ 95 mmHg xuống c̣n 60, với một sự giảm 3-4% độ bảo ḥa của oxyhémoglobine; các hành khách bị bệnh phổi tắc nghẽn măn tính (BPCO) có thể bị một suy hô hấp nhẹ trong một chuyến bay.

Sau một phẫu thuật quan trọng, nên khuyên bệnh nhân phải đợi 2 tuần trước khi bay v́ lẽ khi áp suất bị giảm, sẽ có sự nỡ của chất khí (expansion des gaz) bên trong cơ thể.


• Chúng ta không nghĩ đầy đủ đến sự kiện là một t́nh trạng thiếu oxy hơi giảm áp (une hypoxie légèrement hypobare) làm gia tăng độ keo (viscosité) của máu và rằng sự mất nước cũng làm gia trọng độ keo này. Sự pḥng ngừa huyết khối (thromboprophylaxie) dựa trên những lời khuyên bỏ rượu, bỏ caféine, tránh sự bất động, với chỉ định dùng HBPM (héparine trọng lượng phân tử thấp) đối với những hành khách có nguy cơ ở mức độ vừa phải và đă không sử dụng thuốc kháng đông một cách thường quy. Việc sử dụng bas de contention thường hữu ích.


NHỮNG BỨC XẠ MẶT TRỜI
• sự tiếp xúc với các tia vũ trụ, nghĩa là những tia xuất phát từ hệ mặt trời, được liên kết với các hạt nhỏ (particules) của sưởi ấm mặt trời. Nhiều ung thư đă được liên kết với các tia vũ trụ (vú, da, u hắc tố) và những lời khuyến nghị đă được đưa ra nhằm giới hạn việc tiếp xúc của các nhân viên phi hành.

Những nghiên cứu về vấn đề này măi đến nay không cho phép xác định mối nguy cơ. Tuy nhiên, Cơ quan quản trị hàng không Hoa Kỳ khuyến nghị rằng các phụ nữ có thai (nhân viên phi hành hay hành khách) nên t́m kiếm trên Internet những thông tin phát xuất từ hệ báo động về những bức xạ mặt trời trước khi bay để không vượt quá giới hạn 1mSv (millisievert).


• Sự chênh lệch giờ giấc (décalage horaire hay jet lag), được liên kết với sự bất đồng bộ của các đồng hồ sinh học. Những loại thuốc khác nhau đă được đề nghị, nhưng mélatonine vẫn là điều trị chuẩn. Một phân tích méta 10 công tŕnh nghiên cứu (Cochrane) đă kết luận rằng uống 0,5 đến 5mg vào lúc ngủ trước khi đến, có hiệu quả làm giảm những cảm giác gây ra do sự thay đổi múi giờ.


• Các bệnh nhiễm trùng : việc g̣ bó trong những khoảng không gian giới hạn, trong những khoảng thời gian kéo dài, làm dễ sự phát tán của những tác nhân nhiễm khuẩn. Từ năm 1946, những trận dịch đă được liên kết với các hành khách hàng không như bệnh đầu mùa, bệnh lao, bệnh cúm, bệnh sởi, SRAS, các viêm ruột do siêu vi trùng.


Bây giờ các công ty hàng không sử dụng những máy lọc có hiệu quả cao để đổi mới hơn 50% không khí của cabine. Nguy cơ bị truyền bệnh trên máy bay được giới hạn vào những người ngồi gần một bệnh nhân, khoảng cách dưới hai hàng ghế. Người ta thiếu các dữ kiện về quy mô của các sự cố y khoa xảy ra trong các máy bay. Nhưng hầu hết đều không đáng kể và liên hệ đến những người trên 70 tuổi.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 3/3/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 265 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (7/4/2012)

5/ BƯỚC ĐỀU PHẢI CHĂNG CÓ THỂ CẢI THIỆN HY VỌNG SỐNG ?

Pesseur André Vacheron
Président honoraire de l’Académie nationale de médecine

Quote:

15 phút hoạt động vật lư mức độ nhẹ mỗi ngày làm gia tăng hy vọng sống 3 năm, theo một công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan được công bố năm 2011.
150 phút bước mỗi tuần được khuyến nghị đề pḥng ngừa những nguy cơ tim mạch.


T́nh trạng bất hoạt vật lư, thường đi đôi với một chế độ ăn uống quá nhiều calorie, làm dễ sự tăng thể trọng, chứng béo ph́, cao huyết áp, những bất quân b́nh lipide và bệnh đái đường.

Sự nhàn rỗi không hoạt động (sédentarité : từ chữa latin “ sedere ” nghĩa là ngồi) là một trong những tai ương của thế giới ngày nay. Thời gian trôi qua trước một màn ảnh ordinateur hay máy truyền h́nh đă trở thành một chỉ dấu cổ điển của t́nh trạng không hoạt động này. Đối với Tổ chức y tế thế giới, những người thực hiện dưới 30 phút mỗi ngày hoạt động vật lư ở mức trung b́nh có thể được xem như bất hoạt về mặt vật lư. T́nh trạng bất hoạt vật lư (inactivité physique) gia tăng với tuổi tác, bị làm trầm trọng bởi những yếu tố xă hội học và tâm lư học. Con người hiện đại không biết bước, chỉ biết xê dịch bằng xe hơi, các cầu thang cơ học và các thang máy.

T́nh trạng không hoạt động vật lư, thường đi đôi với một chế độ ăn uống quá giàu calories, làm dễ sự gia tăng thể trọng (surpoids), chứng béo ph́, cao huyết áp, những t́nh trạng bất quân b́nh lipide và bệnh đái đường. Đó là một yếu tố độc lập của tỷ lệ bệnh tật và tỷ lệ tử vong tim mạch. Ở những người bị bệnh đái đường, hoạt động vật lư cải thiện sự bắt giữ glucose bởi các tế bào cơ, gia tăng tính nhạy cảm đối với insuline và làm dễ sự kiểm soát đường huyết. Đó là một yếu tố quan trọng của điều trị. Ngày nay ta biết rằng những hiện tượng viêm làm dễ sự phát triển chứng xơ mỡ động mạch (athérosclérose).

SỰ TĂNG CAO CỦA CHOLESTEROL TỐT.

Một hoạt động vật lư đều đặn làm giảm những chỉ dấu (marqueur) của hiện tượng viêm. Nó cũng làm giảm sự ngưng kết của các tiểu cầu (agrégation des plaquettes) máu và nguy cơ bị huyết khối (thrombose). Hoạt động vật lư làm gia tăng “ cholestérol tốt ” HDL, có tác dụng bảo vệ thành mạch máu. Nó tạo điều kiện để làm giảm t́nh trạng tăng thể trọng, bệnh béo ph́ và sự nhàn rổi không hoạt động, cũng là những yếu tố nguy cơ làm xuất hiện các ung thư.

Câu trả lời xác định cho câu hỏi ban đầu một lần nữa vừa được xác nhận bởi những kết quả của một công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan được công bố trong Lancet ngày 1 tháng 10 năm 2011.

Các tác giả (Chi Pang Wen và các cộng sự viên) đă theo dơi hàng năm từ năm 1996 đến 2008 (trung b́nh 8 năm) một tập hợp 416.175 người (199.265 đàn ông và 216.910 phụ nữ) tuổi tối thiểu 20. Bảng câu hỏi ban đầu liên quan đến lối sống và hoạt động vật lư của những người được tuyển mộ. Hoạt động được đánh giá theo cường độ liên quan với những tương đương chuyển hóa : nhẹ như bước thông thường, vừa phải như chạy jogging, trung b́nh như bước nhanh, mạnh như chạy bộ, và theo lượng, số phút mỗi tuần.

Trong 8 năm, so sánh với những người không hoạt động, tỷ lệ tử vong toàn thể của những người có một hoạt động vật lư nhẹ (đi bộ b́nh thường) đă giảm 14%, tỷ lệ tử vong tim mạch giảm 19%, tỷ lệ tử vong động mạch vành 25%, tỷ lệ tử vong do tai biến mạch máu năo giảm 12%, tỷ lệ tử vong do bệnh đái đường 1%, tỷ lệ tử vong do ung thư 10%.

Sự giảm tử vong toàn bộ tỷ lệ với thời gian hoạt động vật lư hàng ngày và cường độ của nó : 15 phút hoạt động vật lư nhẹ mỗi ngày làm gia tăng hy vọng sống 3 năm, lợi ích gia tăng với thời gian và cường độ của hoạt động mỗi ngày.

Công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan đă có tính đến nhiều yếu tố có khả năng gây nhầm lẫn, những chỉ dấu của một t́nh trạng sức khỏe cơ bản tốt và những kết quả của nó đă không khác nhau tùy theo tuổi tác, giới tính, trọng lượng, sự hiện diện của một cao huyết áp hay bệnh đái đường.

Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă chứng minh lợi ích, trong pḥng ngừa tim mạch, của việc bước ít nhất 30 phút mỗi ngày hay 150 phút mỗi tuần. Công tŕnh nghiên cứu của Wen và các cộng sự viên chứng tỏ rằng hoạt động vật lư hàng ngày, ngay cả nhẹ, cũng có lợi ích. Thế mà hoạt động như thế không khó thực hiện cũng chẳng tốn kém ǵ...
(LE FIGARO 2/4/2012)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 281 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (24/9/2012)

3/ NHỮNG BỆNH TIM MẠCH Ở PHỤ NỮ : MỘT BÁO ĐỘNG ĐỎ.

GS Claire Mounier-Vehier, phó chủ tịch của Liên đoàn tim học Pháp, Trưởng khoa y học mạch máu và cao huyết áp thuộc bệnh viện tim của CHRU de Lille, giải thích làm sao kềm hăm tiến triển gia tăng của những bệnh lư này.

Hỏi : Ở phụ nữ, tỷ lệ tử vong do các bệnh tim mạch là ǵ ?
GS Claire Mounier Vehier : Theo registre của Hiệp hội tim học châu Âu, ngày nay, sau thời kỳ măn kinh, cứ 3 phụ nữ có một chết v́ một trong những bệnh tim mạch này, giết chết c̣n hơn cả ung thư vú ! Và, từ ít lâu nay, ta chứng thực rằng những bệnh lư này cũng ảnh hưởng lên những phụ nữ trẻ hơn, mặc dầu họ c̣n dưới tác dụng bảo vệ của oestrogène.

Hỏi : Sau thời kỳ măn kinh, những hormone này có một tác dụng bảo vệ bằng cách nào ?
GS Claire Mounier Vehier : Phải phân biệt những oestrogène tự nhiên với những oestrogène tổng hợp. Những oestrogène tự nhiên có một tác dụng giăn mạch, giữ cho các động mạch và các tĩnh mạch được mềm dẻo. Chúng cũng có một tác dụng chống huyết khối (action antithrombotique) và làm dễ sự tổng hợp cholestérol loại tốt. 5 năm sau thời kỳ măn kinh, với sự đánh mất oestrogène, các phụ nữ bị đối đầu với những nguy cơ khác nhau.

Hỏi : Tại sao tai ương này nói chung bị đánh giá thấp ở các phụ nữ ?
GS Claire Mounier Vehier :Theo những kết quả của rất nhiều công tŕnh nghiên cứu được tiến hành chủ yếu ở đàn ông, ta hằng nghĩ rằng những người đàn ông bị nguy cơ hơn nhiều do các yếu tố làm dễ như thuốc lá, sự căng thẳng nghề nghiệp, một sự tiêu thụ rượu quá mức, một t́nh trạng tăng thể trọng, một sự thặng dư cholestérol. Nếu ta chứng thực một tỷ lệ lưu hành gia tăng những bệnh tim mạch này ở các phụ nữ, đó là bởi v́ họ đă theo cùng những lối sống.

Hỏi : Trong đời sống một phụ nữ phải chăng có vài giai đoạn trong đó họ phải đặc biệt tự theo dơi hay không ?
GS Claire Mounier Vehier : Có 3 nguyên tắc. 1. Sự sử dụng thuốc ngừa thai chứa œstrogène tổng hợp, chỉ có thể được quyết định nếu không có tiền sử huyết khối (thrombose) và sau khi thực hiện một bilan lipid, đường và đo huyết áp. 2. Thai nghén, trong đó cùng những biện pháp tỏ ra cần thiết. 3. Thời kỳ chu măn (périménaupose) (trong 5 năm sau khi tắc kinh), trong giai đoạn này sự phát hiện một bệnh động mạch vành bằng épreuve d’effort (thí dụ trên thảm lăn) hay bằng siêu âm tim phải được thực hiện. Những bilan lipidique là thiết yếu. Nếu tất cả những kết quả đều tốt, một check-up mới sẽ được dự kiến 5 năm sau.

Hỏi : Những phụ nữ nào đặc biệt có nguy cơ ?
GS Claire Mounier Vehier : Theo Hiệp hội tim Hoa Kỳ (AHA), đó là những phụ nữ hút thuốc (bắt đầu từ 4 điếu mỗi ngày), những phụ nữ có một thời kỳ măn kinh sớm (trước 40 tuổi), những phụ nữ chịu nhiều căng thắng (grandes stressées), những người bị cao huyết áp, bị bệnh béo ph́, những bệnh nhân đái đường và những nạn nhân của một tai biến mạch máu. Tất cả phải tránh điều trị bằng hormone có chất cơ bản là œstrogène tổng hợp.

Hỏi : Những bệnh tim mạch nào là nguy hiểm nhất ?
GS Claire Mounier Vehier : 1. Những bệnh lư động mạch chủ, trong đó viêm động mạch các chi dưới, ngày càng thường gặp. 2. Nhồi máu cơ tim. 3. Tai biến mạch máu năo.

Hỏi : Ở Pháp, những biện pháp nào được thực hiện để pḥng ngừa những bệnh này ?
GS Claire Mounier Vehier : So với những người đàn ông, các phụ nữ không được phát hiện và điều trị đến nơi đến chốn. Điều này giải thích ở các phụ nữ sự tiến triển của những trường hợp tử vong do những bệnh này. Sự tŕ chậm trong điều trị là một vấn đề khẩn cấp.

Hỏi : Bà sẽ đề nghị ǵ nhân hội nghị sắp đến của Liên đoàn tim học Pháp ?
GS Claire Mounier Vehier : Thiết lập một sự hợp tác chặt chẽ giữa các thầy thuốc điều trị, các thầy thuốc chuyên khoa tim, các thầy thuốc chuyên về mạch máu (angiologue) và các thầy thuốc phụ khoa để họ xác lập đối với mỗi bệnh nhân những protocole thăm khám phát hiện. Mục đích là phát hiện càng sớm càng tốt sự xuất hiện của một vấn đề tim mạch. Một công tŕnh nghiên cứu dài hạn, hiện được thực hiện bởi GS Nicolas Dauchin (bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou) chủ yếu để nhận diện tốt hơn những dấu hiệu báo động của những bệnh lư này ở phụ nữ.
(PARIS MATCH 13/9 – 19/9/2012)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 285 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (10/11/2012)

7/ NHỮNG VẬN ĐỘNG VIÊN THỂ THAO KHÔNG CHUYÊN : NHỮNG NGUY CƠ TAI BIẾN TIM.

GS GS Franois Carré, médecin du sport et cardiologue thuộc hôpital Pontchaillou de Rennes, cảnh giác chống lại những hiểm nguy khả dĩ của một thực hành thể thao cường độ mạnh ở những người không được huấn luyện.

Hỏi : Khi nào ông cho rằng một thực hành thể thao (pratique sportive) trở nên quá mạnh ?
GS François Carré : Có hai giai đoạn trong quá gắng sức. Trong giai đoạn đầu tiên, những vận động viên thể thao này khó thở vừa phải. Họ c̣n có thể huưt sáo, hát lầm rầm nhưng buộc phải dừng lại từng lúc để cơ thể của họ thích ứng với những nhu cầu oxygène nhiều hơn. Giai đoạn thứ hai, ở những người chơi thể thao không chuyên (sportifs amateurs) này, có những nguy cơ. Thở rất hổn hển, bây giờ các vận động viên này buộc cơ thể ḿnh phóng thích quá nhiều adrénaline (một kích thích tố, khi được tiết quá mức, có hại cho tim), hormone này có thể gây nên một loạn nhịp tim, và, trong những trường hợp nghiêm trọng nhất, chết đột ngột.

Hỏi : Những nguyên nhân thường nhất của tai biến tim là ǵ ?
GS François Carré : Tuổi tác là một yếu tố quan trọng. Sau 35 tuổi, thường nhất đó là vỡ một mảng xơ mỡ (plaque d’athérome) trong khi gắng sức. Mảng vỡ bít một động mạch (huyết khối : thrombose) mang máu đến tim, và tim, do thiếu oxy, khi đó sẽ bị loạn nhịp, có thể có biến chứng rung thất (fibrillation ventriculaire) gây nên chết đột ngột. Nguy cơ này gia tăng ở những bệnh nhân bị một bệnh tim hay đă từng bị một nhồi máu. Trong giai đoạn hai quá mạnh này, thể thao không có tác dụng có lợi.

Hỏi : Ở những phụ nữ không được tập luyện, phải chăng những nguy cơ giống với những nguy cơ ở đàn ông?
GS François Carré : Ta ghi nhận ít trường hợp chết đột ngột hơn nhiều ở những phụ nữ này (cứ 6 và 8 trường hợp chết đột ngột xảy ra ở đàn ông th́ chỉ có một ở phụ nữ). Điều này ta không biết rơ tại sao. Phải chăng có lẽ bởi v́ những phụ nữ ít đua tranh hơn ?

Hỏi : Có những điều kiện môi trường không thuận lợi làm gia tăng những nguy cơ ?
GS François Carré : Có 3 trường hợp chính. 1. Trời quá nóng : trên 30 độ C. Điều này sẽ làm gia tăng quá mức nhiệt độ của cơ thể. Cơ thể sẽ khó làm quân b́nh giữa quá tŕnh làm lạnh (refroidissement) và sự cung cấp máu cần thiết đến các cơ đang hoạt động. 2. Trời quá lạnh : dưới 5 độ C. Các huyết quản khó mở ra để tránh quá tŕnh làm lạnh của cơ thể, điều này làm trở ngại tuần hoàn máu, có thể dẫn đến một sự thiếu oxy ở tim. 3. Khám phá mới đây : sự ở nhiễm trong những thành phố lớn. Trong trường hợp gắng sức mạnh, khi sự ô nhiễm đạt đến cao điểm có thể làm dễ sử xuất hiện loạn nhịp ở những người có sức khỏe kém.

Hỏi : Những triệu chứng nào nhất thiết buộc vận động viên phải dừng lại trong khi hoạt động thể thao ?
GS François Carré : Một cơn đau ở ngực, hồi hộp, những cảm giác chóng mặt, t́nh trạng khó ở, buộc phải ngừng tức khắc và, về sau, phải thăm khám thầy thuốc của ḿnh bởi v́ có thể có một vấn đề tim gây nên. Quá nhiều người đàn ông tin chắc rằng tim của họ được miễn dịch do một sự luyện tập đều đặn, và khi một triệu chúng xuất hiện, họ nghĩ rằng nguyên nhân là ở nơi khác : trung b́nh 50% những tai biến tim xảy ra ở những vận động viên thể thao phớt lờ những triệu chứng báo động.

Hỏi : Những lời khuyên của ông để thực hành một môn thể thao theo đúng quy tắc ?
GS François Carré : Trước hết, thể thao mang lại nhiều lợi ích : nó làm hạ huyết áp, nồng độ cholestérol xấu, cải thiện khả năng giăn của các huyết quản, làm giảm nguy cơ huyết khối (thrombose), làm chậm tần số tim. Nhưng trong trường hợp thực hành xấu, thể thao cường độ mạnh có thể gây nên những tai biến tim.

Về chạy bộ, phải bắt đầu từ từ (trong khoảng 10 phút) và chậm lại từ từ, uống nhiều nước trong khi gắng sức sau 40 hay 45 phút. Đối với những người nghiện thuốc lá, đừng bao giờ hút trong hai giờ trước và sau khi thực hành thể thao. Trong cuộc sống hàng ngày, một bài tập dai sức (exercice d’endurance), như bước nhanh trong 30 phút (ngay cả bị phân đoạn, như 3 lần mỗi lần 10 phút), đặc biệt tốt cho tim.
(PARIS MATCH 25/10 – 31/10/2012)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 286 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (19/11/2012)

8/ MỘT ĐIỀU TRỊ MỚI ĐỐI VỚI HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU

Việc điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu (TVP : thrombose veineuse profonde) trong nhiều trường hợp trở nên dễ dàng hơn.

TĨNH MẠCH. Từ cuối hè, một thuốc kháng đông mới được sử dụng để điều trị bệnh huyết khối tĩnh mạch sâu (TVP), ngày xưa được gọi là viêm tĩnh mạch (phlébite). Bệnh này được đặc trưng bởi một cục máu đông được tạo bởi chất sợi huyết (caillot de fibrine) trong một tĩnh mạch ở sâu, thường nhất là ở cẳng chân. Đó là một bệnh thường xảy ra, gây bệnh cho khoảng 1 người trên 1000 trước 60 tuổi, những nguy cơ được nhân lên gấp 10 sau 75 tuổi.

Huyết khối tĩnh mạch sâu, trong 60% các trường hợp, được phát hiện bởi một triệu chứng đau đột ngột và dài lâu. Phù, giới hạn các cử động và tăng cao nhiệt độ của da cũng có thể xuất hiện. Những triệu chứng này hiện diện trong một cẳng chân duy nhất, tính chất một bên (unilatéralité) là tiêu chuẩn chẩn đoán phân biệt chính. Vài yếu tố nguy cơ có thể định hướng chẩn đoán như những can thiệp ngoại khoa, những chấn thương trên các chi dưới, các ung thư, các điều trị hormone, thai nghén và hậu sản, liệt giường hơn 3 ngày, voyages ở tư thế ngồi hơn 5 giờ và vài yếu tố di truyền gia đ́nh.

“ Công cụ chẩn đoán là định lượng các D-dimères, nếu âm tính, cho phép 95% loại bỏ chẩn đoán bệnh huyết khối nghẽn mạch (MVTE : maladie veineuse thromboembolique) ”, GS Pascal Priollet, trưởng khoa y khoa mạch máu (médecine vasculaire) thuộc groupe hospitalier Paris Saint-Joseph đă nhấn mạnh như vậy. Siêu âm Doppler sau đó là thăm khám quy chiếu. Một h́nh ảnh đen và trắng của hệ tĩnh mạch, thêm vào đó sự đo lường bằng siêu âm ḍng máu chảy trong các tĩnh mạch, cho phép thấy được các cục máu đông làm tắc luồng máu. Ngay khi nghi ngờ một huyết khối tĩnh mạch sâu, thầy thuốc bắt đầu một điều trị kháng đông để pḥng ngừa biến chứng chính khi cục máu đông di tản đến các lá phổi, nghẽn tắc động mạch phổi (embolie pulmonaire), gây chết người trong 5 đến 30% các trường hợp.

HỘI CHỨNG SAU HUYẾT KHỐI (SYNDROME POST-THROMBOTIQUE)

Điều trị gồm có tiêm một thuốc kháng đông trong những ngày đầu, liên kết với một antivitamine K, thường nhất sẽ được duy tŕ trong 3 tháng. Điều trị này cần một sự theo dơi nghiêm túc vài yếu tố đông máu để duy tŕ ở một trị số có thể chấp nhận được nguy cơ chảy máu bằng định lượng máu INR (International Normalized Ratio), một trong những indicateur rất thường thấy của sự đông máu. Từ cuối hè, các thầy thuốc có
một thuốc kháng đông mới dùng bằng đường miệng, Rivaroxaban (Xarelto), được cho đơn độc ngay lúc đầu và thành hai giai đoạn, trước hết với liều lượng mạnh trong 3 tuần, rồi với liều giảm bớt.

Ưu điểm chính : thuốc kháng đông mới không cần phải theo dơi máu.“ Đó là một bước tiến không thể tranh căi, nhưng sự dễ dàng sử dụng không được làm quên những nguy cơ liên kết với việc sử dụng của một thuốc kháng đông ”, BS Marc Samara, trưởng khoa gây mê hồi sức ở bệnh viện Cochin Hôtel-Dieu, Paris, đă nhắc lại như vậy. Thuốc không được cho khi chức năng thận bị giảm, điều này thường là trường hợp ở những người già, tuy vậy lại sử dụng nhiều nhất một điều trị như thế.

Ngoài ra, nếu có một chất đối kháng (antidote) đối với các antivitamine K trong trường hợp quá liều, th́ một công cụ như thế sẽ không có để sử dụng trước một hay hai năm đối với những thuốc chống đông mới. Sự phấn khởi của các chuyên gia do đó không ngăn cản họ chủ trương thận trọng và một sự kiên nhẫn nào đó để học làm chủ điều trị mới này.

Dầu thuốc kháng đông được cho là loại thuốc nào, thời gian điều trị nói chung là 3 tháng. Trong vài trường hợp, nhất là khi một yếu tố nguy cơ thường trực được nhận diện hoặc khi đó là một tái phát, thời gian này có thể được kéo dài. Ngoại khoa chỉ được chỉ định đối với dưới 5% những bệnh nhân có một nguy cơ rất cao nghẽn tắc động mạch phổi (embolie pulmonaire) hay không thể nhận một điều trị kháng đông. Cần giữ nhiều tháng contention élastique được cho vào lúc bắt đầu điều trị để pḥng ngừa tái phát và các biến chứng.

Biến chứng thứ hai có thể xảy ra sau một huyết khối tĩnh mạch sâu, đặc biệt là khi viêm tĩnh mạch xảy ra ở đầu gối hay cao hơn, là hội chứng sau huyết khối (syndrome post-thrombotique), xảy ra ở 30% những người đă bị một huyết khối tĩnh mạch sâu. Hội chứng này gây đau, tắc tĩnh mạch kéo dài, phá hủy các van tĩnh mạch, phù, giảm vi tuần hoàn và làm dễ sự xuất hiện một huyết khối tĩnh mạch sâu mới cũng như, đối với những trường hợp nặng, gây loét (ulcération)

Vậy sau một huyết khối tĩnh mạch sâu, điều quan trọng là phải duy tŕ một sự theo dơi đều đặn trong 3 đến 6 tháng và, nhất là đừng quên biến cố này để có thể nhận biết một cách dễ dàng hơn những triệu chứng sẽ được gán cho nó.
(LE FIGARO 5/11/2012)

9/ HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU : NGUY CƠ GIA TĂNG TRONG TRƯỜNG HỢP UNG THƯ.

Nhiều chiến lược pḥng ngừa nguy cơ bệnh huyết khối nghẽn mạch (MTVE) từ nay được thực hiện ở những bệnh nhân bị ung thư. Thật vậy, nguy cơ này nhân 4 khi có một ung thư, với một tỷ lệ mắc bệnh gia tăng bởi v́ bệnh nhân sống càng ngày càng lâu với ung thư.

Bệnh huyết khối nghẽn mạch (MTVE : maladie veineuse thrombo-embolique) là nguyên nhân thứ hai gây tử vong của những bệnh nhân bị ung thư. 20% bệnh huyết khối nghẽn mạch được liên kết với các ung thư. Chính ung thư có thể chịu trách nhiệm sự hiện diện của một cục máu đông hoặc bởi v́ nó gây nên những biến đổi trong những yếu tố đông máu hoặc bởi v́ khối u đè ép các tĩnh mạch gần đó. Điều trị ung thư cũng có thể là nguyên nhân : hóa học liệu pháp (chmiothérapie), hormonothérapie và vài điều trị chống ngưng kết có thể làm dễ bệnh huyết khối nghẽn mạch. Những système implantable để làm dễ hóa học liệu pháp làm gia tăng nguy cơ này cũng như những can thiệp ngoại khoa và đặc biệt là những can thiệp liên kết với ung thư. Sau cùng những bệnh nhân bị ung thư có thể buộc bị bất động trong những thời gian dài, điều này làm gia tăng nguy cơ huyết khối.

Những khuyến nghị hiện nay chỉ rơ rằng phải thiết đặt một điều trị pḥng ngừa những bệnh huyết khối nghẽn mạch khi một bệnh nhân ung thư chịu một nguy cơ phụ như một điều trị ngoại khoa, vài hóa học liệu pháp hay một sự liệt giường kéo dài. Những chambre implantable làm gia tăng chủ yếu nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu của các chi dưới, với một nguy cơ nghẽn tắc động mạch phổi ít hơn. Sự thiết đặt một điều trị kháng đông trong trường hợp này chỉ được thực hiện nếu một huyết khối tĩnh mạch sâu phát triển.

CÁC THUỐC KHÁNG ĐÔNG.

Ở những bệnh nhân ung thư, các héparine có trọng lượng phân tử thấp (HBPM) chích là điều trị quy chiếu bởi v́ các antivitamine K dường như ít hiệu quả hơn đối với những huyết khối tĩnh mạch sâu liên kết với ung thư. Điều trị được duy tŕ trong tối thiểu 3 tháng để pḥng ngừa huyết khối và tốt hơn là 6 tháng nếu đó là một huyết khối đă xuất hiện. Chỉ khi người thầy thuốc dự kiến kéo dài điều trị ban đầu này th́ mới có thể chuyển qua các thuốc chống đông máu bằng đường miệng. Nếu không một trong những điều trị này có thể được áp dụng, th́ việc mổ để đặt một cái lọc (filtre) nhằm ngăn chặn sự đi lên của một cục máu đông đến phổi, có thể được chỉ định.

Ngoài ra những công tŕnh nghiên cứu dịch tễ học nhằm khảo sát mối liên hệ này giữa bệnh huyết khối nghẽn mạch và ung thư đă có thể chứng minh rằng, trong vài trường hợp, khi một huyết khối tĩnh mạch sâu hay một nghẽn tắc động mạch phổi không có nguyên nhân có thể nhận diện được (ngoại khoa, chấn thương, điều trị kích thích tố, thai nghén, liệt giường, du lịch), một ung thư sẽ được t́m thấy trong 6 đến 12 tháng sau chẩn đoán bệnh huyết khối nghẽn mạch. Những ung thư thường được gặp nhất trong những trường hợp đặc biệt này là những ung thư huyết học, những ung thư phổi và của ống tiêu hóa. Các chuyên gia hiện nay tự hỏi về lợi ích, đối với vài profile bệnh nhân huyết khối nghẽn mạch, t́m kiếm một ung thư khả dĩ xảy ra.
(LE FIGARO 5/11/2012)

10/ HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU : CẲNG CHÂN NẶNG HAY GIĂN TĨNH MẠCH CÓ PHẢI LÀ NHỮNG DẤU HIỆU BÁO ĐỘNG ?

“ Có hai cẳng chân nặng không phải là một triệu chứng báo hiệu huyết khối tĩnh mạch sâu, cũng như giăn tĩnh mạch (varices), GS Hervé Decousus, trưởng khoa nội và điều trị của CHU de Sainte-Etienne và phụ trách trung tâm thăm ḍ lâm sàng Inserm, đă nhắc lại như vậy. Mổ những tĩnh mạch, trên đó ta quan sát thấy một hồi lưu (reflux) nhẹ, sẽ không làm giảm những cẳng chân nặng. Cũng vậy, giăn tĩnh mạch và viêm tĩnh mạch không được lẩn lộn, ngay cả khi có những mối liên hệ với nhau.”

Varices là những tĩnh mạch bị giăn có thể thấy hay sờ được ở tư thế đứng, trong đó máu có thể đi ngược chiều, nhưng không gây hậu quả tai hại. Các varices có thể được điều trị nếu chúng gây nên quá nhiều khó chịu (đau, các rối loạn ở da, khó chịu về mặt thẩm mỹ) hay nếu kích thước quan trọng của chúng gia tăng nguy cơ chảy máu khi ta đụng chúng, mặc dầu những triệu chứng không tùy thuộc vào kích thước của các varices.

ECHODOPPLER SYSTEMATIQUE

Trong 20% các trường hợp, các varices xuất hiện sau một huyết khối tĩnh mạch sâu (TVP). Khi đó tĩnh mạch có thể rất bị tổn hại, do sự hiện diện của cục máu đông và tiến triển dễ dàng hơn thành loét (ulcère variqueux). Một echo-Doppler có thể phát hiện những di chứng của một huyết khối tĩnh mạch sâu và đưa đến một sự theo dơi sát hơn một varice phát xuất từ đó.

Huyết khối tĩnh mạch sâu cũng có thể gây nên phù và cảm giác cẳng chân nặng (jambe lourde) nhưng chỉ ở một phía. “ Một phụ nữ có thai kêu đau đột ngột ở lưng, nhất là về phía trái, với cẳng chân đỏ hồng và/hoặc phù có thể đó là một huyết khối tĩnh mạch sâu, GS Pascal Priollet, trưởng khoa y khoa mạch máu thuộc groupe hospitalier Paris Saint-Joseph đă chỉ rơ như vậy. Trái lại, nếu các cẳng chân nặng và phù cả hai bên, đó là do thai nghén, các triệu chứng này sẽ biến mất sau khi sinh.” Sự thiết đặt một contention élastique có thể cải thiện sự thoải mái. Ngược lại thể ngoại biên của huyết khối tĩnh mạch sâu rất thường liên kết với sự hiện diện của các varices bởi v́ sự tuần hoàn ít được thực hiện trong mạng tĩnh mạch ngoại biên hơn, do đó làm dễ sự tạo thành của các cục máu đông. Đôi khi được gọi là paraphlébite, thể ngoại biên của huyết khối tĩnh mạch sâu ít đáng lo ngại hơn so với thể sâu bởi v́ các biến chứng trong trường hợp này không trầm trọng như thế.

Mặt khác, các tĩnh mạch bị ảnh hưởng thường nhất có thể thấy được, điều này làm cho thể nông dễ chẩn đoán hơn. Tuy nhiên một công tŕnh nghiên cứu của Pháp mới đây trên 1500 bệnh nhân đă cho phép quan sát rằng, trong 25% các trường hợp huyết khối tĩnh mạch nông (TVS : thrombose veineuse superficielle), một huyết khối tĩnh mạch sâu cũng hiện diện. Mặt khác, 10% những bệnh nhân, ở họ khả năng một huyết khối tĩnh mạch sâu hay một nghẽn tắc động mạch phổi đă được loại bỏ, và như thế đă không nhận điều trị, có một tiến triển bất thuận lợi về một huyết khối tĩnh mạch sâu hay nghẽn tắc động mạch phổi. Sau cùng, 5% những bệnh nhân bị huyết khối tĩnh mạch nông có một nghẽn tắc động mạch phổi triệu chứng (embolie symptomatique). Một écho-Doppler từ nay được thực hiện một cách hệ thống để phát hiện những trường hợp huyết khối tĩnh mạch sâu liên kết và những tranh luận đang được tiến hành về lợi ích của một điều trị kháng đông liều thấp để pḥng ngừa những tiến triển thành nhưng dạng nghiêm trọng hơn.
(LE FIGARO 5/11/2012)
florida80_is_offline  
 
Page generated in 0.04035 seconds with 9 queries